Monday, June 24, 2013

Tại sao chúng ta phải Thiền và Sống Thiền?


Tại sao chúng ta phải Thiền và Sống Thiền?

Bởi lẽ, qua nhiều kiếp sống, chúng ta đã làm rất nhiều chuyện vô minh, cho nên khi chúng ta được sinh ra, thì trong thân thể của chúng ta đã in sẵn rất nhiều tin tức tốt xấu, mà chúng ta bắt buộc phải thừa kế.

Thật ra, rất khó xoá sạch những đặc tính xấu từ bên trong ADN. Ngoại trừ thông qua sự Thiền và Sống Thiền, chúng ta mới có thể xóa đi và rửa sạch, để trong đó không còn lưu lại những vết tích gì.
Nếu chúng ta luôn Thiền và Sống Thiền, thì mỗi ngày chúng ta sẽ xoá đi được một chút đặc tính xấu từ bên trong ADN; và nó sẽ không còn lưu lại trong tế bào của chúng ta nữa.
Rồi, sau đó chúng ta mới có thể làm những chuyện tốt hơn. Mặc dù chúng ta có Phật Tánh bên trong của chúng ta, nhưng những vết tích xấu còn lưu lại trong những tế bào sẽ bao phủ lên thành nhiều lớp, khiến chúng ta vô minh và xử lý mọi việc không theo ý của mình.
Nếu chúng ta không Thiền và Sống Thiền, thì không thể nào gột rửa được những vết tích có trong ADN ấy; và chúng ta sẽ không làm được gì nhiều. Đó là lý do tại sao chúng ta muốn hoàn thiện mình, nhưng không thể được, vì làm sao chúng ta có thể xóa sạch những vết tích phủ định đã được sinh ra trước khi chúng ta bước vào thân thể này.
Chúng ta đã có quá nhiều cái xấu in hằn trong tế bào của mình, và bây giờ chúng ta không cần phải thêm vào nữa! Vì thế, chúng ta hãy luôn Thiền và Sống Thiền để xóa sạch những vết tích phủ định ấy, rồi Phật Tánh bên trong của chúng ta sẽ hiển lộ.
Có thể khi chúng ta chưa Thiền và Sống Thiền 100% được, vì những vết tích ấy đã in hằn. Có thể chúng ta có cái thân thể chưa từng Thiền và Sống Thiền trong những đời sống trước đây. Cho nên trong đời sống này, chúng ta hãy tự nhiên làm BẢY ĐIỀU HOÀN THIỆN sẽ được trình bày sau đây ( tức là chúng ta luôn tự nhiên chuyên tâm Sống Thiền để rồi Thiền được tốt hơn ).
Không phải vì chúng ta tốt hay xấu, mà là dụng cụ chúng ta được thừa kế ra sao mà thôi. Vì vậy, chúng ta hãy biết tha thứ cho chính mình, hãy luôn Thiền và Sống Thiền để tìm lại chính mình trên con đường TRỞ VỀ.
Trong cuộc sống, chúng ta hãy lấy “BẢY ĐIỀU HOÀN THIỆN” làm kim chỉ nam trong quá trình Hành Sống Giải Thoát của mình. Và lấy sự: “CHUYÊN TÂM THIỀN ĐỊNH” làm nguồn động lực thúc đẩy cho quá trình ấy.

Tham, Sân, Si là ba thứ cần phải bỏ xuống. Và tự nhiên làm bảy việc cụ thể chúng ta mới có thể hoàn thiện. Việc thứ nhất là ĐẠI TỪ BI. Việc thứ hai là HOAN HỶ. Việc thứ ba là VÔ TÔI. Việc thứ tư là DŨNG CẢM. Việc thứ năm là LỢI THA. việc thứ sáu là DẸP TÀ. Và việc thứ bảy là VÔ CHỨNG. Chúng ta hãy bỏ xuống tất cả, ngay cả nhục thể này, chúng ta sẽ được tự tại giải thoát.Trong tâm thức chúng ta phải luôn khắc ghi những điều trên.

Chúng ta nên biết rằng: Tam độc Tham, Sân, Si là ba bức tường thành chắn kín và ngăn cách giữa Tam Giới và cõi Thanh Tịnh Vô Biên. Chúng ta hãy luôn kiểm soát mình ở mỗi phút giây và ý thức sống trong luồng mạch của Đạo-Pháp. Chỉ có như vậy, chúng ta mới dần dần bỏ được Tham, Sân, Si; và chỉ có như vậy, chúng ta mới đúng thực là một con người tự nhiên hoàn thiện. Rồi, lòng Tham, Sân, Si ở trong chúng ta sẽ được bỏ xuống một cách nhẹ nhàng và tự nhiên nhất.

Muốn tự nhiên hoàn thiện mình, chúng ta phải bỏ xuống Tham, Sân, Si; muốn tự nhiên hoàn thiện mình chúng ta phải làm bảy sự việc cụ thể. Sự định hướng này rất rõ ràng, từ việc chung là bỏ xuống cái Tham, Sân, Si, cho đến việc cụ thể là bảy hướng hành động toàn diện và sâu sắc.
Việc thứ nhất vô cùng quan trọng: Đó là lòng ĐẠI TỪ BI. Có nghĩa là chúng ta trãi rộng tình thương một cách tự nhiên đến với mọi người, mọi loài và vạn vật xung quanh. Muốn vậy, bước đầu chúng ta phải học từ những bài học tình thương gần gũi nhất mà Trời Phật đã dành cho chúng ta. Chúng ta có cha, có mẹ, có anh chị em, có gia đình và có những môi trường đầy đủ nhất để cho chúng ta học bài học tình thương. Rồi khi lớn lên, Trời Phật đã cho chúng ta những hoàn cảnh khác để nảy sinh tình Thầy trò, tình bằng hữu… Tất cả, tất cả chỉ là những bài học, những bài học đến với chúng ta mà thôi. Chúng ta nên biết rằng: nếu chúng ta dừng lại ở những thứ tình thương ấy thì chúng ta sẽ tự cột lấy chính mình lại. Thật ra, tất cả chỉ là những bài học, những bài học để mà học, rồi chúng ta còn phải vượt qua ranh giới của sự ràng buộc trong tình thương. Chúng ta cần phải vượt qua, vượt lên để rồi hoà trong tất cả! Chúng ta tự nhiên thương tất cả như thương người mẹ, người cha của chính chúng ta, chúng ta hãy thương yêu tất cả như yêu thương những người thân nhất của mình; và chúng ta hãy trìu mến với tất cả như trìu mến với đứa em dễ thương nhất. Chúng ta phải hiểu rằng: Tất cả những tình cha con, tình mẫu tử hay những tình thiêng liêng khác chỉ đem đến cho chúng ta những bài học ban đầu gần gũi nhất mà thôi. Và để rồi sau đó: Tình thương của chúng ta sẽ trãi rộng chan hoà khắp cùng đất trời vạn vật… Đến lúc ấy, chúng ta sẽ nghe được tiếng thì thầm của đá, tiếng nỉ non của cây, tiếng vui hót của chim muông, và tiếng mừng vui của đất trời vạn vật… Và chính lúc ấy, sự đồng nhất giữa chúng ta với tất cả những gì trong vũ trụ này sẽ được hội tụ một cách trọn vẹn nhất… Và chỉ khi nào chúng ta tự nhiên có được một thứ tình thương như thế, thì tất cả sự thương yêu, giúp đỡ hay những việc làm từ chính chúng ta sẽ được hoàn thiện một cách tự nhiên nhất.

Việc lớn thứ hai mà chúng ta phải hoàn thiện đó chính là lòng HOAN HỶ. Có nghĩa là chúng ta đừng bao giờ đánh mất niềm vui và hạnh phúc thật sự ở bản tâm của chính mình. Chúng ta phải hiểu rằng: Niềm vui và hạnh phúc chỉ vĩnh viễn tồn tại trong chúng ta, khi chúng ta luôn luôn sống trong luồng mạch của Đạo-Pháp và chúng ta luôn tự nhiên hằng sống trong biển bờ tình thương đầy tĩnh lặng. Thật ra, ở những giây phút nào chúng ta tự đánh mất bản tâm của chính mình và để cho những sự rối rắm ở cuộc đời xen lẫn đứt quãng trong luồng mạch của Đạo-Pháp; và chỉ những giây phút nào chúng ta để cho tất cả những sự tình bị chi phối dưới sự điều khiển và thống trị của khối óc, thì chính những giây phút ấy chúng ta sẽ không có được niềm vui và hạnh phúc thật sự. Hãy luôn ẩn mình ở trong Đạo và hãy luôn kiểm thảo chính mình trong từng phút giây của cuộc sống; và chỉ có như vậy, chúng ta mới đang dần hoàn thiện mình một cách tự nhiên nhất..

Việc lớn thứ ba mà chúng ta phải làm: Đó là sự VÔ TÔI. Tất cả những gì mà chúng ta tưởng rằng: Ta hay, Ta giỏi, Ta đẹp, Ta thông minh, Ta hơn người… và Ta là cái rốn trung tâm của vũ trụ này. Những cái Ta ấy được bao bọc trong sự kiêu căng, ngã mạn và thành kiến vô cùng to lớn của bản thân. Tất cả những thứ ấy phải được loại trừ, ngay từ khi chúng vừa mới khởi lên. Và sâu xa hơn nữa chúng ta phải diệt trừ tận gốc những động cơ thúc đẩy, những nguồn lực thúc giục các tư tưởng ấy hình thành. Đây là những bước ban đầu mà chúng ta phải thực hiện và sau đó tự nhiên hình thành sự VÔ TÔI trong tâm thức của chúng ta qua LÒNG ĐẠI TỪ BI, HOAN HỶ, TRÍ HUỆ và THIỀN ĐỊNH. Chúng ta phải hiểu rằng: Cái Ta là hình ảnh đan chéo chập chờn trong một trật tự sắp xếp, phát sinh hợp lý không dễ gì cỡi bỏ. Cái bản ngã ấy, không có một phương thuốc nào có thể chặt đứt được ngoại trừ chúng ta có một tâm thức đầy TRÍ HUỆ được đan quyện trong LÒNG ĐẠI TỪ BI và HOAN HỶ và THIỀN ĐỊNH. Chúng ta phải hiểu rằng: Để thật sự mình là một con người đang dần đến Sự VÔ TÔI trên con đường tự nhiên hoàn thiện mình, thì chính cái Tâm Thức đầy TRÍ HUỆ đan quyện trong LÒNG ĐẠI TỪ BI, HOAN HỶ và THIỀN ĐỊNH ấy phải luôn hằng sống trong bản tâm của chính chúng ta. Và chính cái Tâm Thức ấy là phương tiện để chúng ta tự nhiên chặn đứng và kiểm soát tất cả những luồng tư tưởng ngay từ lúc sắp khởi sanh. Và cũng chính cái Tâm Thức ấy, là dụng cụ hữu hiệu để chúng ta luôn quay lại và kiểm thảo lấy chính mình trong từng khắc giây của cuộc sống. Chúng ta nên biết rằng: Bản ngã là cái hố sâu nhất trong muôn vạn cái hố khác đang cản trở chúng ta trên con đường TRỞ VỀ. Nhưng chiều rộng của cái hố mới là quan trọng! Chính cái Tâm Thức đầy TRÍ HUỆ đan quyện trong LÒNG ĐẠI TỪ BI, HOAN HỶ và THIỀN ĐỊNH là cái thước đo vô hình, thu nhỏ lại chiều rộng của bất cứ cái hố sâu BẢN NGÃ nào mà chúng ta sẽ vượt qua. Và cũng chính cái Tâm Thức ấy là nguồn động lực mạnh mẽ nhất đẩy chúng ta qua một cách nhẹ nhàng, tự nhiên trước mọi cái hố BẢN NGÃ, mặc chiều sâu của nó. Thật ra, khi chúng ta vượt qua được hố sâu của BẢN NGÃ là con đường TRỞ VỀ đã được rút ngắn dần. Nhưng chúng ta không nên dừng lại mà phải thuận tâm thẳng đường tiến bước.

Việc lớn thứ tư trên đường hoàn thiện mà chúng ta phải thực hiện: Đó là lòng DŨNG CẢM. Lòng DŨNG CẢM chính là sức mạnh để chúng ta vượt lên trên tất cả mọi sự tình ở thế gian và tâm thức của chính mình. Chúng ta biết sức mạnh này có từ đâu không? Phải chăng, nó được kết tụ qua sự tập trung Thiền Định trí huệ sáng suốt; đồng thời sức mạnh ấy được tạo ra qua sự Sống Đúng Giáo Pháp trên ba lĩnh vực: tư tưởng, lời nói và hành động. Chúng ta nên hiểu rằng: DŨNG CẢM cũng chính là sự nhẫn nhịn và chịu đựng . Trước hết là chịu đựng sự điêu khắc tài ba của Trời Phật, sự điêu khắc tài tình của cuộc sống; và hơn hết là chịu đựng được sự điêu khắc tài trí của chính mình. DŨNG CẢM cũng chính là một bản năng đối diện và vượt lên trên tất cả những tình trạng khổ, những tình trạng không tốt, và những tình trạng không thoải mái… Cần phải có lòng DŨNG CẢM thì TRÍ HUỆ MỚI sẽ ngày một nảy sinh và nâng cao. Bởi lẽ: Tất cả mọi sự khi bị dồn nén, tự nhiên bị ép lại, để rồi loé sáng lên, Trí Huệ đột khởi, rồi chúng ta mới biết được cái gì gọi là Chân Lý.

Lòng LỢI THA chính là việc thứ năm trên đường hoàn thiện mà chúng ta phải làm. Lòng LỢI THA chính là lòng không tham cầu hay ham muốn bất cứ một thứ gì. Lòng LỢI THA cũng đồng nghĩa với Sự Bố Thí và Giúp Đỡ Ba La Mật. Khi chúng ta còn thích, khi chúng ta còn tham cầu hay ham muốn bất cứ một thứ gì thì chính chúng ta bị ràng buộc vào những thứ ấy. Lúc đó, tự chúng ta đã tạo ra trong chính mình những khoảng trống để lực lượng Ma Vương ngự trị. Và, khi những lực lượng Ma Vương đã ngự trị, thì nó sẽ không dừng lại một chỗ, lúc ấy nó như những vết dầu loang trong tâm thức, nó liên tục phát triển rộng ra và kéo theo bao nhiêu vấn đề phiền toái khác, cản trở việc tự nhiên hoàn thiện của chính chúng ta. Và chúng ta nên biết rằng: “Sự giúp đỡ và bố thí của chúng ta phải làm một cách tự nhiên và vô tư nhất, trong đó không có sự khống chế của đầu óc và không có sự điều phối bởi Luật Nhân Quả”. Thật ra, Chúng ta phải thật sự hành việc bố thí và giúp đỡ đúng như lời dạy của một vị Thầy: “Chúng ta từ túi rỗng đến, rồi túi rỗng đi. Chúng ta không có gì gọi là bố thí cho người khác cả. Chúng ta nợ toàn thế giới: Từ Quốc Vương cho đến hòn đá, cỏ cây, động vật…Tất cả, chúng ta đều nợ đồ của họ. Cho nên, không có gì để nói là chúng ta bố thí được”. Ở một góc cạnh khác, chúng ta nên biết rằng: Lòng LỢI THA cũng chính là sự Hỷ Xả, sự Tha Thứ, sự Hy Sinh… không để trong lòng một chút oán trách, căm thù hay hờn giận…

Việc lớn thứ sáu trên đường hoàn thiện mà chúng ta phải làm: Đó chính là Sự DẸP TÀ. Sự DẸP TÀ có nghĩa là dứt bỏ những luồng tư tưởng xấu, những lời nói và hành động đầy Ma Chướng. Sự DẸP TÀ cũng có nghĩa là dứt bỏ sự nóng giận mà thay vào đó là Tâm Yêu Thương. Và chúng ta nên biết: DẸP TÀ cũng có nghĩa là không nghĩ, không nghe, không nhìn và không nói về người khác và bên ngoài; mà hãy quay vào bên trong của chính mình, nghĩ về chính mình và lắng nghe từ tiếng nói thâm trầm của nội tâm sâu lắng. Sự DẸP TÀ cũng giống như dọn rác trong nhà sạch sẽ vậy - Rồi trở thành một thói quen - Khi ra bên ngoài, thấy rác dơ tự nhiên âm thầm nhặt sạch.

Và việc cuối cùng mà các chúng ta phải làm trên con đường hoàn thiện: Đó là sự VÔ CHỨNG. Sự VÔ CHỨNG có nghĩa là: Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng mình đã đạt được những gì trong quá trình tự nhiên hoàn thiện, mà chúng ta chỉ biết Sống một cách âm thầm, bình thường và tự nhiên nhất. Chúng ta phải VÔ CHỨNG trong sự Hành Thiền, VÔ CHỨNG trong cuộc sống, và VÔ CHỨNG trong tất cả những thậm thâm vi diệu của Đạo Pháp. Chúng ta nên hiểu rằng: Sự hành Thiền phải diễn ra một cách tự nhiên ở mọi lúc, mọi nơi. Thiền, để rồi tự nhiên phá vỡ những thành kiến. Thiền, để rồi tự nhiên len vào, tự nhiên đi sâu, và tự nhiên nâng tâm thức kết lại ở một bình diện cao hơn trong một chiều của một khoảng không gian khác. Thiền, để giúp cho chúng ta chuẩn bị một lực lượng tốt nhất, để chúng ta xử lý một cách trọn vẹn hơn đối với tất cả mọi sự tình đến với mình từ muôn mặt của cuộc sống Đời-Đạo. Sau đó, chúng ta sẽ phá vỡ mọi tấm màn vô minh, để rồi đưa mọi vấn đề ở chúng ta đến gần Chân Lý hơn; và cuối cùng ở chúng ta sẽ hiển lộ cái gọi là Toàn Sáng. Cứ như thế, như thế, và cứ như thế, tất cả những gì ở chúng ta sẽ tự nhiên được bỏ xuống mà chúng ta không hề hay biết nó đã ra đi khỏi chúng ta tự lúc nào… Thật ra, tất cả những sự bỏ xuống tự nhiên ấy, chính là sự nhiệm mầu, mà không phải là sự cần chứng: nào Quang, nào Âm, nào cảnh giới này kia kia nọ. Chúng ta chỉ biết âm thầm tự nhiên hoàn thiện mình, và hạnh phúc tận hưởng cái sự nhiệm mầu ấy. Thấy được Ánh Sáng, nghe được Âm Thanh hay thể nghiệm được cảnh giới thậm thâm vi diệu là một điều rất quý. Song, chúng ta nên biết rằng: Những thể nghiệm ấy chỉ sống mãi trong chúng ta, khi chúng ta tự nhiên chứng nghiệm được nó từ những sự tình đến với mình trong cuộc sống qua những vai diễn trên sân khấu cuộc đời mà chúng ta đang diễn một cách trọn vẹn nhất. Để rồi, những thể nghệm ấy, nó đi vào trong chúng ta một cách sâu lắng nhất ở những giây phút toạ Thiền và sống Thiền, đi vào chúng ta trong những giấc ngủ bình yên và đi vào ngay cả những giây phút mà chúng ta cảm thấy hạnh phúc trọn vẹn nhất.

Khi chúng ta luôn luôn sống và hoàn thiện bảy sự việc trên, chính là chúng ta đã biết tự quay xung quanh mình và đồng thời biết quay trong sự vận hà của vũ trụ. Đó chính là quy luật của quá trình tiến hoá. Và đó cũng chính là những bước đi mà chúng ta nhấc được bàn chân. Bản thân chúng ta phải luôn biết tự quay quanh mình, đồng thời biết tự quay trong sự vận hà của vũ trụ. Có như vậy, chúng ta mới thật sự tồn tại trên đường TRỞ VỀ. Và chỉ có như vậy, chúng ta mới thực sống hợp với Luật của Vũ Trụ: Đó là tự xoay và quay như bao vì tinh tú khác. Bằng không chúng ta cũng chỉ lẫn quẩn trong xiềng xích và mưu kế của Ma Vương mà thôi!

Bằng Trí Huệ tìm ẩn trong chính mình chúng ta hãy luôn sống để nâng dần: “sự đúng Chân Lý” ở từng vấn đề đến chỗ trọn vẹn. Thật ra bất cứ một vấn đề nào khi đã khai mở tột đỉnh thì Ánh Sáng Chân Lý sẽ rạng ngời hàm chứa cả Âm Thanh vi diệu và những làn sóng chấn động tương đồng. Ánh Sáng này là Ánh Sáng thực về con người thật của chính mình. Chính lực lượng của Ánh Sáng mà bản thân chúng ta đã khai mở ấy, sẽ được tập trung lại, và được nâng lên ở một bình diện khác cao hơn trong lúc chúng ta Thiền-Định. Và chính lúc này, ở trong chúng ta sẽ hình thành nên một thứ mà chúng ta gọi là Trí Huệ Mới. Và nguồn lực Trí Huệ Mới này sẽ làm tiền đề cho chúng ta mở tung và phá tan biết bao sự tình kế tiếp. Rồi, trong chúng ta hình thành một Trí Huệ mới, cao hơn và rộng hơn nữa. Cứ như thế, như thế và cứ như thế, tất cả mọi vấn đề sẽ được tuần tự phơi bày, để rồi cuối cùng là sự hiển lộ Chân Tâm trong Trí Tuệ Toàn Giác.

Xin được nguyện cầu cho tất cả anh chị em lúc nào cũng là một dòng sông êm ả, sâu, rộng và tươi mát, ngập tràn những nguồn nước mới trong ngần, và nhịp nhàng xuôi dòng trở về cùng với biển cả đồng một thể.

PHƯƠNG PHÁP SỐNG VUI HẠNH PHÚC

PHƯƠNG PHÁP SỐNG VUI HẠNH PHÚC

* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
Nhiều tiền ít tiền , không phung phí là được
Ai phải , ai sai , mình không sai là được
Biết ít biết nhiều , làm xong việc là được
Người già người trẻ , mạnh khỏe là được
Người giàu người nghèo , hoà Thuận là được
Ông xã về sớm về trễ, miễn về là được ,
Bà xã cho ăn cơm , cơm nóng cơm nguội có ăn là được
Người xấu người đẹp , có duyên là được
Nhà lớn nhà nhỏ , ấm no là được
Sung túc hay nghèo nàn , bình an là được
Xe mới xe cũ , chạy là được

Và luôn phải nhớ rằng ...

Vui cười không mệt , buồn phiền mới mệt
Yêu thương không mệt , ghen ghét mới mệt
Chân thật không mệt , gian dối mới mệt
Tương ái không mệt , tương tàn mới mệt
Rộng rãi không mệt , ích kỷ mới mệt
Khoan dung không mệt , khó khăn mới mệt
Khiêm nhường không mệt, khoe khoang mới mệt
Mỉm cười không mệt, tức giận mới mệt,
Đơn thuần không mệt, phức tạp mới mệt
Tương tư không mệt, đơn phương mới mệt
Chung tình không mệt, Đa tình mới mệt
Tình bằng hữu không mệt, tư tình mới mệt
Chân thành không mệt,giả dối mới mệt
Được mất không mệt, tính toán mới mệt
Thể chất mệt không phải mệt,tâm can mệt mới mệt
Đọc những điều này không mệt , thực hành mới mệt.

(Khuyết danh)

Sunday, June 23, 2013

VÔ NHẤT ĐẠI SƯ – KIM XÀ THÁNH GIẢ

VÔ NHẤT ĐẠI SƯ – KIM XÀ THÁNH GIẢ


LTS. Liên Tông sư tổ Huệ Viễn Đại Sư, Tổ thứ nhất trong số 13 vị tổ của Tịnh Độ Tông tại Trung Hoa, được người đương thời tôn hiệu là “Bích Xà Thánh Giả”. Sỏ dĩ có tôn hiệu này vì vô số rắn xanh đủ loại thường vây quanh đại sư để chờ nghe giảng pháp.

Tương truyền, vùng Lô Sơn có rất nhiều rắn độc, từng làm nguy hại tính mạng của dân cư trong vùng. Nhưng kể từ khi ngôi chùa Đông Lâm do Huệ Viễn Đại Sư dựng lên ở đây, thì các loài rắn dữ đều trở nên hiền lành, ngày lẫn đêm thường vây quanh đại sư để nghe kinh kệ.

Tại miền Nam Việt Nam, từ 1968 tới 1992, có Hoà Thượng Thích Thiền Tâm, ẩn tu trong núi rừng tỉnh Lâm Đồng, cũng đã “qui y” cho hàng ngàn rắn độc. Loại rắn vùng này mình có xọc vàng, kêu là kim xà, và vị cao tăng được tôn là Vô Nhất Đại Sư, Kim Xà Thánh Giả.

Sau đây là các trích đoạn từ sách “Vô Nhất Đại Sư Thích Thiền Tâm” do Ưu bà di Bảo Đăng biên soạn về vị Hoà Thượng có nhiều huyền thoại lạ lùng nhất, trong các vị cao tăng VN cận đại.
*
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, sinh năm 1924, tại làng Bình Xuân, quận Hoà Đồng, Gò Công, xuất gia từ năm 13 tuổi. Năm 1964, Hoà Thượng là Viện Trường Sáng Lập Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm. Hoà Thượng Thích Thanh Từ, vị thiền sư nổi danh tại VN hiện nay, và Hoà Thượng Thích Bửu Huệ, lúc đó là hai vị phụ tá của Hoà Thương Thiền Tâm.

Trong khi điều hành Phật Học Viện Huệ Nghiêm, Hoà Thượng Thiền Tâm còn giảng dạy Phật pháp tại Phân Khoa Phật học Viện Đại Học Vạn Hạnh, làm Giáo thọ tại các ni trường Dược Sư và Từ Nghiêm, phiên dịch và trước tác nhiều kinh sách giá trị, hiện vẫn đang được dùng cho việc tu học.

- Năm 1964-1965: Hoàn thành công việc soạn thuật bộ sách “Phật Học Tinh Yếu”, gồm 3 cuốn 1,2 v 3 dài trên 1,200 trang.

- Năm 1965-1966: Ngài hoàn tất việc biên soạn quyển “Niệm Phật Thập Yếu” gổm 10 chương, dài gần 400 trang (kể luôn các phần bổ túc sau nầy, trên 50 trang (1979-1980).

- Năm 1966-1967, Ngài hoàn tất hai quyển kinh sách:
1. Duy Thức Học Cương Yếu, gần 300 trang. Sách giảng dạy hầu hết các phần quan yếu trong Bộ Môn Duy Thức Học.

2. Đại Bi Tâm Đà Ra Ni Kinh, còn gọi là “Thiên Thủ, Thiên Nhãn, Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni Kinh,” trên 150 trang. Đây là quyển kinh Mật Tông, giảng dạy và hiển dương về oai lực của chú Đại Bi, một thần chú rất phổ thông đang được dùng trong hầu hết các khóa lễ hiện nay nơi Phật tự.

Năm 1974, Hoà Thượng Thiền Tâm xin từ chức Viện Trưởng Phật Học Viện Huệ Nghiêm, vào núi ẩn tu giữa hàng ngàn rắn độc. Năm 1992, nhằm ngày 14 tháng 12 dương lịch, Hoà Thượng viên tịch, thọ 68 tuổi.

Ba ngày sau, trong lễ khai mộ của ngài, mọi người hiện diện đều trông thấy một đôi kim xà màu vàng rực rỡ dài khoảng hai thước tây bò đến trước đầu mộ của Đại Sư, nằm im một chốc, đoạn cất đầu ngó lên ni sư trưởng tử Thanh Nguyệt, gật đầu ba lượt. Các hình ảnh về đôi Kim Xà này đều đã được ghi nhận đầy đủ bằng hình chụp và video. .

Phú An là một thôn nhỏ, nằm trong Tổng Đại Ninh, thuộc xã Phú Hội, Huyện Đức Trọng, Tỉnh Lâm Đồng (Tuyên Đức- Đà Lạt). Dân số nơi đây vào năm 1968, chỉ có chừng 50 mươi nóc gia mà trong đó khoảng 10 nhà là người Kinh (người Việt), số còn lại là của người Thượng (dân tộc thiểu số).

Đa số nhà người Kinh thì ở gần bên quốc lộ Đà Lạt-Sài Gòn (tức là quốc lộ số 20), còn nhà sàn của người Thượng thì nằm sâu trong rừng, cách quốc lộ khoảng chừng 3,4 cây số. Thôn này nằm trên bờ sông Đại Ninh, còn gọi là sông Đa Nhim, vì ở thượng nguồn của con sông này trên Đà Lạt, có đập thủy điện cao thế Đa Nhim. Chiều ngang của con sông rộng chừng 300 thước, chảy từ hướng Tây của Ấp, qua hướng Nam Đông-Nam của vùng Đại Ninh với một giòng nước ngọt, êm đềm, hiền hòa và mang nhiều chất phù sa mầu mỡ đã làm cho đất đai của vùng nầy, đã từ lâu trở nên vô cùng phong phú…

“Hương Quang tịnh thất” là nơi của cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm ẩn tu không nằm sát ngoài quốc lộ như đa số nhà của các người kinh khác trong thôn mà lại là nằm sâu bên trong, sát với khu vực của người Thượng %97 cho nên muốn vào đến chỗ trụ xứ của ngài thì phải đi bộ một khoảng đường rất xa mất gần cả giờ đồng hồ mới tới.

Vùng Phú An này (vào thời gian 1968) đặc biệt là chỗ của cố Hòa Thượng tịnh tu, vì là nơi rừng núi, ít người lai vãng và có lẽ cũng vì ở gần sông, suối nên có rất nhiều loại rắn khác nhau

Theo lời ngài kể lại, thì trong gần nửa năm đầu tiên về ẩn tu nơi đây, ngài gặp nhiều thứ rắn độc khác nhau, to có, trung bình có, nhỏ có. To thì cỡ bằng cột nhà, trung trung thì bằng bắp vế, nhỏ thì bằng bắp chân, cườm tay trở xuống v.v…
Có đôi lúc sau khi làm vườn xong, đến khi trở vào thất thì thấy rắn nó quấn đuôi trên ngạch cửa, thòng mình xuống, hả miệng, le lưỡi thở khè khè. Ban đầu thì ngài cũng có ý sợ, chần chờ không dám bước qua, nhưng rồi nghĩ không lẽ đứng ở ngoài sân hoài, hay là dùng cây đập đuổi thì gây thù oán khó lòng. Thôi thì cứ niệm Phật mà bước ngang qua đại, rủi có bị nó cắn chết thì mình cũng quy Tây, càng tốt chớ sao! Rồi ngài nhiếp tâm niệm Phật và nghĩ đến phép “từ bi quán” đoạn nhắm mắt, đi ngang qua cửa. Con rắn “đánh đu” mình qua bên này, bên kia chạm vào mặt, vào cổ lạnh ngắt mà ngài vẫn cứ làm tỉnh bước đi. Đến khi vào trong thất xong rồi mới mở mắt nhìn lại thì nó cũng vừa buông mình ra, rớt xuống đất nghe một cái đụi rồi bò ra ngoài rừng đi mất.

Lại có lần khác, sáng sớm thức dậy (để sửa soạn vào khóa lễ)… Vừa bước chân xuống “đơn” (tức là cái đi-văng nhỏ, bề ngang khoảng 8 tấc, bề dài khoảng 2 thước rưỡi của người tu) thì ngài có cảm giác như là đạp trúng phải vật gì tròn tròn và mềm mềm. Ngó xuống, té ra đó là một con rắn hổ đen thui, to bằng bắp chân đang nằm khoanh một đống ở dưới chân giường!

Ngài nghĩ:
- Cha chả, mình đạp trúng nó một cái mạnh như vậy, chắc nó cắn mình quá.
Liền niệm A Di Đà Phật năm bảy câu rồi đứng chết trân tại chỗ chớ không dám nhúc nhích. Còn con rắn kia dù bị ngài đạp trúng mà nó cũng không có phản ứng gì hung hăng hết, y ta từ từ cất đầu lên, nhìn ngài một hồi rồi le cái lưỡi đỏ lòm ra khè khè mấy cái đoạn nằm im trở lại.

Lúc đó ngài mới dám bước đi, vừa mở cửa ra vừa niệm Phật mà bảo với y ta rằng:
- Thôi sáng rồi, đạo hữu cũng nên về đi để cho thầy còn niệm Phật nữa.

Tưởng đâu nói khơi khơi vậy rồi thôi, không dè y ta dường như biết nghe nên y mới từ từ bung mình ra dài cả mấy thước, chầm chậm bò đến cửa một cách êm ái hòa bình, rồi ra ngoài rừng mất dạng.

Thêm một lần khác, đêm đó ngài niệm Phật và trì chú Đại bi đến khuya mới xong, vừa bước chân xuống cầu thang thì đạp phải lên một đống gì đó đen thui, to tướng, ngài biết chắc là rắn (quen với mấy người quá xá rồi!) nhưng cũng làm tỉnh niệm A Di Đà Phật một hồi, đoạn bước đến bàn viết, vặn đèn lên cho tỏ để xem thì thấy một con rắn quá to (không biết làm sao mà nó lọt vào nhà được trong khi cửa nẻo đã đóng kín rồi – sau này mới biết chúng nó là các loại rắn thần) đang cuộn tròn một đống bên cạnh đôi dép của mình. Nó nhìn ngài, ngài nhìn nó. Hai bên làm thinh ngó nhau một chặp, ngài vừa niệm Phật vừa hỏi y ta rằng:

- Phải đạo hữu vào đây để nghe kinh, nghe niệm Phật không? Nếu phải vậy thì gật đầu ba cái cho thầy biết đi.

Rắn ta liền gật đầu 3 cái. Cố hòa thượng biết rằng đây là loại rắn linh cũng ưa tu niệm chớ không có ý gì muốn làm hại mình. Cũng như các lần trước, ngài mở cửa ra bảo thôi đạo hữu hãy về đi… và y ta nhìn ngài với ánh mắt hiền lành rồi từ từ bò ra ngoài đi mất.

Từ đó trở đi, mỗi lần làm vườn hay tình cờ gặp phải các “người bạn dài thoòng, thấy dễ sợ” này thì ngài niệm Phật cho nó nghe một hồi, rồi mạnh đường ai nấy đi, việc ai nấy làm chớ không có xảy ra chuyện gì khác lạ cả.

Biết vùng này có nhiều loại rắn linh mến mộ tu hành như vậy nên ngài mới làm pháp “Du già thí thực”, hồi hướng công đức tu niệm của mình để bố thí đến cho loài rắn và nói rằng (nói khơi khơi một mình nhưng dùng tâm tưởng và tác ý cho loài rắn được nghe):

- Vì khác loài nhau, nên từ nay nếu như quý vị muốn nghe kinh chú và niệm Phật, v.v… để tu theo thì cứ ở ngoài sân chớ đừng có vào trong thất của thầy nữa.
Sau vài lần “truyền lịnh” như thế rồi thì từ đó về sau tuyệt nhiên không còn có một con rắn nào vào trong cốc nữa.

Nơi miền rừng núi cao nguyên này, thường thì có rất nhiều gò mối lớn đặc biệt của miền sơn cước. Chính cái thất mà ngài đang ở (Phương Liên thất) cũng nằm trên một gò mối lớn. Hầu hết gò mối đều là ổ hang của rắn cả, (rắn làm hang trong đó để ăn mối) gò mối càng lớn bao nhiêu thì rắn ở trong đó càng nhiều và càng to bấy nhiêu.

Như vừa lược qua, căn tịnh thất của ngài ở được xây cất trên một gò mối lớn (đã được san bằng) vì vậy nên có nghĩa là trên mặt đất thì cố Hòa Thượng ở, còn dưới mặt đất là rắn ở. Hòa Thượng đã vô tình “sống chung hòa bình” với cả đống rắn độc mà không hay biết chi hết. Sở dĩ các con rắn này nó không làm hại chi đến ngài là vì cứ mỗi tối, khi ngài niệm Phật, trì chú, hoặc lễ bái, sám hối, tụng kinh v.v… thì các “y ta” nằm im ở dưới nền nhà, hoặc là bò lên mặt đất, rồi ẩn hình nằm tại chỗ để nghe và tu theo. (Đây là lý do vì sao mà khi ngài mới dọn về – như đã có lược qua trong phần trước – là ở dưới chân giường, cầu thang… bỗng nhiên có rắn xuất hiện, con nào con nấy cũng dài đến cả mấy thước, to bằng bắp vế, nằm một đống đen thui trong cốc mà ngài không hiểu vì sao nó lại vào thất được, trong khi ngài đã đóng cửa nẻo kỹ lưỡng hết rồi).

Nhờ tu theo bằng cách “dựa hơi hòa thượng” các “ông dài” này dần dần trở nên linh thông biến hóa được. Do vì thầm cảm cái ơn trọng đại đó, cho nên các “y ta” kính lễ cố Hòa Thượng như bậc cha, thầy, còn các “y ta” thì giữ bổn phận của con, cháu hay đệ tử – Vì thế nên từ đó về sau các loài rắn này trở nên hiền hòa – chẳng những nó không làm cho ngài bực bội hay gây thương tổn chi, mà trái lại còn âm thầm theo bảo vệ cho “Sư Phụ” nữa.

Sau đây là một vài chuyện liên hệ mà khi còn sanh tiền, cố Hòa Thượng đã tự thân kể lại cho ni sư Thanh Nguyệt và cháu là Đ.Đ. bổn sư Thích Hải Quang nghe:
Có lần, cố Hòa Thượng đang ngồi làm cỏ tranh và xới đất bên cạnh một gò mối lớn ở phía sau thất (Phương Liên) của ngài – lúc ngài quơ tay ra sau lưng để cầm cuốc thì ngài lấy làm lạ mà nói trong bụng rằng: Ủa, sao bữa nay cái cán cuốc có vẻ là lạ và bự quá vậy? Ngài quay đầu ngó lại thì té ra là mình đang nắm nhằm cần cổ của một con rắn to bằng bắp chân người lớn, màu đen có sọc vàng.Rắn ta vì bị nắm cổ nên hả miệng, le lưỡi ra khè khè năm sáu tiếng làm cho ngài hết hồn vội vã buông tay ra và bước lùi lại phía sau, niệm Phật cả mấy chục câu mới định thần được. Xong rồi ngài đứng ngó y ta một lúc và nói rằng:

- Ủa nhà ngươi ở đâu mà ra đây, nằm sau lưng ta hồi nào vậy? Thôi hãy đi đi.

Ngài lấy tay xua, khởi ý đuổi đi. Rắn ta cũng ngó ngài một hồi, gật đầu mấy cái (giống như xin lỗi) rồi bò ra phía sau gò mối. Ngài đứng ngó theo xem nó bò đi đâu cho biết nhưng chờ hoài mà vẫn không thấy tăm hơi gì hết, mới nghĩ: Ủa, bộ nó còn nằm gần đây sao mà không thấy bò đi đâu hết vậy kìa? Ngài đi vòng quanh gò mối, tìm kiếm mấy lần mà cũng không thấy y ta đâu hết.

Khuya lại, sau thời khóa trì niệm (gần 4 giờ sáng) ngài đang ngồi trên ghế bên cạnh bàn viết nghỉ mệt, định bụng chút nữa sẽ pha cà phê uống thì nghe bên ngoài có tiếng gõ cửa. Ngài lấy làm lạ, trong bụng nghĩ rằng: Ủa, giờ này còn sớm quá mà sao Thượng lại tới gõ cửa vậy kìa? (Bởi vì mỗi buổi sáng mấy người Thượng ưa tới gõ cửa thất của cố Hòa Thượng để hỏi việc làm như là cuốc đất, phát cỏ hoang và lên giồng trồng khoai, sắn v.v…

Ngài mới đứng lên, đi ra mở cửa thì thấy: bên ngoài, trước thất của ngài là hai người Thượng một nam, một nữ, tuổi chừng 50, dung mạo rất đơn sơ, mặt mũi sần sùi, da dẻ đen đúa, cả hai đều mặc quần áo màu chàm trông cũng rất sơ sài, đầu hơi nhọn, đi chơn đất (không có dép, giày gì hết), bàn tay nhám nhúa giống như có vảy, đang chắp tay, cúi đầu chào ngài, miệng niệm Nam Mô A Di Đà Phật.

Ngài nghĩ bụng: Ủa, hai người Thượng này ở đâu đến mà thấy lạ mặt, mình ở đây cũng đã lâu rồi mà chưa quen với hai vợ chồng này. Ngài hỏi:

- Phải hai vị đến xin việc làm hôn?
Hai người ấy đáp:
- Mô phật, kính bạch Hòa Thượng không.
- Ủa, vậy chớ có chuyện gì cần không mà gọi cửa tôi sớm quá vậy?
Người đàn ông đáp:
- Bạch Hòa Thượng, hai vợ chồng con đến đây để xin lỗi Hòa Thượng về chuyện đáng tiếc ban trưa, có đứa cháu nội đã làm cho ngài giật mình. Xin Hòa Thượng từ bi tha lỗi và cho vợ chồng con sám hối.
Cố Hòa Thượng lấy làm kỳ, nên ngài mới hỏi:
- Cháu nội của hai vị hả, hồi nào, nó bao nhiêu tuổi? Tôi nhớ suốt cả ngày hôm qua có gặp đứa cháu nào đâu!
Người đàn bà đáp:
- Kính bạch Hòa Thượng, cháu trai của con là đứa bé hôm qua mặc áo quần đen có sọc vàng nằm hầu phía sau lưng của ngài lúc ngài làm vườn đó.
Ngài mới hỏi (mà trong bụng cũng chưa nhớ rõ ra là ai, bởi vì đâu có đứa nhỏ nào mặc áo quần đen, sọc vàng theo hầu sau lưng mình suốt ngày hôm qua đâu):
- Vậy hả, cháu bé bao nhiêu tuổi?
Người đàn bà đáp:
- Kính bạch Hòa Thượng, cháu được 95 tuổi!!!
Cố Hòa Thượng của chúng ta giật mình, sảng sốt hỏi tiếp:
- Ủa, cháu nội mà được 95 tuổi thì hai vị đây bao nhiêu tuổi?
Người đàn ông đáp:
- Dạ con được 842 tuổi và vợ của con 760 tuổi!
Đến đây thì Hòa Thượng đã biết rõ họ là ai rồi, nên ngài mới hỏi tiếp:
- Hai vị ở đâu tới đây?
Người đàn ông thưa:
- Bạch Hòa Thượng, chúng con ở Huỳnh Xà Thôn nằm về phía Đông của thôn Phú An này cách nơi đây khoảng 9 cây số, gia đình con có khoảng một ngàn người…
Vừa nói tới đây thì người đàn bà nắm lấy tay của ông chồng dặt dặt mấy cái như ra hiệu đừng nên nói nữa (chắc sợ bị lộ tông tích) làm cho người chồng mới nói đến câu: khoảng một ngàn người… thì làm thinh luôn.
Cố Hòa Thượng gật đầu nói:
- Thôi hai vị yên lòng về đi, không sao đâu.
Nghe ngài bảo như vậy thì hai vợ chồng người này đồng chắp tay cúi chào rồi quay lưng đi vòng ra sau thất của ngài. Hòa Thượng mới nom theo xem họ đi đâu và làm thế nào cho biết, thì ngài thấy khi họ ra đến phía sau rồi, cả hai người đồng hóa ra hai luồng ánh sáng màu vàng nhạt lớn bằng cườm tay, bay bổng lên không về hướng Đông đi mất (giống như ông đi, bà xẹt vậy).
Do đó nên ngài biết rằng: Đứa bé 95 tuổi mặc áo đen, sọc vàng là con rắn đen có vằn vàng ngày hôm qua đã làm cho mình hết hồn! Hai vợ chồng này là rắn chúa (chúa động). Hang ổ chánh của họ nằm về hướng Đông của ấp Phú An, cách đây 9 cây số có tên là “Huỳnh Xà Động” (động rắn vàng).
Chắc có lẽ họ mới biết biến hình nên dung mạo còn thô sơ chớ chưa đẹp người. Và hơn nữa chắc mỗi đêm họ ít nhiều gì đó cũng có đến đây nghe kinh và tu theo mình nên mới có vẻ kính trọng mình và biết chắp tay niệm Phật như vậy…

Tiếp theo đây, Bảo Đăng tôi xin kể hầu cho quý vị nghe thêm một vài chuyện nữa có liên quan đến hai vị “Kim Xà Vương” này và “Kim Xà Thánh Giả”, Vô Nhất Đại Sư của chúng ta:

Nguyên gần 10 năm về trước, lúc cố Hòa Thượng còn nhập thất ở Bến Tre, ngài có quen với một vị tu sĩ tên là “Ông sư Mỏ Cày”. Sở dĩ gọi là ông sư Mõ Cày vì vị này tuy có hình tướng một nhà sư Phật giáo, nhưng thật ra là một người đạo sĩ tu tiên luyện điển theo phương pháp xuất hồn, địa danh (tên của vùng đất) nơi ông sư này ở tu tên Mõ Cày, không ai biết được tên thật của ổng là chi hết. Ông sư này rất kính quý cố Hòa Thượng qua phong cách và đạo hạnh của ngài, nên thỉnh thoảng cũng có đến viếng thăm. Hòa Thượng cũng có chỉ dẫn thêm cho sư một vài pháp tu bổ túc, vì vậy mà sư có một sự mang ơn ở nơi cố Hòa Thượng.

Lúc ngài về Sàigòn và làm Đốc giáo ở Phật Học Viện Huệ Nghiêm rồi thì sư cũng có đến thăm một lần, đến khi cố Hòa Thượng lìa Huệ Nghiêm để ẩn tu thì hai đàng biệt nhau. Mãi đến mấy năm sau, sư mới tìm được lên Đại Ninh (trước sau hai lần) để thăm cố Hòa Thượng – và rồi sư qua đời vào mấy năm sau đó.

Lần đầu tiên sư lên thăm cố Hòa Thượng vào năm 1970 (lúc đó thì ngài không còn ở Hương Quang thất nữa, mà đã dời về thất mới là Phương Liên tịnh xứ rồi) và được Hòa Thượng cho phép ở lại thất của ngài vài ba hôm để đàm đạo giáo lý và tu tập (Sư thọ giáo mật tông từ nơi cố Hòa Thượng).

Qua đêm đầu tiên, sáng lại sư có thưa với cố Hòa Thượng rằng thất của ngài đang ở tu nằm trên miệng hang của một động rắn “Kim Xà” rất lớn và xin Hòa Thượng hãy cẩn thận vì đây là các loại rắn thần con nào con nấy cũng sống trên mấy trăm năm hết…
Cố Hòa Thượng gật đầu, nói với sư là ngài đã biết việc đó từ lâu rồi và cũng có kể lại cho sư nghe về vài ba chuyện của các Kim Xà này.
Qua ngày kế đó, sư nằm ngủ và xuất hồn ra đi “thăm” xà động này, khi thức dậy sư có thưa cùng ngài như sau: Nguyên từ mặt đất của nền thất Phương Liên đi thẳng xuống dưới (lòng đất) sâu 800 thước có một động rắn lớn, trong đó có khoảng 200 “ông dài” đều sống từ hơn 100 cho đến gần 1000 tuổi hết. Động này có đường (hầm) thông qua 3, 4 động khác nữa – Chúa tể của tất cả các động rắn này là một đôi Xà Vương (rắn chúa) màu nửa đen, nửa vàng và đều đã được trên một ngàn tuổi rồi – Cặp Xà Vương này hiện đang ở ngay dưới nền thất của cố Hòa Thượng cùng với các con cháu, mỗi đêm có đều nghe ngài niệm Phật, trì chú và tu theo cho nên biết biến hóa và đồng thờ cố Hòa Thượng làm thầy để nương theo tu tập.

Sư kể tiếp rằng, khi sư xuất hồn ra gặp hai vị Xà Vương động chúa này rồi thì mấy vị đó có nhờ sư về thưa lại với ngài là họ muốn được quy y Tam Bảo cho được sớm thoát khỏi kiếp rắn, họ cũng nói rằng trước kia họ chỉ có sống lâu thôi chớ không biết phương cách tu hành (vì rắn lột da cho nên sống lâu lắm), cứ ban ngày thì ngó mặt trời, ban đêm thì ngó theo trăng, sao (tu theo phép luyện âm dương nhị khí) nên mặc dù sống hơn cả ngàn năm rồi mà vẫn không sao biến hóa được. Từ khi cố Hòa Thượng về ở đây tu, mấy năm trôi qua cũng nhờ nương theo oai lực chú ấn và câu niệm Phật của Hòa Thượng mỗi đêm, cho nên nay đã bắt đầu biến hóa được rồi và thân mình cũng đã đổi từ màu đen ra màu hơi vàng (tức là từ Hắc Xà vương chuyển dần sang Kim Xà vương). Hiện thời thì hai vị đó đang cùng với các quyến thuộc đều ẩn hình ở tại đây để tu và ngầm bảo vệ cho ngài là bậc đại sư của họ.

Hòa Thượng gật đầu và nhờ sư xuất hồn ra chuyển lời lại cho các vị Xà Thần này biết là hôm sau Hòa Thượng sẽ truyền phép Tam Quy (Quy Y Phật, Pháp, Tăng – Tam Bảo) để cho họ được dự vào hàng Phật Tử.

Hôm sau, Hòa Thượng đắp y, hậu ngồi trên pháp tòa bày sẵn giữa tịnh thất, trì chú và bắt ấn triệu thỉnh, chỉ đích danh 2 vị Xà Vương chúa động Huỳnh Xà thôn (với sự hiện diện của Sư Mõ Cày) gọi về…

Liền sau đó ngài thấy trước mặt mờ ảo ẩn hiện ra hai vị xà thần bò vào và hiện hình ra hai người một nam, một nữ trong lứa tuổi khoảng ngoài 60, cả hai đều mặc áo ngắn màu vàng luốc, quỳ trước mặt chắp tay cúi đầu phụng mạng.

Hòa Thượng mới thuyết Tam Quy cho nghe và kế đó là quy y cho họ cùng các quyến thuộc, đốt chú ấn (mà ngài đã vẽ sẵn trên giấy vàng) để pháp thí cùng rải nước cam lồ xoáy tịnh, chú nguyện cho họ sau khi thoát kiếp rắn đều được sanh thiên, y như Phật Pháp tu hành…

(Kể từ đây ngoài các đệ tử thuộc về nhơn đạo ra, ngài còn có thêm các đệ tử thuộc về thần đạo và súc đạo nữa – việc làm này những tăng ni (lục lục thường tài) chỉ biết tụng kinh niệm Phật, cầu phước qua ngày, không lòng tin, không tu Mật Tông và không có cảm ứng đạo giao với cảnh giới vô hình đều không thể nào hiểu thấu được cả). Ngoài ra cố Hòa Thượng cũng còn có quy y cho chư thần địa phương như thổ thần, sơn thần, thọ thần v.v… Các vị này cũng đều đồng nương theo ngài để tu tập hết…

Đến năm 1974, Sư Mõ Cày có lên thăm cố Hòa Thượng một lần nữa và ở cùng với ngài một tuần lễ – Sư có thưa cùng với cố Hòa Thượng mấy điều sau:
1/- Về tình hình đất nước vào năm tới (1975) sẽ có một sự “đổi đời” rất lớn, vô số người chết… (tức là biến cố tháng 4 năm Ất Mão 1975).

2/- Sư có xuất hồn ra gặp lại các Xà Thần, điều đặc biệt nhất mà sư thưa cùng với cố Hòa Thượng là cặp Xà Vương Động Chúa Huỳnh Xà thôn, mấy năm qua nhờ được quy y Tam Bảo và tu theo phép của ngài truyền cho (đốt nghi thức tu để pháp thí) khi trước nên bây giờ đều được biến hóa linh thông, từ nơi Hắc Xà Vương nay đã chuyển ra thân Kim Xà Vương (Rắn Chúa màu vàng) và thường hay biến thành hình sư tăng mặc áo vàng, mỗi đêm đều có đi kinh hành niệm Phật chung quanh thất của Hòa Thượng hầu hạ và bảo vệ cho ngài trong tất cả mọi hoàn cảnh (để báo đức tôn sư).

Mấy đêm sau, qua sự trung gian của vị sư Mõ Cày, ngài mới cho triệu hai vị Chúa Động này về. Đêm đó, cố Hòa Thượng chiêm bao, thấy như sau:
Bên ngoài có hai vị, một tăng, một ni đều mặc áo vàng đi theo sau sư Mõ Cày vào trong thất quỳ xuống cung kính đảnh lễ. Ngài hỏi là ai và từ đâu đến?

Hai vị ấy thưa là:
- Bạch tôn sư chúng đệ tử là động chúa Huỳnh Xà thôn, nghe lịnh triệu thỉnh nên về phục mạng.
Hòa Thượng truyền cho đứng dậy thì thấy hai vị ấy thân tướng cũng quang minh, thần sắc sáng sủa, nghiêm chỉnh, trên trán mỗi người đều có chữ Vạn màu đỏ, trước ngực mang một xâu chuỗi lóng lánh hào quang.
Ngài hỏi vì sao hai con lại có được các món pháp bửu này?

Hai vị ấy thưa:
- Bạch tôn sư, chữ Vạn này là nhờ nơi quy y Tam Bảo mà có, còn xâu chuỗi này là do công tu tập mà thành – Bất cứ người nào (ý nói là xà thần) ở gần và tu theo tôn sư 3 năm đều cảm hiện ra được cả. Trong hàng quyến thuộc của con hầu hết đều được chuỗi này. Kể từ khi chúng con có 2 món bửu bối này (chữ Vạn là một, xâu chuỗi pháp bảo là hai) thì mỗi khi chúng con đi dạo chơi đến nơi nào cũng đều được chư thần ở địa phương đó kính trọng, nhường đường và gọi chúng con là Phật Tử…
Hòa Thượng gật đầu thuyết pháp cho nghe cùng khuyến nhắc tu hành. Các vị ấy đều lạy tạ ơn và biến mất.
Mấy hôm sau “Sư ông Mỏ Cày” ra về và có thưa với cố Hòa Thượng rằng: Lần này là lần cuối cùng gặp nhau. Sang năm (1975) sư sẽ dời về vùng núi Thất Sơn ẩn tu và sẽ tịch vào năm 1980, không còn có dịp gặp lại ngài được nữa.

*** Còn Hòa Thượng Thiện Tâm thì tịch 18 năm sau.
Ngày mở cửa mả của ngài, hai vị Kim Xà đệ tử này có đến hiện hình ra là hai con rắn màu vàng rực rỡ bò lại trước đầu mộ của ngài một chốc rồi mới bò vào trong đám cỏ tranh và biến mất, tất cả mọi người hiện diện trong buổi lễ hôm đó đều thấy rõ ràng – Bên Việt Nam chỉ trừ có độc nhất một mình ni sư trưởng tử Thanh Nguyệt (và bên Mỹ là Đại Đức Bổn Sư Thích Hải Quang) là biết rõ căn cột của cặp rắn này mà thôi – ngoài ra không một ai hiểu thấu vì sao mà lại có đôi kim xà này xuất hiện đúng vào ngày “mở cửa mả” của cố Hòa Thượng – nên đều có ý nghi ngờ). Đây là chuyện sau. ***

Sau năm 1975, có một vài vị tăng sinh của Phật Học Viện Huệ Nghiêm lên Đại Ninh thăm cố Hòa Thượng và ngụ ở ngoài tu viện Hương Nghiêm. Nửa đêm thức giấc (đi tiểu) ở phía sau (nhà cầu), sáng dậy nói với mấy thầy nơi tu viện rằng:
- Cha chả, ông già của tụi mình tu hành tinh tấn ác ôn!

Mấy thầy Tu Viện hỏi:
- Sao biết là ông già tu hành tinh tấn?

Khách tăng trả lời rằng:
- Hồi hôm này lúc 2 giờ khuya, tôi thức dậy đi tiểu, lúc trở vào, ngó qua bên thất của ông già thấy ổng vẫn còn mặc hậu đi kinh hành ở ngoài lan can trên lầu thất của ổng, nên biết rằng ông già tu hành suốt cả đêm, tụi mình thiệt không bằng.
Thật ra thì người mặc áo vàng đi kinh hàng chung quanh lầu đó không phải là ngài đâu, mà chính là một trong hai vị Kim Xà Vương đệ tử hiện hình tăng tướng đi vòng quanh thất để bảo vệ cho “Sư Phụ” của mình được an lành nghỉ ngơi và tu niệm.
*
Đến đây, trước khi qua một chương khác, Bảo Dăng tôi xin kể hầu quý vị thêm một vài chuyện ngắn khác nữa (trong số rất nhiều chuyện mà Bảo Đăng được nghe từ nơi Đại Đức bổn sư) như sau:

Một lần khác, quý thầy bên Tu Viện (Hương Nghiêm) dọn đất trồng lúa, bắp – nên gom các cỏ tranh, chà, bổi vừa mới làm xong… lại thành một đống lớn để trên gò mối gần đó, đốt bỏ. (Hôm ấy cố Hòa Thượng ngó qua, thấy thế ngài mới rầy, bảo là đốt như vậy lỡ chết côn trùng mang tội – sau này Đại Đức bổn sư cũng bị ngài rầy hết mấy lần (về việc tương tợ như vậy) vì đốt rác ẩu ở trên gò mối).

Khuya lại, sau khóa lễ (gần 1 giờ sáng) ngài chuẩn bị đi ngủ thì nghe có tiếng khóc ở phía trước cửa. Ban đầu ngài tưởng đâu vì mình xớn xác nên nghe lầm, nhưng khi lắng tai nghe kỹ lại thì rõ ràng là tiếng con nít khóc chớ không sai chạy chút nào hết, ngài mới mở cửa ra đứng bên ngoài nhìn chung quanh để tìm. Đêm đó nhờ có trăng tỏ cho nên chỉ một chút sau thì ngài thấy ở dưới gốc mít phía trước thất có một đứa nhỏ đang ngồi khóc và có vẻ đau đớn lắm. Ngài lại gần hỏi con là ai, sao ngồi khóc vậy, lại đây thầy biểu coi.

Đứa nhỏ đứng dậy bước ra, đó là một em bé trai khoảng 5, 6 tuổi gương mặt cũng dễ coi, mặc áo màu xanh (chắc là rắn lục), lại gần cố Hòa Thượng nói con bị phỏng hết cả lưng, đau rát lắm.

Ngài hỏi vì sao mà bị như vậy?
Bé đáp:
- Hồi trưa này con đang nằm ngủ thì bị lửa ở đâu đốt cháy, vì ngủ mê nên không hay, đến khi nóng quá, giật mình thức dậy thì chạy không kịp nên cả lưng bị phỏng hết (lửa của mấy thầy đốt gò mối, xin tôn sư từ bi cứu độ).

Cố Hòa Thượng vừa nghe nói vậy thì ngài biết “Bé” này thuộc về giống gì rồi, nên ngài có lòng thương, dẫn nó vào trong cốc, lấy chung nước cúng Phật trên bàn thờ xuống trì chú “A Di Đà Cam Lộ Chơn Ngôn” vào nước một hồi rồi rải lưng của nó, xong ngài mới bảo bé rằng thôi con về đi, không sao đâu mai sẽ lành.

“Bé” lạy tạ ơn, ra khỏi cửa rồi biến mất.
Đêm sau ngài nằm chiêm bao thấy có một người đàn bà chắc là “má-mì” dắt nó đến cám ơn, trong mơ thấy nó hết khóc rồi và cười nói vui vẻ…

Một câu chuyện khác:
Nơi cố Phương Liên 2 (có hai thất Phương Liên, thất 1 là của cố Hòa Thượng ở – thất 2 là của ni sư Thanh Nguyệt cất cho thân phụ ở – Còn ni sư thì ở tại thất Bạch Vân), phía sân trước có một gò mối lớn bằng 5, 6 chiếc đệm, trên có tre gai mọc, choán cả một khoảng đất rộng. Đã mấy lần ni sư muốn đốn bỏ, dọn dẹp cho có đất trống để trồng bắp, đậu, nhưng hễ ai vừa tới gần gò mối, định đốn cây, phát cỏ thì đều cảm thấy xây xẩm mặt mày và nhức đầu hết. Riết rồi mấy người Thượng (làm mướn) sợ quá, đứng ngoài xa chắp tay xá xá vào gò mối thôi, chớ không dám đến gần nữa. Họ nói chúng tôi không dám đâu, trong đó có thần thánh ở đừng đụng chạm đến mà chết…

Mấy năm trôi qua rồi mà gò mối cũng không sao phá được. Đối cùng ni sư mới đem chuyện này trình lên cố Hòa Thượng xin giúp đỡ vì rất cần đất trống để trồng trọt hoa màu. Lúc ấy cố Hòa Thượng chưa bế quan, nghe vậy nên ngài mới vào xem tự sự… Sau khi làm phép và chú nguyện xong rồi, đêm đó ngài nằm mơ, vía thầy đi vào trong thất Phương Liên 2, lại gần chỗ gò mối, chỉ tay vào trong bụi tre, bảo:

- Vị nào trong đó hãy đi chỗ khác ở, để đất trống cho chư ni trồng trọt, sinh sống và tu hành.

Nói xong một lát sau thì ngài thấy từ trong gò mối và bụi tre gai có một con rắn màu đỏ, to bằng cây cột nhà (chắc là rắn lục lửa) bò ra ngoài ngó ngài một hồi, đoạn gật đầu mấy cái rồi xuống sông đi mất.

Sáng ra ngài nói cho ni sư nghe và bảo rằng gò mối nay đã phá được rồi… Trước sự hiện diện của ngài mấy người Thượng mới dám đến đốn tre và bang bằng gò mối. Bấy giờ mới khám phá ra một việc hi hữu, ấy là… trong gò mối này có một bụi “Đơn Quy” rất lớn (là một vị thuốc bắc đặc biệt bổ máu – bồi bổ tổng quát) rất quý báu, củ to bằng bắp tay, bắp chân (mấy trăm năm rồi nên củ mới lớn như vậy) – nhiều đến nỗi đem về phơi cả mấy chiếc đệm mới hết.

Cố Hòa Thượng nói với ni sư rằng:
- Hèn chi mà không ai phá được cái gò mối này hết. Té ra vì trong đó tàng ẩn vị thuốc quý này nên mới có rắn thần canh giữ. Đây cũng là cái duyên của con đó, hãy giữ kỹ mấy củ đơn quy này mà dùng từ từ. Sau này con còn nhờ nó lắm.
Quả thật vậy, nhờ uống đơn quy này mà ni sư từ từ hết bịnh phong thấp và sốt rét rừng, sau phát ra tướng mập mạp, hồng hào tựa như Di Lặc Bồ Tát – Đây là lời của một Phật tử từ bên Mỹ về thăm ni sư, khi trở qua kể lại cho Bảo Đăng nghe như vậy.
.
Hòa Thượng THÍCH THIỀN TÂM

Viện chủ Hương Nghiêm Tịnh Viện, Pháp chủ Phương Liên Tịnh Xứ Mật Tịnh đạo tràng, tại Đại Ninh, ấp Phú An, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng VN.
Đã an lành thị tịch vãng sanh vào lúc 6g15 sáng ngày 21-11 Âl năm Nhâm Thân. (Nhằm ngày thứ hai 14-12 dl năm 1992). Hưởng thọ 68 tuổi.

Ngài là một vị Đại Tăng chói rực phần danh đức, được xem như là một thánh tăng đương kim và là con mắt của Phật giáo Việt Nam trong hiện tại.

Đêm đó (20 rạng 21), Hòa Thượng ngồi trước bàn Phật (ở trên lầu) trì niệm suốt buổi. Đến 3 giờ sáng, ngài biết thời khắc vãng sanh sắp đến nên mở mắt ra, truyền lịnh cho ni sư trưởng tử triệu chúng vào trong tịnh thất hộ niệm. Kế đó Hòa Thượng bước xuống lầu rửa tay, mặt, nghiêm chỉnh y hậu xong ngài an tọa vào trên chiếc ghế nơi mà ngài vẫn thường ngồi để tịnh niệm thường nhật, tay trái kết ấn “Di Đà định”, tay mặt lần chuỗi niệm Phật.

Trước mặt Đại Sư là ni sư trưởng tử và các đồ chúng nơi Phương Liên tịnh xứ vân tập đầy đủ. Đồ Tôn là Tỳ Kheo ni Thích Nữ Bảo Đàn thỉnh bức tượng tranh của đức A Di Đà Thế Tôn đứng trong vị thế tiếp dẫn đặt nơi trước mặt ngài. Các môn đồ, pháp quyến vừa rơi lệ khóc thầm, vừa cất cao tiếng hộ niệm…

Đại Sư mỉm cười thốt lời an ủi rằng:
- Hãy bình tâm lại, đừng có khóc nữa. Ta được về Tây là điều hân hạnh, các con hãy theo đó mà cố gắng niệm Phật. Nếu được như vậy, ắt một ngày kia sẽ cùng hạnh ngộ nhau nơi miền An Dưỡng.

Còn các việc thành, bại, vinh hư trên cõi đời này, chẳng phải là chỗ quan tâm đến của ta.
Đoạn ngài đọc bài kệ rằng:

Đời ta chí gởi chốn Liên Trì,
Trần thế vinh hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A Di.

Tuyên xong lời kệ sau cùng này, ngài ngồi yên trên ghế, nhắm mắt như vào trong định. Đại Chúng biết chắc Đại Sư sắp sửa quy Tây, nên đồng cất cao tiếng hộ niệm, mỗi lúc càng thêm khẩn thiết.
Đến 6 giờ 15 phút (giờ Mẹo) Đại Sư bỗng mở mắt ra, chắp tay nói: “Ta đi đây. Đại chúng nên bảo trọng.”

Đoạn nhắm mắt lại, tay trái ngài vẫn kết ấn Di Đà Định, tay mặt buông xuôi xuống, xâu chuỗi từ trên tay ngài rơi xuống chiếu và ngài lặng im, an nhiên thoát hóa ngay trên bản tọa.

Ni sư trưởng tử và các môn đồ pháp quyến cố gắng dằn lòng xúc động, nén nỗi bi thương, vẫn để yên di thể ngài ngồi trên bản tọa như vậy và tiếp tục hộ niệm thêm hai giờ đồng hồ nữa. Đến 9 giờ sáng mới cùng nhau nhẹ đỡ pháp thể ngài lên, đặt nằm ngay ngắn trên đơn (của ngài), đắp mền lại kỹ lưỡng trông y như ngài vẫn còn đang ngủ vậy.
Toàn thân của Đại Sư vẫn mềm, ấm, dịu dàng và dung sắc vẫn hồng hào, tươi nhuận y như còn sống. Đỉnh đầu ngài nóng hực như tưới nước sôi.

Đại Sư hưởng thọ tuổi đời được 68 – Tuổi đạo 48 (Tăng lạp 42).

Về phần của các chúng nơi Phương Liên Tịnh Xứ thì sau khi an pháp thể của Đại Sư ở trên đơn xong rồi, đồng nhau khấu đầu lễ tứ bái vĩnh biệt, kế đó đóng cửa thất của ngài lại, cùng bước ra ngoài để chuẩn bị lo tiếp các phần hậu sự…

Đến 9 giờ 30 phút, đại chúng ở ngoài Hương Nghiêm Tịnh Viện hay tin, đồng nhau kéo vào, dùng đa số và cường lực phá cửa thất ra “thỉnh ngang” di thể của ngài đưa thẳng về chùa…

Lễ di quan, nhập tháp hoàn tất vào khoảng 8 giờ sáng ngày 25-11 Âl năm Nhâm Thân (18-12-1992 dl) tại Hương Nghiêm Tịnh Viện.

Đại Sư có lưu lại một viên NGŨ SẮC KIM CANG

NHA XỈ XÁ LỢI (một răng cấm năm màu còn nguyên vẹn) cứng như kim cương, được bảo toàn kỹ lưỡng.

Ba ngày sau (21/12 dl 1992), trong lễ khai mộ của ngài, tất cả mọi người hiện diện đều trông thấy có một đôi kim xà màu vàng rực rỡ dài khoảng hai thước tây bò đến trước đầu mộ của Đại Sư, nằm im một chốc, đoạn cất đầu ngó lên ni sư trưởng tử Thanh Nguyệt, gật đầu ba lượt rồi bò đi vào trong đám cỏ tranh gần đó biến mất. Các hình ảnh về đôi Kim Xà này đều đã được ghi nhận đầy đủ bằng hình chụp và video.

Ưu Bà Di BẢO ĐĂNG

OAN OAN TƯƠNG BÁO:

OAN OAN TƯƠNG BÁO:


Thuở xưa vào thời chánh pháp của Đức Phật Thích Ca, có một vị trưởng giả giàu có. Vị này có hai người vợ, người vợ lớn không con, người vợ nhỏ sinh được một đứa con trai khôi ngô tuấn tú, cả gia đình nhờ thế mà vui vẻ.
Khi ấy người vợ lớn sinh lòng sân hận, đố kỵ, luôn tìm cách để hại đứa bé con người vợ nhỏ, nhưng bên ngoài bà tỏ ra hết lòng thương yêu, chiều chuộng, không một chút ganh tỵ nào.
Một hôm người vợ nhỏ đi vắng, người vợ lớn lén lấy cái kim ghim vào đỉnh đầu đứa bé. Đứa bé từ ấy phát bệnh la khóc suốt ngày, bỏ ăn, bỏ uống, thân hình tiều tụy, qua bảy hôm thì chết. Trong nhà ai cũng sầu khổ. Người vợ lớn cũng tỏ ra đau đớn, tiếc thương. Còn người vợ nhỏ thì vật mình xuống đất, khóc than thảm thiết suốt cả ngày đêm. Nhưng cả nhà chẳng ai biết được vì sao đứa bé ấy chết. Về sau bà vợ nhỏ biết được do lòng ganh tị của người vợ lớn và chính bà ấy giết. Bà vợ nhỏ lập tâm báo thù. Bà đến chùa hỏi các thầy tỳ kheo: “Bạch đại đức, muốn toại nguyện lòng mong cầu, phải làm công đức gì?” Các thầy tỳ kheo đáp: “Muồn toại nguyện lòng mong cầu thì phải thọ trì bát quan trai giới, điều cầu xin sẽ được như ý.
Nghe xong, bà xin thọ bát quan trai giới. Sau đó bảy ngày bà chết đầu thai làm con gái bà vợ lớn, thân tướng đẹp đẽ. Bà vợ lớn thương yêu, quí trọng hơn vàng, nhưng oan nghiệt thay, đứa bé ấy chỉ sống được một năm rồi chết khiến cho người mẹ khổ sở đau đớn khôn cùng, khóc lóc thảm thương, bỏ ăn quên ngủ. Oan oan tương báo như thế đến bảy lần, bà vợ lớn đoán biết đây là sự báo oán của người vợ nhỏ.
Cho đến lần cuối cùng, bà vợ lớn sinh được một bé gái lại càng đẹp đẽ, thân thể đoan trang hơn mấy lần trước, nhưng lần này đứa bé sống được 14 tuổi, sắp có gia đình. Một hôm đang đêm nàng bước ra khỏi cửa, liền ngã lăn ra chết. Bà mẹ khóc lóc kêu gào la hét suốt ngày, lòng thương con cùng cực, khiến bà phát cuồng, không còn biết gì nữa. Bà để xác con giữa nhà, chẳng chịu liệm càng nhìn xác con càng thấy đẹp lạ thường.
Một buổi sáng nọ, các thầy tỳ kheo thiền định, dùng từ tâm quán khắp tâm chúng sinh, thấy người đàn bà ấy bị một chuỗi oan nghiệt nối dài và nay chính là lúc nhờ sự đau khổ cùng tột có thể làm tâm bà bừng sáng. Sau khi dùng từ tâm quán sát, thầy tỳ kheo liền khoác y ôm bát, đến nhà bà vợ lớn khất thực. Đến nơi trước nhà vắng vẻ, bên trong nghe tiếng khóc than quằn quại, thầy rung tích trượng, hồi lâu có kẻ đầy tớ mang cơm ra cúng: “Bạch Ngài, bà chủ con bận việc không thể ra, xin Ngài từ bi nạp thọ”. Thầy sa môn im lặng, không mở bát ra mà nói: “Ta muốn gặp thí chủ”.

Người đầy tớ trở vào thưa cùng bà vợ lớn rằng thầy sa môn nuốn gặp bà. Bà chủ nói: “Ta có chuyện buồn khổ, chỉ muốn chết thôi, ta không muốn gặp ai cả, mày hãy mang cơm ra cúng dường thầy sa môn ấy và xin Ngài hãy đi đi. Nhưng khi người giúp việc mang cơm ra, Ngài cũng không nhận và nói như trước. Bà vợ lớn tự nghĩ: “Ta đang lúc khổ sở mà vị sa môn này chẳng hiểu được tâm ta, sai ngưởi đem cúng dường mà chẳng nhận, quyết muốn gặp ta, không biết Ngài muốn gì?” Khi bà bước ra, thầy sa môn vừa trông thấy liền hỏi: “Này thí chủ, vì sao bà có vẻ sầu khổ, đầu tốc rối bù, mặt mày hốc hác tiều tụy đến thế?”. “Bạch Ngài, từ ngày tôi có gia đình đến nay, sinh bảy đứa con gái đứa nào cũng đẹp đẽ dễ thương, nhưng khi đến một hoặc hai ba tuổi thì chết, duy chỉ có đứa con này đến 14 tuổi, đêm hôm vừa bước ra khỏi nhà liền té xuống đất chết ngay. Tôi quá khổ sở, chỉ có muốn chết nữa mà thôi”. Nói xong bà khóc nức nở. Thầy sa môn bảo: “ Hãy rửa mặt, chải đầu rồi ta sẽ nói cho bà nghe”. Nhưng bà ta vẫn khóc, thầy sa môn nói: “Này bà, người vợ nhỏ của ông chủ nhà này vì sao chết?”. Bà vợ lớn nghe nói trong lòng bối rối sợ hãi, tự nghĩ sao vị sa môn này lại biết được việc nhà ta?
Thầy sa môn nói: “Người vợ nhỏ của nhà này sinh được một đứa con trai, vì sao đưa con ấy lại chết đi?”. Bà vợ lớn nghe nói trong lòng càng sợ hãi, run rẩy chẳng nói nên lời. “Này bà, do bà giết đứa bé ấy, nên người mẹ của nó đau khổ rồi chết theo, vì oan oan tương báo, người mẹ của đứa bé quyết báo thù, nên bảy lần sinh làm con của bà rồi lại chết, để bà phải đau khổ mà chết theo như bà đã gây ra cho người vợ nhỏ. Giờ đây đứa con bà vừa mới chết, bà hãy xa ra thì sẽ biết đứa con ấy thể nào?”. Nghe vị sa môn nói, bà quay lại thì toàn thân đứa con ấy tan rã, hôi thối vô cùng. Trong lòng cảm thấy hổ thẹn khủng kiếp, bà cúi đầu đảnh lễ vị sa môn cầu xin cứu độ.
“Ngày mai bà hãy đến chùa ta sẽ làm lễ qui y cho”. . Ngay khi ấy, xác đứa con gái liền biến thành rắn độc, biết được bà vợ lớn sẽ đi thọ giới, nên rắn nằm ngang chặn giữa đường. Thầy sa môn nói với rắn : “Oan nghiệt đã trải qua mấy đời. Người vợ lớn chỉ giết có một người con của nhà ngươi, tại sao nhà ngươi lại làm khổ người ta đến bảy lần. Tội nhà ngươi rất lớn, hôm nay lại muốn cản đường không cho người ta đi quy y tam bảo nữa, tội này đời đời sẽ đọa vào địa ngục, hiện tại nhà ngươi chỉ là thân rắn đâu được thân người”.
Rắn nghe nói, liền nhớ lại kiếp trước, đau đớn trong lòng, vặn mình uốn khúc, đập đầu xuống đất, hướng về vị sa môn mà sám hối. Vị sa môn nói : Hai người đời trước đã tạo oan nghiệt gây khó cho nhau. Vậy kể từ nay tội lỗi mỗi người sẽ được chấm dứt, đời đời không được có ý niệm giết hại nhau nữa. Cả hai đều ăn năn, rắn độc nhờ sức chú nguyện của vị sa môn liền được thác sinh làm thân người.

Phạm Đình Nhân
Trích cuốn "Hành Thập thiện và con đường giải trừ khẩu nghiệp"

Bà lão bán rau (câu chuyện ngắn cảm động đáng suy ngẫm)

Bà lão bán rau (câu chuyện ngắn cảm động đáng suy ngẫm)

***********************
Ăn rau không chú ơi? Một giọng khàn khàn, run run làm gã giật mình. Trước mắt gã, một bà cụ già yếu, lưng còng cố ngước lên nhìn gã, bên cạnh là mẹt rau chỉ có vài mớ rau muống xấu mà có lẽ có cho cũng không ai thèm lấy.

- Ăn hộ tôi mớ rau...! Giọng bà cụ vẫn khẩn khoản. Bà cụ nhìn gã ánh mắt gần như van lơn. Gã cụp mắt, rồi liếc xuống nhìn lại bộ đồ công sở đang khoác trên người, vừa mới buổi sáng sớm. Bần thần một lát rồi gã chợt quay đi, đáp nhanh: Dạ cháu không bà ạ! Gã nhấn ga phóng nhanh như kẻ chạy trốn. Gã chợt cảm thấy có lỗi, nhưng rồi cái cảm giác ấy gã quên rất nhanh. "Mình thương người thì ai thương mình" - cái suy nghĩ ích kỷ ấy lại nhen lên trong đầu gã.

- Ăn hộ tôi mớ rau cô ơi! Tiếng bà cụ yếu ớt.
- Rau thế này mà bán cho người ăn à? Bà mang về mà cho lợn!

Tiếng chan chát của một cô gái đáp lại lời bà cụ.
Gã ngoái lại, một cô gái cũng tầm tuổi gã. Cau mày đợi cô gái đi khuất, gã đi đến nói với bà:

- Rau này bà bán bao nhiêu?
- Hai nghìn một mớ - Bà cụ mừng rỡ.

Gã rút tờ mười nghìn đưa cho bà cụ.

- Sao chú mua nhiều thế?- Con mua cho cả bạn con. Bây giờ con phải đi làm, bà cho con gửi đến chiều con về qua con lấy!

Rồi gã cũng nhấn ga lao vút đi như sợ sệt ai nhìn thấy hành động vừa rồi của gã. Nhưng lần này có khác, gã cảm thấy vui vui.



Ảnh: Lê Thắng.
Chiều hôm ấy mưa to, mưa xối xả. Gã đứng trong phòng làm việc ngắm nhìn những hạt mưa lăn qua ô cửa kính và theo đuổi nhưng suy nghĩ mông lung. Gã thích ngắm mưa, gã thích ngắm những tia chớp xé ngang trời, gã thích thả trí tưởng tượng theo những hình thù kỳ quái ấy. Chợt gã nhìn xuống hàng cây đang oằn mình trong gió, gã nghĩ đến những phận người, gã nghĩ đến bà cụ...

- Nghĩ thế đủ rồi đấy!

Giọng người trưởng phòng làm gián đoạn dòng suy tưởng của gã. Gã ngồi xuống, dán mắt vào màn hình máy tính, gã bắt đầu di chuột và quên hẳn bà cụ.

Mấy tuần liền gã không thấy bà cụ, gã cũng không để ý lắm. Gã đang bận với những bản thiết kế chưa hoàn thiện, gã đang cuống cuồng lo công trình của gã chậm tiến độ. Gã quên hẳn bà cụ.

Chiều chủ nhật gã xách xe máy chạy loanh quanh, gã vẫn thường làm như vậy và có lẽ gã cũng thích thế.

Gã ghé qua quán trà đá ven đường, nơi có mấy bà rỗi việc đang buôn chuyện.

Chưa kịp châm điếu thuốc, gã chợt giật mình bởi giọng oang oang của một bà béo:

- Bà bán rau chết rồi.
- Bà cụ hay đi qua đây hả chị? - chị bán nước khẽ hỏi.
- Tội nghiệp bà cụ! một giọng người đàn bà khác.
- Cách đây mấy tuần bà cụ giở chứng cứ ngồi dưới mưa bên mấy mớ rau. Có người thấy thương hỏi mua giúp nhưng nhất quyết không bán, rồi nghe đâu bà cụ bị cảm lạnh.
Nghe đến đây mắt gã chợt nhòa đi, điếu thuốc chợt rơi khỏi môi.
Bên tai gã vẫn ù ù giọng người đàn bà béo kia. Gã không ngờ...!

(Sưu Tầm)

TRẢ NỢ - HỒI HƯỚNG

TRẢ NỢ - HỒI HƯỚNG

*****************
Con người sinh ra lớn lên, ai cũng mắc nợ, có người còn mắc nợ của ma quỷ, nợ chúng sinh, ... Nợ đời quá khứ và nợ đời này. Do đời trước thiếu nên đời này phải trả. Trả nợ là một việc tốt vì chúng ta thiếu nợ, vì chúng ta thiếu nợ là chúng ta phải trả.

Điều này không thể tránh được. Quý vị cần phải hiểu rõ đạo lý này. Quý vị có duyên lành gặp được Phật pháp. Nếu ngay trong đời này có thiếu nợ chúng sinh. Thì mình vẫn vui vẻ trả, chẳng buồn phiền gì cả.

Trong nhiều đời nhiều kiếp, chúng ta thiếu duyên lành nên không gặp được Phật pháp. Nên không tránh khỏi việc tạo tội nghiệp gieo ân kết oán với vô số chúng sinh từ vô lượng kiếp đến nay. Vay trả trả vay cứ xoay dần không thể kể cho hết được. Do vậy con đường đi đến giải thoát giác ngộ luôn bị chướng ngại.

Nguyên nhân là ở chỗ này, hoàn toàn do chính mình gây tạo quá nhiều nghiệp bất thiện trong đời quá khứ. Phật dạy chúng ta phải cố gắng tự mình nổ lực tinh tấn tu hành. Tụng kinh, lễ Phật, sám hối, làm các việc thiện,... rồi hồi hướng các công đức đó cho họ. Đó chính là chúng ta trả nợ.

Muốn việc hồi hướng được viên mãng tốt đẹp thì phải bằng tâm chân thành của mình. Bằng việc thiết tha phát lồ sám hối. Nếu chúng ta chỉ dùng lời nói mà việc làm không tương ưng với tâm, chỉ niệm suông thì đâu có tác dụng gì. Chúng ta ngày nay hiểu được Phật pháp rồi thì mỗi cử chỉ hành vi cũng đều lợi ích cho tất cả chúng sinh, lợi ích cho Phật pháp, không làm những việc sai lầm.

Được như vậy thì công đức hôm nay tạo ra mới đúng thật là ý nghĩa của việc hồi hướng. Trên báo bốn ân lớn, dưới cứu ba đường khổ. Từ vô lượng kiếp chúng ta đã chịu ân vô số chúng sinh và cả oan thân trái chủ. Có ân thì chúng ta hồi hướng cho họ để báo đáp ân đó. Có oán chúng ta cũng hồi hướng cho họ để giải trừ oán kết. Làm việc gì cũng phải xuất phát từ nơi nội tâm của mình.

Đó là Chân thành, Thanh tịnh, Bình đẳng, Từ bi. Như thế mới đúng nghĩa là hồi hướng cho họ, đã là định nghiệp thì chúng ta không thể chuyển được. Trong kinh nói rằng, Ngay khi Phật Thích Ca Mâu Ni cũng không thể chuyển định nghiệp được. Chúng ta khuyên bảo mọi người, khuyên bảo bằng tấm lòng nhưng họ không nghe thì bổn phận của chúng ta hết rồi.

Nghe hay không là việc của họ. Giống như ta khuyên người thân trong gia đình và cả bạn bè. Khuyên lần thứ nhất, lần thứ hai, không chịu nghe thì chúng ta đừng nói nữa. Không khéo lòng nhiệt thành của mình thành oán thù của họ. Nếu như vậy thì chúng ta làm cách nào. Tự mình nổ lực công phu tu nhiều hơn để họ cảm nhận sự thanh thoát nơi chính mình. Sau này gặp lại chúng ta họ cảm nhận được đạo vị giải thoát. Thì ngay đó mình đã chuyển hóa họ rồi.

Cảm hóa người thân quyến thuộc không phải một lúc là chúng ta làm được liền. Hiện tại nói họ không nghe, đến vài năm sau khuyên họ mới thức tỉnh hội đồng. Khi tuổi càng lớn họ càng cảm nhận sâu sắc những cảnh trái ngang của cuộc đời những sự mất còn khốn khó thì lúc đó họ dễ dàng thức tỉnh hơn, lúc còn trẻ họ nhiệt khí mạnh mẽ tự tin vào sức mạnh của mình, không dễ gì khuyên bảo họ được. Chúng ta cần có tâm nhẫn nại kiên trì thì mới có kết quả được.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.

Saturday, June 22, 2013

TỨ DIỆU ĐẾ 2:

PHẬT HỌC PHỔ THÔNG :
Sa Môn : Thích Thiện Hoa

TỨ DIỆU ĐẾ 2:

Bài Thứ 2

Khổ Ðế (Dukkha)

A. Mở Ðề

Ðời Là Một Biển Khổ Ðầy Mồ Hôi Và Nước Mắt
Có một số người cho rằng đời là một bữa tiệc dài, không hưởng thụ cũng uổng. Do đó, họ không để lỡ một dịp nào có thể đem lại cho họ những khoái lạc vật chất.
Nhưng họ không ngờ rằng những khoái lạc ấy điều là giả dối, lừa phỉnh, chẳng khác gì cái khoái lạc mong manh của người khát mà uống nước mặn, càng uống lại càng khát; và cổ họng, sau cái phút uống vào, lại thêm đắng chát.
Khế kinh có câu: "Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển". Thật thế ! Cõi đời không vui, cõi đời toàn là khổ. Những nỗi vui, nếu có, cũng chỉ là tạm bợ, hào nhoáng như một lớp sưon bên ngoài mà thôi; chứ bản chất của cõi đời là đau khổ. Cõi đời là một biển đầy mồ hôi và nước mắt, trong ấy chúng sinh đang bơi lội, hụt lặn, chìm nổi, trôi lăn. Ðó là sự thật. Nhưng sự thật ấy, không ai nhìn thấy một cách tường tận và nói lên một cách rõ ràng như đức Phật đã nói trong khổ đế, phần thứ nhứt của Tứ Diệu Ðế.

B. Chánh Ðề

I. Ðịnh Nghĩa Chữ Khổ Ðế (DUKKHA)

Khổ đế do chữ Dukkha mà ra. "DU", nghĩa là khó; "KKHA" là chịu đựng, khó kham nhẫn. Dukkha nghĩa là đắng; nghĩa rộng là những cái gì làm cho mình khó chịu, mình đau đớn như: ốm đau, đói khát, buồn rầu, sợ hãi v.v..
"ÐẾ" là một sự thật vững chắc, đúng đắn, hoàn toàn, cao hơn cả.
Khổ đế, là sự thật đúng đắn vững chắc cao hơn cả về sự khổ ở thế gian. Sự thật nầy nó rõ ràng, minh bạch không ai có thể chối cãi được.
Dưới đây, chúng ta hãy nghe đức Phật giải bày một cách tường tận, sâu sắc, tỉ mỉ về sự khổ của thế gian.

II. Luận Về Sự Khổ Của Thế Gian

Kẻ cho hết cả sự khổ ở thế gian, thì không bao giờ cùng. Song căn cứ theo kinh Phật, có thể phân loại ra làm ba thứ khổ (tam khổ) hay tám thứ khổ (bát khổ).
A. BA KHỔ:: Ba thứ khổ là: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.
1) Khổ khổ. Cái khổ chồng chất lên cái khổ, bản thân đã là khổ, mà hoàn cảnh chung quanh lại đè lên bao cái khổ khác: đó là "Khổ khổ"
Thật thế, mỗi một chúng sanh, tự mình đã là nạn nhân của bao nhiêu cái khổ, cái xấu xa; thân thể là một bầu thịt xương dơ bẩn, nếu một vài ngày, không săn sóc, rửa ráy, thì thối tha không thể chịu đựng được. Hơn nữa, cái thân ấy cũng không bền chắn, mà trái lại rất mong manh: khát nước độ ba ngày, ngạt thở độ năm phút, đứt một mạch máu, bị nhiễm một số vi trùng độc...thế là mạng vong.
lại trên cái khổ sống chết bất ngờ mà con người không làm chủ được, còn nhiều cái khổ khác nữa chất chồng, không sao tránh khỏi được như: bệnh tật, đói khát, bão lụt, hỏa hoạn, chiến tranh, áp bức, sưu cao thuế nặng v.v...Vì thế nên gọi là "khổ khổ".
2) Hoại khổ. Trong Khế kinh chép: "Phàm vật có hình tướng đều phải bị hoại diệt". Thực thế, vạn b\vật trong vũ trụ đều bị luật vô thường chi phối, không tồn tại mãi được. Cứng rắn như sắt đá, lâu năm cũng mục nát; to lớn như trái đất, mặt trăng, mặt trời lâu ngày cũng tan rã. Yếu ớt, nhỏ nhen như thân người, thì mạng sống lại càng ngắn ngủi, phù du ! Cái búa tàn ác của thời gian đạp phá tất cả; mỗi phút mỗi giây ta sống, cũng là mỗi phút mỗi giây ta đang bị hủy hoại. Và dù ta có sức mạnh bao nhiêu, quyền thế bao nhiêu, giàu có bao nhiêu cũng không thể cản ngăn, chống đỡ không cho thời gian hủy diệt đời ta. ta hoàn toàn bất lực trước thời gian. Thật là khổ sở, tủi nhục, đớn đau !.
3) Hành Khổ. Về phương diện vật chất, ta bị ngoại cảnh, thời gian chi phối, phá hoại; còn về phương diện tinh thần, ta cũng không hề tự chủ, yên ổn, tự do được. tâm hồn ta thường bị dục vọng dằn vặt, lôi kéo, thúc đẩy từng phút từng giây. tư tưởng ta cũng luôn luôn biến chuyển nhảy vọt lăng xăng từ chuyện này sang chuyện khác, như con ngựa không cương, như con vượn chuyền cây, không bao giờ dừng nghỉ. Thật là đúng như lời Phật dạy: "tâm viên, ý mã".
Nếu xét sâu xa hơn nữa, ta sẽ thấy tâm hồn ta còn bị cái phần bên trong kín sâu, nằm dưới ý thức, là phần tiềm thức chi phối, sai sử một cách vô cùng mãnh liệt trong mỗi ý nghĩ, cử chỉ hành động của chúng ta. ta giận, ta thương, ta ghét, ta muốn thứ này, ta thích thứ kia, phần nhiều là do tiềm thức ta sai sử, ra mệnh lệnh.
Nói tóm lại, ta không được tự do, ta bị chi phối bởi những ý tưởng, dục vọng, tiềm thức, và luôn luôn chịu mệnh lệnh của chúng. Ðó là "Hành khổ".
B. TÁM KHỔ:: nếu chúng ta phân tích tỉ mỉ hơn, thì cái khổ của thế gian có thể chia ra làm tám loại. tám loại này tựu trung cũng không ngoài ba khổ kia.
Tám loại khổ: sanh khổ, lão khổ,bệnh khổ,tử khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, oán tắng hội khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ. Dưới đây chúng ta hãy nói rõ về tám nỗi khổ ấy.
1) Sanh Khổ: Sự sanh sống của con người có hai phần khổ: Khổ trong lúc sanh, khổ trong đời sống.
Khổ trong lúc sanh. Người sanh và kẻ bị sanh đều khổ cả. Khi người mẹ mới có thai là đã bắt đầu biếng ăn, mất ngủ, nôn ọe, dả dượi, bất thần...Thai mỗi ngày mỗi lớn, thì người mẹ mỗi ngày mỗi mệt mỏi, nặng nề, đi đứng khó khăn, làm lụng chậm chạp. Ðến khi gần sanh, sự đau đớn của người mẹ không sao nói xiết. Dầu được thuận thai đi nữa, mẹ cũng phải chịu dơ uế nhiều ngày, yếu đuối nhiều tháng, vì tinh huyết hao mòn, ngũ tạng suy kém. Còn rủi bị nghịch thai, thì mẹ phải bị mổ xẻ, đau đớn nhiều nữa. Có khi sau một lần sinh bị giải phẩu, mẹ phải chịu tật suốt đời.
Còn con, từ khi mới đầu thai cho đến lúc chào đời, cũng phải chịu nhiều điều khổ sở. Trải qua chín tháng mười ngày, con bị giam hãm trong khoảng tối tăm, chật hẹp, còn hơn cả lao tù ! Mẹ đói cơm, khát nước, thì con ở trong thai bào lỏng bỏng như bong bóng phập phều. mẹ ăn no thì con bị ép như bồng bột bị đè dưới thớt cối, khó bề cựa quậy. Ðến kỳ sanh sản, thân con phải chen qua chỗ chật hẹp như bị đá ép bốn bể, nên khi vừa thoát ra ngoài, liền cất tiếng khóc vang: "khổ a ! Khổ a !". Thật đúng như hai câu thơ của Ôn Như Hầu:
"Thảo nào lúc mới chôn nhau
Ðã mang tiếng khóc ban đầu mà ra !"
Khổ trong đời sống. Về phương diện vật chất, hay tinh thần, đời sống đều có nhiều điều khổ sở.
Về vật chất, con người đòi hỏi những nhu cầu thiết yếu như món ăn, thức uống, đồ mặc, nhà ở, thuốc men. Muốn có những nhu cầu ấy, con người phải cần lao kham khổ, đổ mồi hôi, sôi nước mắt, mới mua được chén gạo, bát cơm, manh quần, tấm áo. Về nhà ở, thì có khi suốt đời vất vả làm lụng, vẫn không đủ sức tạo được một ngôi nhà nho nhỏ.
Nhưng chẳng phải đợi đến cảnh đói khát mới gọi khổ; ăn uống thất thường, thiếu thốn cũng đã là khổ rồi. Chẳng đợi phải lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, hay ăn lông ở lỗ mới gọi là khổ; áo quần không đủ ấm, nhà cửa không che được nắng mưa, cũng đã là khổ rồi. Nhưng nào phải chỉ có những người nghèo hèn mới khổ đâu? Người giàu có cũng cứ khổ như thường: muốn có tiền, tất phải thức khuya dậy sớm, buôn tảo bán tần, đầu tắt mặt tối trong công việc, đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có được, chứ đâu phải tiền bạc ở trên hư không rơi xuống cho đâu ! Ðó là còn chưa nói đến những nỗi khổ vật chất bất thường khác nữa mà không ai có thể tránh khỏi được.
Về phương diện tinh thần, đời người cũng có nhiều điều khổ nhục, có nhiều khi còn đau khổ hơn cả những thiếu thốn vật chất. Không nói gì nhiều, chỉ xin đơn cử ở đây một thí dụ về nỗi khổ trong sự học hỏi.
Muốn tìm lẽ phải, chơn lý, đạo đức, tất phải gia công học hỏi nhiều năm cả về phương diện lý thuyết lẫn thực nghiệm. về lý thuyết ta học trong sách vở với thầy với bạn hay tự học. Về thực nghiệm ta cũng gặp lắm điều khổ sở, khó khăn. Như học lý thuyết với thầy ở trường, lắm khi gặp bài khó, lại thêm thầy giảng dạy quá cao, học trò không thu nhận được gì hết, thế là người giận kẻ buồn khổ tâm quá ! Còn tự học ở nhà với quyển sách trơn, có lúc gặp đoạn văn mắc mỏ, lại không đủ tài liệu tra cứu thêm, bị bít lối ra, rồi khởi tâm tức giận buồn phiền, cũng là khổ. Về sự học thực nghiệm ở đời, lắm khi cũng phải trả một giá rất đắc. ta sẽ bị người này phỉnh gạt, người kia áp bức, kẻ nọ oán thù, kẻ kia khinh bỉ...bao nhiêu hạng người là bấy nhiêu tâm tánh. Và hiểu đời được một phần nào là ta đã phải chịu đựng biết bao nhục nhã, khổ đau.
Tóm lại, về vật chất hay tinh thần, sự sống mang theo nhiều cái khổ. Sanh khổ là thế.
2) Lão Khổ. Ca dao có câu:
"Già nua là cảnh cảnh điêu tàn
Cây già cây cỗi, người già người si".
Con người đến lúc già, thân thể hao mòn, tinh thần suy kém, nên khổ thể xác lẫn tinh thần.
Khổ thể xác. Càng già, khí huyết càng hao mòn. Bên trong, ngũ tạng, lục phủ càng ngày càng mỏi mệt, hoạt động một cách yếu ớt; bên ngoài các giác quan dần dần hư hoại, như mắt mờ, tai điếc, mũi nghẹt, lưỡi đớ, tay chân run rẩy, đi đứng khó khăn, việc gì cũng nhờ vả kẻ khác.
Ðã vậy, mỗi khi thời tiết xoay trở thì cảm nhiễm theo khí hậu mà đau, như trời mới nắng thì đã sốt, trời mới mưa thì đã rét v.v.. không chút gì gọi là vui thú cả !
Khổ tinh thần. Người xưa có nói: "Ða thọ, đa nhục". Thật thế, tuổi nhiều, nhục lắm ! Càng già thân thể càng suy kém thì trí tuệ cũng càng lu mờ. Do đó, sanh ra lẫn lộn, quên trước, nhớ sau, hành động như kẻ ngây dại: ăn dơ, uống bẩn; nói năng giống người mất trí; ăn rồi bảo chưa ăn, chưa ăn bảo ăn rồi; có khi lại còn chửi bới, nói nhảm nhí làm trò cười cho lũ trẻ. Thật đúng là "Lão khổ".
3) Bệnh Khổ. hành hạ xác thân con người, làm cho nó khổ sở không gì hơn là cái đau ! Ðã đau, bất luận là đau gì, từ cái đau lăt vặt như đau răng, nhức đầu, đến cái đau trầm trọng như phung, lao v.v...đều làm cho con người phải rên xiết, khổ sở, khó chịu. Nhất là những bệnh trầm kha (lâu ngày khó chữa), thì lại càng hành hạ xác thân, đắng cơm, nghẹ nước, cầu sống không được, cầu chết cũng không, oan oan ương ương, thật là khổ não.
Thân đã đau, mà tiền lại hết. Có nhiều người sau một bận đau, chỉ còn hai bàn tay trắng ! Cho nên ngạn ngữ có câu: "Không đau làm giàu biết mấy".
Ngoài ra, bệnh tật lại còn làm cho lục thân quyến thuộc buồn rầu, lo sợ. Mỗi lần trong nhà có người đau, thì cả gia quyến đều rộn rịp, băn khoăn ngồi đứng không yên, quên ăn quên ngủ, biếng nói, biếng cười, bỏ công ăn việc làm. thật đúng là "Bệnh khổ".
4) Tử Khổ. Trong bốn hiện tượng của vô thường; sanh, già, bệnh, chết thì "chết" là cái làm cho chúng sanh kinh hãi nhất. Con người sợ chết đến đổi ở trong hoàn cảnh sống thừa, đang lẽ không nên sống làm gì nữa, thế mà nghe nói đến cái chết, cũng sợ không dám nghĩ đến. Những người xấu số bị bịnh nan y như ung thư, bịnh hủi, sống thêm một ngày là khổ thêm một ngày, thế mà những người bạc phước ấy cũng vẫn muốn sống mà thôi.
Cái chết làm khổ con người như thế nào mà ai cũng sợ hãi thế?
Về thân xác. Có mục kích một người bệnh khi hấp hối bị hành xác rồi mới biết cái chết là đáng sợ. người sắp chết, mệt ngột không ngằn, trợ mắt, méo miệng, giựt gân chuyển cốt, uốn mình, giăng tay, bẻ chân...Trong lúc ấy tai hết nghe, mắt hết thấy, mũi hết thở, miệng hết nói. Rờ thử vào người chết, thì thấy lạnh ngắt như đồng, thân cứng đơ như gỗ. xác chết dần dần sình lên, trong rất ghê tởm; nếu để lâu ngày lại nứt ra, chảy nước tanh hôi khó chịu vô cùng.
Về tinh thần. Khi sắp chết, tâm thần rối loạn, sợ hãi vô cùng: phần xót thương cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cái từ đây đoạn tuyệt, phần lo mình một thân cô quạnh, bước sang thế giới mịt mù xa lạ. Thật không còn gì đau khổ bằng phút chia ly vĩnh viễn này !
Tóm lại, cái chết làm cho thân thể tan rã, thần thức theo nghiệp dẫn đi thọ sanh ở một cõi nào chưa rõ. Thật là "tử khổ".
5) Ái Biệt Ly Khổ. Trong cái tình yêu thương giữa vợ chồng, con cái, anh em đang mặn nồng, thắm thiết mà bị chia ly, thì thật không có gì đau đớn hơn. Sự chia ly có hai loại: sanh ly và tử biệt.
Sanh ly khổ. Một gia đình đang sống trong cảnh đàm ấm vui vầy, bỗng bì hoàn cảnh bắt buộc, hay vì một tai họa thình lình xảy đến, như giặc giã, bão lụt...làm cho mỗi người bơ vơ thất lạc mỗi nơi: kẻ đầu này trông đợi, người gốc kia nhớ chờ. thật đau lòng xót dạ ! Người đời thường nói: "Thà lìa tử, chứ ai nỡ lìa sanh?". Ðó là cái khổ của "Sanh ly".
Tử biệt khổ. Nhưng mặc dù xã cách nhau người sống còn có ngày gặp gỡ; chứ chết rồi bao thuở được xum vầy? Vì vậy, đứng trước cảnh chết, là một sự biệt ly vĩnh viễn, con người không ai là chằng khổ đau. Do đó, lâm phải cảnh tử biệt này, có người đã xót thương rầu rĩ đến quên ăn, bỏ ngủ, có người đau đớn, tuyệt vọng đến nỗi toan chết theo người quá cố. Ðó là cái khổ của "tử biệt".
6) Cầu Bất Đắc Khổ (Thất Vọng). Người ta ở đời, hễ hy vọng càng nhiều thì thất vọng càng lắm. Bất luận trong một vấn đề gì, số người được toại nguyện thì quá hiếm hoi, mà kẻ thất bại bất như ý, thì không sao kể xiết. Muốn được kết quả tốt đẹp, người ta phải vận dụng không biết bao nhiêu năng lực, lao tâm, tổn trí, mất ăn, bỏ ngủ, chỉ mong sao cho chóng đến ngày thành công. Thế rồi, chẳng may những điều mong ước ấy không thành, sự đau khổ không biết đâu là bờ bến. Dưới đay, xin nêu lên vài thí dụ về những thất vọng mà người đời thường gặp nhiều nhất.
Thất vọng vì công danh. Trong đời, danh vọng thường là một miếng mồi ngon mà phần đông người đời ưa thích. Nhưng miếng mồi ấy, phải đâu dễ giành giật được? Không nói gì đến những kẻ nhảy dù, muốn làm quan tắt, nên phần nhiều hay thất bại, chỉ nói đến trường hợp những kẻ mong cầu danh vọng một cách chánh đáng, bằng năng lực, tài trí, học hỏi của mình. Ðối với những hạng người này, cũng phải nếm bao mùi thất bại, cuối cùng may ra mới được thành công. Thật đúng như lời Ôn Như Hầu Nguyễn gia Thiều đã nói:
"Gót danh lợi, bùn pha sắc xám
Mặt phong trần nắng nám mùi dâu !"
Thất vọng vì phú quý. Số người thất vọng vì công anh đã nhiều. Nhưng số người thất vọng vì phú quý cũng không phải ít. Muốn cho mau giàu, nhiều người tìm mưu này chước nọ để lừa phỉnh người ta; nhưng rồi mưu gian chước lận đỗ bể ra, tài sản bị tịch thu, bản thân bị tù tội, gia quyến bị nhục nhã theo, thực là khổ !
Thất vọng vì tình duyên. Tình duyên cũng là một điều làm cho bao người phải điêu đứng, khổ sở. Trong trường tình ái, thử hỏi đã mấy ai được toại nguyện? Nhan nhãn trên báo chí hằng ngày, những câu chuyện tình duyên trắc trở đưa đến sự quyên sinh, thật không sao kể xiết. Ðấy là "Cầu bất đắc khổ".
7) Oán Tắng Hội Khổ. Con người ở trong cảnh thương yêu, chẳng ai muốn chia ly; cũng như ở trong cảnh hờn ghét, chẳng ai mong gặp gỡ. Nhưng oái oăm thay ! Ở đời khi mong muốn được hội ngộ, lại phải chia ly; cũng như khi mong ước được xa lìa, lại phải sống chung đụng nhau hằng ngày ! Cái khổ phải biệt ly đối với hai người thương yêu nhau như thế nào, thì cái khổ phải hội ngộ đối với hai người ghét nhau cũng như thế ấy.
Người ta thường nói: "Thấy mặt kẻ thù, như kim đâm vào mắt; ở chung với người nghịch, như nếm mật, nằm gai".
Chưa nói đến trường hợp những người xa lạ, ngay trong gia đình bà con quyến thuộc, giữa vợ chồng, anh em, khi vì một lý do gì đó, sanh ra bất hòa với nhau, cũng đủ khó chịu rồi. Muốn lánh mặt nhau, mà mỗi khi đi ra đi vào lại phải gặp nhau mãi ! Quyết không nói chuyện với nhau, mà nhiều khi bắt buộc nín không được, phải nói ra với sự ngượng ngùng. Ðịnh tuyệt giao hẳn, ngặt vì còn phải ăn chung ở lộn một nhà, dầu cố sắc trốn tránh, song lắm lúc cũng phải giao thiệp lấy lệ. Thật là khổ. Ðấy là bà con cậu ruột, có tình cốt nhục, có nghĩa đồng bào, mà sự hờn ghét còn thúc đẩy con người hết muốn thân mến, không mong gặp gỡ nhau thay ! Huống chi đối với người dưng, nước lã, khác giống, khác nòi, một khi đã thù ghét nhau rồi mà phải sống bên cạnh nhau thì thế nào cũng có một ngày xảy ra đại họa. Ðó là ý nghĩa của "Oán tắng hội khổ". Ngũ Âm Xí Thạnh Khổ. Cái thân Tứ Đại của con người cũng gọi là thân ngũ ấm (năm món che đậy): sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm. Với cái thân ngũ ấm ấy, con người phải chịu không biết bao nhiêu là điều khổ. Giữa ngũ ấm ấy luôn luôn có sự xung đột, mâu thuẫn, chi phối lẫn nhau. Vì sự xung đọt, mâu thuẫn ấy, nên cái thân con người mới chịu những cái khối sau đây:
Bị luật vô thường chi phối không ngừng, từ trẻ đến già, từ mạnh đến ốm, từ đau đến chết, luôn luôn làm cho con người phải lo sợ, buồn phiền.
Bị thất tình, lục dục lôi cuốn, làm cho con người phải đắm nhiễm sáu trần, phải khổ lụy thân tâm.
Bị vọng thức điên đảo chấp trước, nên con người nhận thức một cách sai lầm: có ta, có người, còn mất, khôn dại, có không, và sanh ra rầu lo, khổ não.
Ấy là "Ngũ ấm xí thạnh khổ."

III. Ðức Phật Nêu Rõ Những Nỗi Khổ Ấy Ðể Làm Gì?

Có người sẽ băn khoăn, thắc mắc tự hỏi: Ðức Phật nêu lên một cách rốt ráo những nỗi khổ của thế gian để làm gì? Cuộc đời đã đau khổ như thế, thì nên che giấu bớt đi chừng nào hay chừng ấy, chứ sao lại lột trần nó ra làm gì cho người ta càng thêm đau khổ? Ta cố gắng tạo nên một ảo tưởng tốt đẹp về cuộc đời để sống an ổn trong ấy, có hơn không? Ðứa trẻ nít sống một cách hồn nhiên, yên ổn trong hạnh phúc, vì nó không biết đến những nỗi đau khổ, xấu xa của cuộc đời. Tại sao ta lại không cố bắt chước như chúng, đừng tìm biết gì cả về những sự xấu xa, khổ sở của cõi đời, để sống một cuộc sống có hạnh phúc hơn? Ðức Phật là một đấng thường được gọi là đấng từ bi, sao lại làm một việc nhẫn tâm như thế?
Những câu hỏi thắc mắc trên, mới nghe thì hình như có lý, nhưng nếu suy xét một cách rốt ráo, sẽ thấy chúng là nông cạn. Ðức Phật không nhẫn tâm khi nêu lên những nỗi khổ căn bản của cõi đời; chính là vì lòng từ bi mà Ngài làm như thế. Ðức Phật muốn cho người đời biết rõ những nỗi khổ của trần gian, vì những lợi ích lớn sau đây:
1. Gặp cảnh không khủng khiếp: Những nỗi khổ mà Ðức Phật nói ra ở trên là những nổi khổ căn bản, không ai tránh khỏi được. Ðã sống, tất phải gặp chúng. Có ai không ốm, không già, không chết? Có ai suốt đời không gặp chia ly với người thân thuộc, không bị chung sống với những kẻ thù nghịch? Có ai đạt được tất cả những điều mình mong ước? Cho nên dù có muốn tạo ra một ảo tưởng đẹp đẽ về cuộc đời để sống cho yên ổn, thì ảo tưởng ấy, sớm hay muộn gì cũng sẽ bị thực tế phủ phàng xé tan đi mất ! Và khi ấy, cuộc thế trần truồng, xấu xí, ghê tởm sẽ hiện ra một cách vô cùng đột ngột, trước mắt những kẻ thường quen sống trong ảo tưởng đẹp đẽ. Bấy giờ những kẻ thiếu chuẩn bị để sống một cuộc sống đau khổ, sẽ hoảng lên, vô cùng tuyệt vọng và có nhiều khi không đủ can đảm để sống nữa.
Trái lại, khi chúng ta biết rõ cảnh Ta Bà này có nhiều điều khổ, thì gặp cảnh khổ, chúng ta không đến nỗi khủng khiếp, tán loạn tinh thần, mà trái lại, chúng ta sẽ điềm tĩnh nhẫn nại để tìm phương giải thoát. Tỷ như nhà nông, biết bổn phận mình là phải vất vả với nghề cày sâu cuốc bẫm, tay lấm chân bùn, mới có lúa gạo để sống, nên gặp cảnh mưa tuôn, nắng táp cũng không nao núng chút nào. Trái lại, một kẻ quyền quí, quen sống trong nhung lụa, trong cảnh đền đài nguy nga, rủi gặp thời cuộc hổn loạ, đôi thay bất ngờ, đâm ra kinh hãi và liều mình tự tử.
2. Không tham cầu nên khỏi bị hoàn cảnh chi phối: Khi chúng ta rõ biết cuộc đời vui ít buồn nhiều, và hễ càng ham muốn nhiều thì lại càng đau khổ lắm, khi biết rõ như thế, chúng ta sẽ tiết chế dục vọng của chúng ta và sẽ "biết đủ". Do đó, chúng ta không bị hoàn cảnh chi phối, không bị sóng đời lôi kéo, vùi dập chúng ta xuống vực thẳm mênh mông của cõi Ta Bà đen tối. Tỷ như người trí, rủi bị giam cầm, biết lo nghĩ phương kế để thoát ly lao ngục, chứ không như kẻ dại, trong khi ngồi tù, chỉ lo tranh giành những món cơm thừa, canh cặn mà quen rằng mình sẽ bị đem xử tử, nếu mình không sớm tìm kế thoát thân.
3. Gắng sức tu hành để thoát khổ: Khi đã biết thân người nhiều khổ và cảnh Ta Bà ít vui, con người mới mong ước được thoát ly ra khỏi cảnh giới đen tối của mình và sống ở một cảnh giới tốt đẹp hơn. Cũng như lũ trẻ đang chơi mê mẩn trong cảnh nhà đang cháy, may nhờ đáng cha lành bào động, chúng mới biết và gấp rút tìm đường thoát ra.

C. Kết Luận

Biết Khổ Phải Tìm Nguyên Nhân Sanh Ra Khổ Ðể Diệt Trừ

Chúng ta đã được đức Phật từ bi chỉ rõ cho thấy rằng cõi Ta Bà này, cũng như tam giới đều là biển khổ. Kinh Pháp Hoa cũng nói: "Ba cõi không an, ví như nhà lửa", tiếc vì chúng sinh mê muội, lấy khổ làm vui mà không tự biết, nên phải bị trầm luân.
Nay chúng ta đã biết rõ mặt thật xấu xí của đời rồi, đã biết nó là một biển khổ mênh mông luôn luôn dậy sóng, thì ta phải nhàm chán nó, xã lánh nó. Biết khổ để rồi chán đời, nản chí, buông xuôi tay ngồi khóc than. Nhưng làm thế nào để thoát ly nó, nếu chúng ta chưa rõ biết ngành ngọn, đường đi nước bước, chưa biết rõ vì đâu phát sinh đau khổ? Nhà lương y giỏi muốn trừ bênh, phải tìm căn nguyên của bệnh. Một viên tướng giỏi muôn trừ diệt tận gốc bọn phiến loạn, phải cho điều tra kỹ lưỡng sào huyệt, tổng hành dinh của chúng ở đâu, nhiên hậu mới có thể bao vây, đánh bắt chúng nó đầu hàng một cách dễ dàng.
Cũng vậy, biết khổ chưa đủ để diệt khổ. Muốn diệt khổ tận gốc phải tìm nguyên nhân phát sanh ra khổ.
Nguyên nhân phát sanh ra khổ, đức Phật đã thuyết trong đoạn thứ hai của tứ diệu đế là Tập đế, mà quý độc giả sẽ đọc trong bài thứ ba của tập sách này.

TỨ DIỆU ĐẾ : (3)


PHẬT HỌC PHỔ THÔNG:
Sa Môn : Thích Thiện Hoa.

TỨ DIỆU ĐẾ : (3)

Bài Thứ 3

TẬP ĐẾ: (Sameda Dukkha)

A. Mở Ðề

Vì Sao Phật Nói Khổ Ðế Trước và Tập Ðế Sau

Trong Khổ đế, chúng ta đã thấy rõ những nỗi thống khổ của trần gian. Trước những nỗi khổ ấy, không ai là không nhàm chán, ghê sợ cho cuộc đời ở cảnh giới Ta Bà nầy, và không ai có thể an tâm, điềm nhiên sống trong cảnh ấy. Nhiều câu hỏi liền nẩy ra trong đầu óc chúng ta: Vì đâu sanh ra những nỗi khổ ấy? Ta có thể thoát ra khỏi móng vuốt của chúng để sống ở một cảnh giới đẹp đẽ hơn chăng? Và thoát ra bằng cách nào?
Ðó là những câu hỏi mà đức Phật sẽ lần lượt giải đáp một các tường tận ở ba phàn: Tập, Diệt và Ðạo đế.
Ngay trong phần Tập đế nầy, đức Phật giải đáp câu hỏi thứ nhứt của chúng ta là nói rõ nguyên nhân của đau khổ.
Ðức Phật rất rành tâm lý của chúng sanh, nên mới nêu lên cái khổ trước rồi mới nói cái nhân sau. Nếu vào ngay đầu, Ngài nói: "Nầy các ngươi ! hãy nghe ta nói rõ những nguyên nhân sanh ra đau khổ đây !" Nếu Ngài bảo như thế, chắc chúng ta sẽ không chú ý nghe cho lắm, vì chúng ta, mặc dù là sống trong bể khổ, những vì mê mờ, chúng ta có thấy một cách tường tận và rùng rợn tất cả những nỗi khổ của cảnh Ta Bà đâu? Có nhiều khi chúng ta còn cho cảnh giới nầy là vui nữa là khác. Do đó, chúng ta không thiết tha đi tìm nguyên nhân phát anh đau khổ. Chỉ khi nào chúng ta đã ý thức một cách sâu sắc những nỗi khổ sở của chúng ta, khi ấy chúng ta mới thấy sự băn khoăn khẩn cấp đi tìm đường tự giải cứu cho chúng ta. Và muốn tự giải cứu, tất chúng ta cầm tìm xem vì đâu mà có đâu khổ; như vị lương y, muốn trị bệnh, trước phải tìm hiểu nguyên nhân sinh bệnh.
Nguyên nhâ sinh bệnh khổ đâu của chúng sanh, đức Phật gọi là Tập đế.

B. Chánh Ðề

I. Ðịnh Nghĩa

Tập đế: Tập là chứa nhóm, dồn thêm mỗi ngày mỗi nhiều hơn lên. Ðế là sự thật vững chắc, đúng đứn hơn cả. Tạp đế là sự thật đúng đắn, vững chắc về nguyên nhân của những nỗi khổ đã chứa nhóm, tích trữ lâu đời, lau kiếp trong mỗi chúng sanh. Ðó là sự thật về cội gốc của sanh tử, luân hồi, của bể khổ trần gian.

II. Nguyên Nhân Của Ðau Khổ Là Những Gì?

Phật dạy: Cội gốc của sanh tử luân hồi do các phiền não mê lầm là những dục vọng xấu xa, những ý niệm sai quấy, làm não loạn thân tâm chúng ta.
phiền não rất nhiều, nói rộng thì đến tám muôn bốn ngàn (84.000), nói hẹp lại thì có mười phiền não gốc, gọi là căn bản phiền não. Do mười phiền não gốc nầy mà sanh ra vô số phiền não ngành ngọn (xin xem quyển Tu Tâm). Mười phép phiền não gốc là:
1. Tham: nghĩa là tham lam. Tánh tham có động lực bắt ta phỉ dòm ngó, theo dõi những cái gì nó ưa thích, như tiền tài, danh vọng, miếng ăn, chỗ ở v.v...rồi nó xúi ta lập mưu nầy, chước nọ để tầm kiếm cho được những thứ ấy. Ðiều tai hại nhất là lòng tham không có đáy, thâu góp bao nhiêu cũng không vừa; được một muốn có mười, được mười muốn có trăm. Tham cho mình chưa đủ, còm tham cho bà con quyến thuộc và xứ sở của mình. Cũng vì tham mà cha mẹ vợ con xung đột; cũng vì tham mà bè bạn chìa lìa; cũng vì tham mà đồng bào trở lại xung đột, xâu xé nhau; cũng vì tham mà chiến tranh tiếp diễn, giết hại không biết bo sanh linh. Tóm lại, cũng vì tham mà nhân loại, chúng sanh chịu không biết bao nhiêu điều thống khổ.
Tham không những hại cho mình và cho người, trong hiện tại mà cả đến tương lai nữa.
2. Sân: nghĩa là nóng giận. Khi gặp những cảnh trái ý nghịch lòng, như lòng tham không được toại nguyện, thì sân nổi lên, như một ngọn lửa dữ đốt cháy lòng ta. Thế là mặt mày đỏ tía hay tái xanh, bộ dạng thô bỉ, nói năng hung dữ, có khi dùng đén võ lực hay khí giới để hạ kẻ đã làm trái ý, phật lòng ta. Vì nóg giận mà cha mẹ, vợ con, anh em xa lìa, bạn bè ly tán; vì nóng giận mà đồng bào trở nên thù địch, nhân loại đua nhau ra chiến trường; vì nóng giận mà kẻ bị tàn tật, người vào khám đường, kẻ mất địa vị, người tan sự nghiệp. Kinh Hoa Nghiêm chép: "Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai", nghĩa là một niệm sân hận nổi lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra. Sách Phật chép: "Nhất tinh chi hỏa, năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn", nghĩa là một đóm lửa giận, có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức. Thật vậy, lửa sân hận đã bừng cháy lên giữa lòng nhân loại, và đã đốt thiêu không biết bao nhiêu là công lao, sự nghiệp mà nhân loại đã tốn bao nhiêu mồ hôi và nước mắt để tạo nên.
3. Si: nghĩa là si mê, mờ ám. Si như là một tấm màn dày đặc, đen tối trùm lên trí huệ của ta, làm cho ta không thể nhìn thấy được sự thật, phán đoán được cái hay, cái dỡ, cái tốt, cái xấu. Do đó, ta gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi, làm hại mình, hại người mà không hay. Vì si mà lòng tham trở thành không đáy, bởi vì nếu người sáng suốt thấy cái tai hại của tham, thì người ta đã kềm hãm được một phần nào tánh tham. Vì si mà lửa sân tự do bùng hcáy; nếu người sáng suốt biết cái tai hại của lửa sân thì không để cho nó hoành hành như thế. Tổ sư đã dạy: "Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác trì". Nghĩa là không sợ tham và sân nổi lên, mà chỉ sợ mình giác ngộ chậm. Nói một cách dễ hiểu hơn: Không sợ tham và sân, mà chỉ sợ si mê. Thật đúng như thế: Nếu tham, sân nổi lên, mà có trí sáng suốt ngăn chận lại, thì tham, sân không có trí huệ, sáng suốt thì tham, sân không thể tồn tại được; như khi đã có ánh sáng mặt rời lên, thì bóng tối tất nhiên phải tự tan biến.
Ba tánh tham, sân, si này, Phật gọi là ba món độc; vì do chúng nó mà chúng sanh phải chịu nhiều kiếp sanh tử luân hồi, đọa vào địa nghục, ngạ quỉ và súc sinh.
4. Mạn: nghĩa là tự nâng cao mình lên và hạ người khác xuống; tự tháy mình lag quan trọng mà khinh rẻ mọi người; ỷ mình có tiền của, tài trí hy quyền thế mà dương dương tự đức, mục hạ vô nhân, khinh người già cả, hỗn láo với người đức hạnh, chà đạp người dưới, lấn lướt người trên.
Vì lòng ngã mạn cho mình là hơn hết, nên chẳng chịu học hỏi thêm, không nghe lời nói phải. Do đó, làm nhiều điều lầm lẫn sai quấy, phước lành tổn giảm, tội lỗi càng tăng, phải chịu sanh tử luân hồi không bao giờ cùng.
Mạn có bảy thứ:
a) Mạn: hơn người ít, mà nghĩa mình hơn nhiều.
b) Ngã mạn: ỷ mình hay giỏi mà lấn lướt người.
c) Quá mạn: mình bằng người mà cho là hơn người, người hơn mình l\mà cho là bằng.
d) Mạn quá mạn: người hơn mình nhiều mà cho mình hơn người.
đ) Tăng thượng mạn: chưa chứng thánh quả mà cho mình đã chứng.
e) Ty liệt mạn: mình thua người nhiều mà nói rằng thua ít.
g) tà mạn: người tu về tà đạo, được chút ít thần thông, hoặc hiểu biết được đôi chút việc quá khứ, vị lai, rồi khinh lướt người.
5. Nghi: nghĩa là nghi ngờ, không có lòng tin. Người nghi ngờ không làm nên được việc gì hết. Ðối với người thân trong gia đình, họ không tin cậy giao phó công việc; đối với bạn bè, họ nghi ngờ tất cả mọi thiện chí. Ngay đối với mình, họ cũng không tự tin nữa. Ðã không tự tin, họ còn gây hoang mang cho người chung quanh, làm cho người thế gian ngã lòng, thối chí.
Ðối với đạo lý chân chánh, họ cũng không hăng hái tin theo. Những pháp tu giải thoát và các điều phước thiện, họ do dự không làm.
Nghi có ba phương diện:
a) Tự nghi: nghĩa là nghi mình. Chẳng hạn như nghe chư Tăng bảo: "Tu hành sẽ được giải thoát", nhưng lại tự nghi rằng: "Chẳng biết mình tu có được không?". Vì lòng do dự ngi ngờ ấy, nên không tu.
b) Nghi pháp: nghĩa là nghi phương pháp mình tu. Chẳng hạn như nghe kinh Di Ðà nói: "Người chí tâm niệm ph, từ một ngày cho đến bảy ngày, được nhất tâm bất loạn, đến khi lâm chung sẽ được Phật Di Ðà tiếp đãn sanh về nước Cực lạc"; nhưng họ lại nghi ngờ "Phương pháp ấy không biết có kết quả đúng như vậy không? " Do sự nghi ngờ đó mà không tu.
c) Nghi nhơn: nghĩa là nghi người dạy mình. Như có người dạy rằng: "Làm lành sẽ được phước, làm ác sẽ bị tội"; nhưng lại nghi rằng: "Chẳng biết người này nói có thật không ". Do sự nghi ngờ ấy mà không làm.
Tóm lại, tánh nghi ngờ làm cản trở sự tiến triển của mình, ngăn ngại mọi công tác hữu ích và làm cho cuộc đời không vượt ra khỏi cảnh tối tăm khổ sở.
6. Thân kiến: nghĩa là chấp thân ngũ ấm tứ đại giả hiệp này làm ta. Vì cái chấp sai lầm ấy, nên thấy có một cái Ta riêng biệt, chắc thật không biến đổi, thấy cái Ta ấy là riêng của ta, không dính dấp đến người khác, và là một thứ rất quý báu. Vì tưởng lầm như thế, nên kiếm món ngon, vật lạ cho ta ăn, may sắm quần áo tốt đẹp co Ta mặc, lo xây dựng nhà cao, cửa lớn cho Ta ở, thâu góp thật nhiều của cải, đất ruộng để dành cho Ta hãnh diện với mọi người. Do sự quý chuộng phụng sự cho cái Ta ấy, mà tạo ra lắm điều tội lỗi, chà đạp lên bao nhiêu cái Ta khác, làm cho họ đau khổ vì Ta. Và thế giới trở thành một bãi chiến trường cũng vì cái Ta.
7. Biên kiến: nghĩa là chấp một bên, nghiêng về một phía, có một thành kiến cực đoan. Biên kiến có hai lối chấp sai lầm lớn nhất là:
a) Thường kiến: nghĩa là chấp rằng khi chết rồi, cái Ta vẫn tồn tại mãi: người chết sẽ sanh ra người, thú chết sẽ trở lại thú, thánh nhơn chết trở lại làm thánh nhơn. Do sự chấp ấy, họ cho rằng tu cũng vậy, không tu cũng vậy, nên không sợ tội ác, không thích làm thiện. Lối chấp này, đọa Phật gọi là "Thường kiến ngoại đạo".
b) Ðoạn kiến: nghĩa là chấp rằng chết rồi là mất hẳn. Ðối với hạng người chấp Ðoạn kiến, thì hễ tắt thở là không còn gì tồn tại nữa; tội cũng không mà phước cũng chẳng còn. Họ không tin nhân quả luân hồi, nên mặc tình làm các điều tội lỗi. Họ tự bảo: "Tu nhơn tích đức già đời cũng chết; hung hăng, bạo ngược tắt thở cũng không còn".
Có người đối trước những cảnh buồn lòng, nghịch ý, những chuyện tình duyên trắc trở, tưởng rằng chết là hết đau khổ, là giải thoát tất cả, nên họ đã không ngần ngại mượn chén thuốc độc, hay dòng sông sâu để kết liễu đời mình. Họ đâu có ngờ rằng chết rỗi vãn chưa hết ! Lối chấp này, kinh Phật gọi là "Ðoạn kiến ngoại đạo".
8. Kiến thủ: nghĩa là chấp chặt sự hiểu biết sai lầm của mình.
Kiến thủ có hai phương diện:
a) Kiến thủ vì không ý thức được sai lầm của mình. hành vi của mình sai quấy, ý kiến của mình sai lầm, nhưng vì không đủ sáng suốt để nhận thấy, nên cứ bảo thủ hành vi, ý kiến của mình, tự cho là giỏi, ai nói cũng chẳng nghe.
b) Kiến thủ vì tự ái hay vì cứng đầu. Biết mình làm như thế là sai, nói như vậy là dở, nhưng vì tự ái, cứ bảo thủ cái sai cái dở của mình, không chịu thay đổi. Như ông bf trước đã lờ theo tà đạo, nay con cháu vẫn biết đó là tà, nhưng cứ theo như thế mãi không chịu đổi. Họ cứ nói một cách liều lỉnh: "Xưa sao nay vậy", hy "Xưa bày này làm". Hay như cha mẹ trước đã lỡ làm nghề tội lỗi, đến đời con cháu, vẫn cứ bảo thủ nghề ấy không chịu thay nghề khác.
Nói rộng ra trong thế giới, có một số đông người, mặc dù thời thế đã cải đổi, tiến bộ mà họ cứ vẫn giữ lại những lề thói, cổ tục hủ bại mãi. Chẳg hạn như ở Việt Nam ta, đến bây giờ mà vẫn có những Phật tử, hễ trong nhà có người chết là giết heo bò để cúng kiến; khi đưa đám tang, gánh theo những con heo quay to tướng, đi biểu diễn qua các đường phố; mỗi khi tuần tự hay kỵ giỗ, thì đốt giấy tiền vàng bạc, áo quần kho phướg, mỗi năm phải hội họp để cúng tế tà thần, ác quỷ v.v...Chấp chặt những hủ tục như thế, đều thuộc và "Kiến thủ" cả.
9. Giới cấm thủ: nghĩa là làm theo lời răn cấm của ngoại đạo tà giáo. Nhưng sự răn cấm nầy nhiều khi thật vô lý, mê muội, dã man, không làm sao đưa người ta đến sự giải thoát được, thế mà vẫn có nhiều người tin và làm theo. Chẳng hạn như ở Aán độ, có phái ngoại đạo lấy đá dằn bụng, đứng một chân giữa trời nắng, nằm chỗ bẩn thỉu, leo lên cao nhảy xuống, gieo mình vào lửa, hay nhảy xuống sông trầm mình để được phước. Có đạo, mỗi năm lại bắt tín đồ giết một người để tế thần, hay như đạo của anh chàng Vô Não, phải giết một trăm người lấy một trăm ngón tay xâu làm chuỗi hạt mới đắc đạo.
Những thứ cuồn tín như thế, không làm cho cuộc đời sáng sủa, mà còn làm đen tối, khổ đau thêm.
10. Tà kiến: nghĩa là chấp theo lối tà, không chơn chánh, trái với sự thật, trái với luật nhân quả. Nói một cách khác, Tà kiến nghĩa là mê tín dị đoan, như thờ đầu trâu, đầu cọp, bình vôi, ông táo, xin xâm, bói quẻ, buộc tôm, đeo niệt, coi sao, cúng hạn v.v...
Nói rộng ra, cả bốn món chấp trên, đều thuộc và Tà kiến cả.

III. Tánh Chất Của 10 Món Căn Bản Phiền Não

Tánh chất của mười món căn bản phiền não không giống nhau: có thứ nhanh nhẹn, có thứ chậm chạp; có thứ mãnh liệt, có thứ yếu ớt; có thứ đam sâu gốc rễ trong lòng người, có thứ nằm khơi khơi ở trên ý thức; có thứ dễ dứt trừ, có thứ khó tiêu diệt. Vì tính chất không đồng ấy mà đức Phật đặt cho chúng những danh từ khác nhau, để dễ phân biệt, như Kiết sử, Kiến hoặc, Tư hoặc.
1. Kiết sử: Mười thứ phiền não gốc: thâm, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến cũng gọi là "Thập Kiết sử".
Kiết là trói buộc; Sử là sai khiến. Mười phiền não nầy gọi là Kiết Sử, vì chúng nó có mãnh lực trói buộc loài hữu tình không cho ra khỏi ba cõi và sai sử chúng sinh phải quay lộn trong vòng sanh tử luân hồi, từ đời nầy đến kiếp nọ, và phải chịu không biết bao nhiêu điều khổ não.
Tuy đều có tánh chất sai sử, trói buộc cả, nhưng mười Kiết sử này có thứ mạnh, thứ yếu, thứ chậm chạp, thứ mau lẹ, nên đức Phật chia chúng ra làm hai thứ với hai tên gọi khác nhau là: Lợi sử và Ðộn sử.
a) Lợi sử là những món phiền não rất lanh lẹ, dễ sanh khởi mà cũng dễ trừ bỏ [ lợi là lanh lợi). Lợi sử gồm có năm là: Thân kiến Biên Kiến, Kiến Thủ, Giới Cấm thủ ,Tà Kiến.
b) Ðộn sử là những món phiền não nặng nề, chậm chạm, sanh khởi một cách ngấm ngầm, sâu a, nhưng mãnh liệt, khó dứt trừ (độn là chậm lụt). Thuộc về Ðộn sử gồm có năm phiền não là: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi.
Người học Phật muốn giải thoát, tất nhiên phải chựt đứt mười thứ dây nhợ, xiềng xích nầy mới được.
Trước khi muốn chặt đứt chúng một cách có hiệu quả, phải hiểu rõ tánh chất mềm hay cứng, bở hay dai của chúng để liệt chúng vào loại dễ chặt hay khó chặt. Như người bửa củi, chia củi ra làm hai loại: loại dễ bửa và loại khó bửa; loại dễ bửa thì dùng bú nhỏ, loại khó bửa thì dùng búa lớn; cũng vậy, hành giả trước khi muốn chặt đứt phiền não, phải liẹt chúng làm hai loại: lọi Kiến hoặc dễ trừ, vf loại Tư hoặc khó diệt.
2. Kiến hoặc: Chữ Kiến hoặc có hai nghĩa:
a) Loại mê lầm nầy mong manh cạn cợt, chỉ tu hành đến địa vị Kiến đạo (thấy chân lý) thì đoạn được.
b) Loại mê lầm nầy tuộc về phần vọng kiến (vọng chấp), phân biệt của ý thức đối với sự vô thường, vô ngã v.v....mà sinh ra; hay do lầm nghe theo lời khuyên dạy của ta sư ngoại đạo mà sinh ra.
Nói một cách dễ hiểu hơn, Kiến hoặc là cái lầm thuộc về mê ly, do vọng chấp (chấp sai) phân biệt của ý thức sanh ra. Ðến địa vị Kiến đạo là đoạn trừ được cái hoặc này. Bởi chúng nó dễ trừ, cũg hư cỏ mọc khơi trên mặt đất, hễ dẫy (phác) thì hết, nên cũng gọi là "Phân biệt hoặc" (nghĩa là cái lầm về phần phân biệt của ý thức).
Tóm lại, Kiến hoặc hay Phân biệt hoặc là do mê ly mà sanh, và sẽ bị diệt trừ khi ngộ được chân lý.
Mười phiền não nói trên, hay Kiến hoặc, nếu đem phối hợp với bốn Ðế trong ba cõi, thì thành ra tám mươi tám hoặc.
Ðể có một ý niệm rõ ràng hơn, chúng ta hãy phân tách như sau:
Mười món Kiến hoặc là: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Thân kiến, Biên kiến, Kiến thủ, Giới cấm thủ và Tà kiến.
Trong ba cõi (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới), mỗi cõi có bốn Ðế (khổ, tập, diệt, đạo), mỗi đế có các hoặc (mê lầm) chung hiệp lại thành tám mươi tám Kiến hoặc.
Như Dục giới có bốn Ðế: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Khổ đế có đủ mười hoặc. Tập đế và Diệt đế chỉ có bảy hoặc (vì trừ Thân kiến, Biên kiến và Giới cấm thủ). Ðạo đế có tám hoặc (trừ Thân kiến và Biên kiến). Bốn đé cộng thành ba mươi hai Kiến hoặc.
Cõi Sắc và Vô sắc cũng y như Dục giới, song ở trong đó mỗi Ðế đều trừ ra một món Sân (vì hai cõi nầy chỉ có vui trong thiền định, nên chẳng có Sân) nên mỗi cõi chỉ có hai mươi tám hợc. Hai cõi hiệp lại thành năm mươi sáu hoặc; cộng với ba mươi hai hoặc ở cõi Dục nữa, tổng cộng thành ra tám mươi tám món Kiến hoặc.
Ðây là biểu đồ 88 món Kiến hoặc
I. Dục giới (có 32)
1. Khổ đế: 10
a) Tham, b) Sân
c) Si, d) mạn, đ) Nghi
e) Thân kiến
ê) Biên kiến, g) Kiến thủ
h) Giới cấm thủ
I) Tà kiến
2. Tập đế: 7
Như Khổ đế, trừ Thân kiến, Biên kiến và Giới cấm thủ
3. Diệt đế: 7
Như tập đế
4. Ðạo đế: 8
Trừ Thân kiến và Biên kiến
II. Sắc giới (có 28)
1. Khổ đế: 9
Như Khổ đế ở Dục giới, trừ Sân.
2. Tập đế: 6
Như Tập đế ở Dục giới, trừ Sân.
3. Diệt đế: 6
Như Diệt đế ở Dục giới, trừ Sân.
4. Ðạo đế: 7
Như Ðạo đế ở Dục giới, trừ Sân.

III. Vô sắc giới (có 28)

Như Khổ, Tập, Diệt, Ðạo ở Sắc giới.
Sắc giới và Vô sắc giới đều trừ Sân, là vì hai cõi nầy ở trong thiền định, có hỷ có lạc, nên Sân không sanh khởi.
Khổ đế đủ mười hoặc là vì thuộc về Quả. Tập đế ít hơn (có 7) là vì thuộc và Nhân. Diệt đế là quả xuất thế nên chỉ có 7. Dạo đế về phần tu hành nên chỉ có 8.
3. Tư hoặc: Trong số mười phiền não căn bản nói trên, có bốn thứ ăn sâu gốc rễ từ vô thỉ rất khó diệt trừ là Tham, Sân, Si, mạn (bốn Ðộn sử) thì gọi là Tư hoặc. Theo tân dịch thì Tư hoặc có hai nghĩa:
a) Nó ngấm ngầm khởi lên, do mê muội về sự vật mà sanh; như đói với sự vật ăn, mặt, ở ( sắc, thanh, hương, vị, xúc) sanh tham gia trước.
b) Sự mê lầm này phải đến địa vị Tu đạo mới trừ dứt được.
Chúng nó có từ vô sỉ đén giờ, hễ có ta là có nó, nó với ta đông minh mộit lượt, nên cũng gọi là "câu sanh hoặc ". Chúng nó có tiềm tàng sâi kín, và chi phối sai tử chúng tamột cách mãnh liệt, nên hành giả phải hết sức tu trì, mới có thể lần trừ hồi được. Cũng như cỏ cú, phải ra công moi đào nhiều lần, mới nhổ sạch tâĩn gốc.
Tóm lại Tư hoặc cũng có tên Câu sanh hoặc, do sự mê là sanh, và chỉ khi đến địa vị Tu đọ mới đoán ra được.
Mười món này phối hợp với bốn đế ở ba cõi, sẽ thành 81 món như sau:
Mười món Dục giới, có 4: Tham, San, Si, Mạn.
Tư Hoặc Sắc giới, có 3: Tham, Si, Mạn.
Vô sắc giới, có 3: Tham, Si, Mạn
(hai cõi sâu vì ở trong thiền định, nên không có sân)
Bốn thứ tư hoặc này lại chia ra làm ba hạng: hạng nhất là bậc thượng; hạng vừu là hạng bậc trung; hạng kém hơn là hạng bậc hạ. Mỗi hạng như hé lại chia ra làm ba bậchay ba phẩm nữa (thượn, chung, hạ), cộng tất cả thành chín phẩm.
(Xem biểu chín phẩm Tư hoặc dưới đây)
Mười thứ I. Thượng 1. Thượng thượng
Tư hoặc 2. Thượng trung
chia làm 3. Thượng hạ
chín phẩm II. Trung 1. Trung thương
2. Trung trung
3. Trung hạ

III. Hạ 1. Hạ thượng

2. Hạ trung
3. Hạ hạ
Chín phẩm Tư hoặc nhân cho ba cõi (gồm chín địa 81 thứ) hoặc.
(Xem biểu đồ 81 moán Tư hoặc đưới đây)
I. Dục giới 1.Ngũ thứ tạp cư địa, có:9 phẩm Tư hoặc

II.Sắc giới 2. Sơ Thiền, ly sanh hỷ lạc địa: __

3. Nhị thiền định sanh hỷ lạc địa: __
4. Tam thiền ly hỷ lạc địa: __
5. Tứ thiền xả niệm thah tịnh địa: __

III. Vô sắc giới 6. Không vô biên xứ địa __

7. Thức vô biên xứ đia __
8. Vô sỡ hữu xứ địa __
9. Phi phi tưởng xứ địa __
Cộng: 9 địa Thành: 81 phẩm Tư hoặc
VI. Tóm Tắt Về Ý Nghĩa Kiến Hoặc và Tư Hoặc
Nói tóm lại, nhưng cái mê lầm thuộc về phần phan biệt (do ý thức phân biệt mà sanh) đều thuộc về Kiến hoặc. Nhừn cái mê lầm thuộc về phând Câu sanh (ngấm ngầm cùng với ta đồng sanh) th ì thuộc về phần Tư hoặc.
Lại một nghĩ nữa, những cái mê lầm thuộc về phần mê lý, đến khi Kiến đạo là đoạn trừ đuợc, nên gọi là Kiến hoặc. những cái mme lầm thuộc về phần mê sự, phải tu hành đến địa vị Tu đạo, mới lần đoạn trừ, tjhì gọi là tư hoặc. Ðoạn Kién hoặc chỉ mới là ếwt cái lầm trên phương diện kiến thuắc; đến khi đoạn Tư hoặc thế gian hì cả cái lầm trên phương diện ý thức, hanhd vi đều không còn nữa.
Ðoạn 88 cái lầm về Kiến hoặc và 81 cái lầm về Tư hoặc thì sẽ chứng được 4 quả thánh Thanh văn của Tiểu thừa, trong đó quả vị cao nhất là quả vị A la hán (1)

C. KẾT LUẬN:

Sỡ dĩ chúng sinh chịu được các đều khổ não, nguyên nhân là do phiền não gây tạo ra nghiệp Tập đế. Tập đế gồm có nhiều thứ phiền não; nhưng có mười thư can bản phièn não là: tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiếm, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến.
Trong 10 món này, vì căn cứ theo nhiều cái dễ phát sinh dễ trừ là năm món sau, thì gọi là ngũ lợi sữ; còn 5 món trước tánh nó ngấm ngầm phát sanh và khó đoạn trừ thì gọi là Ngũ độn sử.
Ðứng về phương diên Tu chứng mà xét, thì hành giả trong khi tu hành, chia 10 món phiền não trên làm hai loại, để đoạn trừ trong thời kỳ sau đây:
1. những cái me lầm khi thấy đạo (chân lý) mới đoạn được, thì gọi là Kiến hoặc.
2. Những cái mê lầm khi đén địa vị tu đạo mới đọan đư2ợc thì gọi là Tư hoặc.
Về Kiến hoặc, ở cõi Dục giới có 32 món mê lầm, ở cõi sắc giới có 28 và Vô sắc giới cũng có 28, cộng lại thành 88 món mê lầm. Cái lầm ở cõi dục rất thô, đến cõi sắcvà Vô sắc giới thì vi tế hơn. Ðoạn được 88 thứ Kiến hoẳc trong ba cõi, thì chứng đặng quả thánh thứ nhất trong bốn quả của Tiẻu thừa là Tu đà hoàn (Tàu dịch là Dự lưu). Ðến qủa này, 81 phẩm tư hoặc của ba cõi vẫn chưa đoạn trừ.
Về Tư hoặc thì cõi Dục giới có 4: tham, sân, si man. Cõi sắc giới và vô sắc, mỗi cõi có ba (vì trừ sân). Cộng chung lại là mười món Tư hoặc. Vì chúng có thô vi tế không đồng nên phân ra có thượng, trung, hạ phẩm. Mỗi phẩm lại phân ra ba phẩm nữa là: Thượng, trung, hạ cộng thành 9 phẩm.
Trong ba cõi có chia ra làm 9 địa mỗi địa có 9 phẩm Tư hoặc từ thô đến tế, công chung 9 địa thành ra 81 Tư hoặc (1) (1)
Chín phẩm Tư hoặc ở cõi Dục thì rất thô, còn hai cõi trên lần vi tế. Các thứ phiền não Tư hoặc vi tế dây, chiêu cảm với nhữn khổ quả sanh tử, luân hồi trong cõi, chứng quả A la Hán.

Phần Phụ Chú
Tứ Ðế là thuộc về giáo lý tiểu thừa. Trong khi nghiên cứu và trung thành với giáo giáo lý này, chung tôi chỉ kể chỉ có hai thứ hoặc và kiến hoặc và Tư hoặc. Nhưng theo giáo lý Ðqị thừa thì ngoài hai hoặc trên, có hai thứ hợc khác nữa là Trần sa hoặc. ếu chứng quả vị Ðại Thừa Bồ tát hay Phật, thì phải đoạn trừ hai hoặc sau này
Ðể có một ý niệm tổng quát về các thứ hoặc, chúng tôi xin được phụ chú dưới đây hai loại hoặc ấy:
1. Trần sa hoặc: Trần sa hoặc là cái mê lầm như cát bụi. Cái mê lầm không phải của mình, vì khi chưng đươc quả A la Hán thì cái me lầm về phần Kiến Hoặc và Tư hoặc nơi cá nhân mình đã hết. Cái chơn trí ở nơi tâm mình đã sáng suốt rồi. Nhưng so với mình, còn thấy cái mê lầm của chúng sinh nhiều như cát bụi, nên sanh tâm chán ngán, thối chí độ sanh, cứ trầm không thu tịch, thủ cảnh thiên không Niết Bàn của Tiểu Thừa, không chịu ra hóa đạo độ sanh (vì còn pháp chấp, mê lầm thấy thật có pháp mình tu, Niết Bàn mình chứng).
2. Vô minh hoặc: Vô minh là mê lầm, không rõ được bản chất chơn tâm. Thứ mê lầm này là góc của các thứ mê làm khác, nên gọi là bản vô minh. Nó rất vi tế, phá trừ trần sa hoặc rồi mới phá trừ được Vô minh hoặc.
Cứ theo lối tu chứng của Ðại Thừa mà luận, thì phải trải qua 51 địa vị, mới phá hết dược các vô minh. khi mãn địa vị Thập tín rồi bắt đầu lên thập trụ (10 vị) phá một phần vô minh thì được một phần đức pháp tánh (3 đức: Pháp thân, bát thân, Giải thoát), chứng len vị sơ trụ. Như thế cú phá thêm một phần vô minh là chưng lên một địa vị; cho đến phá được 10 phần thì phá đước Thập trụ. Bước qua Thập hạnh (10 vị), Thập hồi hướng (10 vị) và thập địa (10 vị ) cũng thế, nghĩa là phá một phần vô minh thì chứng lên một địa vị. Cho đến địa vị thứ 51; là Ðẳng giác, dùng trí kim cương phá sạch hết tướng vô minh rất tinh tế rồi, thì chứng được địa vị thưa 52 là quả Diệu giác (Phật). Lúc bấy giờ vô minh diệt hết trí giác thế gian toàn minh, cũng như trăng rằm Trung thu, bao nhiêu mây mờ vẹt hết, tỏa ánh sáng khắp mười phương.
Chúng ta nên lưu ý: Kiến hoặc, Tư hoặc là chiêu cảm phần đoạn sanh tử trong ba cõi. Ðoạn Kiến hoặc. Tư hoặc thì không thọ phần sanh tử ra ngoài tam giới, được thiên lý chơn, chúng nhị thừa: Thanh văn, Duyên giác. Ðoạn Trần sa hoặc chứng quyền thừ Bồ tát. Ðoạn sạch vô minh chứng quả Phật vô thuợng. Xét như thế thì từ khi phát tâm tu hành cho đến thành Phật, phải trải qua một công trình lớn lao và một thời gian lâu xa mới được.
(1) Sở dĩ gọi là phẩm mà không gọi là món, loại hay thứ là vì trong mỗi mê lầm ấy, không khác chất, chỉ khác phẩm lượng mà thôi, nghĩa là nó đậm hay nhạt, mạnh hay yếu mà thôi .
..................................................................................................................................


(Bắt đầu từ đây là hay nhe các bạn. Ai nắm vững phần này trở đi thì đọc kinh sẽ đỡ khó khăn hơn nhiều)