KINH TỨ PHẦN NHỤC
Bốn loại thức ăn
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết
phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại. Chúng
ta phải biết những thức ăn và thức uống nào gây tàn phá và làm mất sự
điều hòa trong cơ thể. Khi chúng ta ăn những món hiền lành và bố dưỡng
thì chúng ta cũng biết. Ðó gọi là chánh kiến. Ta thực tập chánh kiến
ngay trong đời sống hằng ngày, trên bàn ăn và trong khi nấu ăn, chứ
không phải chỉ thực tập trong thiền đường mà thôi. Trước khi ăn chúng ta
nói: "chỉ xin ăn những thức ăn có tác dụng nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật
bệnh", đó là chánh kiến áp dụng khi ăn và khi nấu ăn.
Nói về đoàn thực, Bụt đã dùng hình ảnh của hai vợ chồng nhà kia ăn thịt
con. Hai vợ chồng này mang đưá con trai duy nhất đi qua sa mạc. Họ nghĩ
rằng số lương thực đem theo là đủ dùng cho chuyến đi. Nhưng chưa ra khỏi
sa mạc họ đã hết thực phẩm. Hai vợ chồng biết rằng cả ba người sẽ chết
đói. Cuối cùng họ phải đành tâm ăn thịt đứa con để sống mà ra khỏi sa
mạc. Họ vừa ăn thịt con vừa khóc. Bụt hỏi rằng: "Này các thầy, khi hai
vợ chồng đó ăn thịt đứa con thì họ có thấy thích thú gì không?" Các thầy
thưa: "Bạch đức Thế Tôn, làm sao thích thú được khi biết mình đang ăn
thịt con." Bụt dạy: " Trong đời sống hằng ngày, trong khi tiêu thụ,
chúng ta cũng phải biết thức ăn của mình đã có thể được tạo ra bằng sự
đau khổ cùng cực của kẻ khác, của những loài sinh vật khác."
"Hai tay nâng bát cơm đầy,
dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần."
Ăn không có chánh niệm, ta tạo khổ đau cho mọi loài và khổ đau cho chính
bản thân ta. Khi ta hút thuốc, uống rượu, ăn nhiều thức béo vào, là ta
đang ăn bộ phổi của ta, đang ăn buồng gan, trái tim của ta, ta tự đang
ăn thịt ta. Nếu là cha, là mẹ thì lúc đó ta đang ăn thịt con ta tại vì
các con cần có cha mẹ mạnh khỏe, tươi vui. Và nếu cha mẹ trong khi ăn
uống mà tàn hại thân thể của chính mình thì chính cha mẹ đang giết con.
Thành ra ăn như thế nào để đừng tạo ra những khổ đau cho các loài và
đừng tạo khổ đau cho chính mình, đó là chánh niệm và chánh kiến. Ðạo Bụt
trong cả Nam Tông và Bắc Tông đều tin rằng chúng sanh từ đời này sang
đời khác thay phiên lần lượt làm cha làm mẹ của nhau. Vì vậy mỗi khi ăn
thịt, chúng ta hãy có ý thức rằng có thể ta đang ăn thịt cha mẹ hay con
cái của ta. Do đó chúng ta đã tập ăn chay và tập không sát sanh.
Loại thức ăn thứ hai là xúc thực. Chúng ta có sáu căn là mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân và ý. Chúng tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp.
Ta phải thấy rằng việc tiếp xúc đó có đem chất độc vào người hay không.
Ví dụ như khi ta xem truyền hình, mắt ta tiếp xúc với hình sắc. Phải
thực tập chánh kiến xem chương trình truyền hình kia có đưa vào trong
tâm ta những độc tố như sợ hãi, căm thù và bạo động hay không. Có những
phim mang lại cho lòng ta sự hiểu biết, lòng từ bi, chí quyết tâm muốn
giúp người, quyết tâm không làm những điều lầm lỗi. Ta biết ta có thể
xem phim đó. Ấy là ta thực tập chánh kiến. Người lớn cũng như trẻ em,
trong khi xem phim, phải biết thực tập chánh kiến. Phải biết rằng có
những chương trình truyền hình chứa đựng rất nhiều độc tố như bạo động,
căm thù và dục vọng. Ngay cả những phim quảng cáo cũng khơi động thèm
khát, dục vọng hay sợ hãi của người ta. Khi xem một tờ báo không có
chánh niệm, chúng ta có thể tiếp nhận rất nhiều độc tố. Ðọc xong ta có
thể mệt nhoài vì những điều ta đọc có thể khiến chúng ta chán nản, lo
lắng và ghê sợ. Chính những câu chuyện hàng ngày cũng có thể mang nhiều
độc tố. Ðó là xúc thực.
Chánh kiến phát sinh ra chánh niệm và chánh niệm cũng làm phát sinh
chánh kiến. Tôi biết rằng nhìn, nghe và tiếp xúc với những gì thì thân
tâm tôi sẽ khỏe khoắn, nhẹ nhàng và an lạc và tôi quyết định mỗi ngày
tiếp xúc với những chất liệu đó. Còn nhữõng thứ làm tôi mệt, tôi buồn,
tôi lo, tôi giận thì tôi sẽ tránh không tiếp xúc. Ðó là chánh niệm về
xúc thực, có được nhờ chánh kiến về xúc thực. Bụt dạy rằng con người rất
dễ bị thương tích, trên cơ thể cũng như trên tâm hồn. Bụt đã dùng hình
ảnh một con bò bị lột da dẫn xuống sông. Dưới sông có hàng vạn loài sinh
vật li ti bu lại hút máu và rỉa thịt con bò. Và khi ta đưa con bò tới
đứng gần một bức tường hay một cây cổ thụ, cũng có những sinh vật li ti
sống trên bức tường và trong cây cổ thụ bay ra, bám vào con bò để hút
máu. Nếu chúng ta không giữ gìn thân và tâm bằng chánh kiến và chánh
niệm thì các độc tố trong cuộc đời cũng bám lại và tàn phá thân tâm ta.
Năm giới mà chúng ta tiếp nhận và hành trì là bộ da bao bọc thân thể và
tâm hồn ra. Nếu không hành trì năm giới là chúng ta không thực tập chánh
kiến. Và trong mỗi chúng ta vốn đã có hạt giống của chánh niệm. Thực
tập chánh niệm cũng như tạo ra những kháng thể để chống lại sự thâm nhập
của các độc tố kia.
Loại thức ăn thứ ba là tư niệm thực. Ðó là những nỗi ước ao ta muốn thực
hiện cho đời ta. Mong muốn làm giám đốc một hãng buôn lớn, hay mong
muốn đậu bằng tiến sĩ, những mong muốn như thế thâm nhập vào người ta
giống như một thức ăn. Mong muốn là một loại thực phẩm gọi là tư niệm
thực. Ước muốn mạnh sẽ giúp ta năng lượng để thực hiện hoài bão. Nhưng
có những loại tư niệm thực làm cho ta khổ đau suốt đời. Như danh, lợi,
tài và sắc. Muốn được mạnh khỏe và tươi vui, muốn được giúp đở cho gia
đình và xã hội, muốn bảo vệ thiên nhiên, tu tập để chuyển hóa, để thành
một bậc giác ngộ độ thoát cho đời.vv.. thì đó là loại tư niệm thực có
thể đưa tới an lạc, hạnh phúc.
Về tư niệm thực, Bụt kể chuyện một người bị hai lực sĩ khiêng người kia
ném xuống hầm lửa đang bốc cháy. Bụt nói rằng khi ta bị những tư niệm
thực bất thiện chiếm cứ, bị danh, lợi, tài và sắc lôi cuốn thì cũng như
ta bị những anh chàng lực sĩ kéo đi liệng xuống hầm lửa. So đó người tu
học phải có chánh kiến, phải nhận diện được tư niệm thực trong ta là
loại nào.
Loại thức ăn thứ tư là thức thực. Chúng ta là sự biểu hiện của thức, gồm
có y báo và chánh báo. Chánh báo là con người gồm năm uẩn của ta và y
báo thuộc hoàn cảnh chung quanh ta. Vì hành động từ nhiều kiếp xưa nên
bây giờ ta có chánh báo này, với y báo này. Chánh báo và y báo đều là sự
biểu hiện của tâm thức. Khi làm công việc nhận thức, tâm cũng giống như
cơ thể đón nhận các món ăn. Nếu trong quá khứ tâm thức ta đã tiếp nhận
những thức ăn độc hại, thì nay tâm thức ta biểu hiện ra y báo và chánh
báo không lành. Những gì ta thấy, nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc, suy tư,
tưởng tượng,tất cả những thứ ấy đều như muôn sông chảy về biển tâm thức.
Và những vô minh, hận thù và buồn khổ của ta đều trở về biển cả của tâm
thức ta. Vì vậy ta phải biết mỗi ngày chúng ta nhận vào tâm thức của ta
những món ăn nào. Chúng ta cho nó ăn từ, bi, hỷ, xả hay là chúng ta cho
nó ăn trạo cử, hôn trầm, giãi đãi, phóng dật?
Về thức thực, Bụt đã dùng hình ảnh một người tử tù và ông vua. Buổi sáng
vua ra lệnh lấy 300 lưởi dao cắm vào thân thể của một tử tội. Tới buổi
chiều vua hỏi: " Người tù đó bây giờ sao?" - "Tâu bệ hạ, nó còn sống." -
"Vậy thì đem hó ra, lấy 300 lưỡi dao đâm qua người nó một lần nữa." Và
buổi tối, vua hỏi: " Kẻ đó bây giờ ra sao?" - " Còn sống." - " Hãy lấy
300 mũi dao đâm qua thân thể nó một lần nữa!" Bụt dùng ví dụ đó để nói
chúng ta cũng đang hành hạ tâm thức của ta y như thế. Mỗi ngày chúng ta
đâm 300 mũi dao của độc tố vào trong tâm thức ta. Những mũi dao của tham
lam, giận dữ, ganh tỵ, hờn giận, thù oán, vô minh.
Bốn ví dụ kể trên được chép trong Kinh Tử Nhục. Tử Nhục là thịt của đứa
con. Bốn ví dụ nghe rất ghê sợ, có tác dụng răn bảo chúng ta phải tỉnh
táo giữ gìn chánh kiến.
Thích Nhất Hạnh(MH ST )