Sunday, July 23, 2017

Chủ nghĩa Duy vật là Sai lầm

Trong bài báo “Kurt Gödel: Chủ nghĩa duy vật là sai lầm”, TS John Spencer viết: “Trong mọi trường hợp, dù bạn đưa ra bao nhiêu lập luận logic chống lại chủ nghĩa duy vật hoặc dẫn ra bao nhiêu ý kiến của các nhà khoa học hàng đầu bác bỏ chủ nghĩa duy vật, cuối cùng nhà duy vật cứng đầu vẫn bỏ ngoài tai”. Rồi Spencer đặt câu hỏi: “Phải chăng Plato đúng khi quy kết các nhà duy vật là ‘những kẻ tệ hại’ hoặc ‘những gã bướng bỉnh ngoan cố’?”. Trong trường hợp này, hỏi tức là đã trả lời

Lược sử tối giản của chủ nghĩa duy vật

Chủ nghĩa Duy vật là tư tưởng và học thuyết cho rằng toàn bộ thế giới hiện thực là vật chất và chỉ có vật chất mà thôi – không tồn tại bất cứ cái gì là phi vật chất hoặc siêu tự nhiên, không có Thần [1], không có phép mầu,… Với chủ nghĩa duy vật, các khái niệm tưởng là phi vật chất như tư tưởng, tinh thần xét cho cùng cũng chỉ là sự biểu lộ của hoạt động vật chất.
Chủ nghĩa duy vật không phải là một hiện tượng mới mẻ. Nó vốn có từ xa xưa, ít nhất từ thời cổ Hy Lạp. Có lẽ ngay từ thời ấy nó đã tỏ ra kém cỏi trong khả năng giải thích thế giới nên Plato, một trong những cha đẻ của nền văn minh triết học và khoa học Tây phương, đã phải phê phán nó một cách gay gắt như đã dẫn trong bài báo của John Spencer nói trên. Đối với Plato, Cái Đẹp (The Beauty), Cái Thiện (The Goodness), Luật Đạo Đức (The Moral Law) là những giá trị phi vật chất nói lên sự hiện hữu của Thần. Nếu không tin Thần đã « thổi » tâm tính tốt đẹp vào con người thì sẽ rất khó giải thích vì sao con người có xu hướng tôn vinh Cái Đẹp, Cái Thiện và Đạo Đức, trong khi mọi tạo vật khác không có ý thức về những giá trị này (Chú ý rằng xu hướng tôn vinh Cái Đẹp, Cái Thiện và Đạo Đức hoàn toàn trái ngược với quy luật “đấu tranh sinh tồn, mạnh được yếu thua” của thuyết tiến hóa Darwin).
Nhưng mặc dù chủ nghĩa duy vật đã có từ xa xưa, nó chưa bao giờ trồi lên mạnh mẽ như từ giữa thế kỷ 19 để trở thành một hệ tư tưởng khuynh đảo xã hội từ đó cho tới nay. May mắn thay, chính khoa học lại cung cấp ngày càng nhiều bằng chứng cho thấy chủ nghĩa duy vật không phải là một tiến bộ về nhận thức, mà hóa ra mà là một bước thụt lùi. Đó là lý do để giữa thế kỷ 20, đúng vào lúc chủ nghĩa duy vật lên đến tột đỉnh và các nhà duy vật đang ngạo nghễ đắc thắng, nhà toán học trứ danh Kurt Gödel đã hạ bệ nó bằng một tuyên bố chắc nịch: « Chủ nghĩa duy vật là sai lầm ! ».
Mãi đến cuối thế kỷ 20, khi Định lý Bất toàn (Theorem of Incompleteness) của Gödel được thừa nhận một cách rộng rãi thì nhiều người mới bắt đầu giật mình tỉnh ngộ ra để nhìn nhận lại bản chất của chủ nghĩa duy vật. Tại sao vậy ? Vì định lý Gödel chỉ ra rằng chủ nghĩa duy vật, bao gồm logic máy móc và tư duy cơ giới thô thiển, đã tự bịt mắt trước sự thật – thế giới hiện thực rộng hơn thế giới nhận thức ; thế giới nhận thức rộng hơn tư duy khoa học; tư duy khoa học rộng hơn tư duy logic máy móc… Nói cách khác, có nhiều chân lý nằm bên ngoài thế giới nhận thức bằng thực chứng và logic – khoa học duy vật không bao giờ đủ để nhận thức được chân lý đầu tiên, chân lý cuối cùng và chân lý toàn thể. Muốn nhận thức sâu hơn và rộng hơn về thế giới, bắt buộc con người phải sử dụng nhiều phương pháp nhận thức khác nhau để tiệm cận tới chân lý. Những phương pháp nhận thức này tuy khác nhau, nhưng bổ sung cho nhau, trong đó trực giác đóng vai trò định hướng dẫn đường.

Trực giác là gì nếu không phải ánh sáng của Thần soi rọi vào mỗi con người ?

Albert Einstein là người nhấn mạnh đến trực giác nhiều nhất. Ông từng nói « Tư duy trực giác là quà tặng thiêng liêng… » (The intuitive mind is the sacred gift…). Quà tặng thiêng liêng đó là của ai, nếu không phải của Thần ? Không thừa nhận sự thật này thì làm thế nào để giải thích sự hiện hữu của trực giác ? Computer vượt xa chúng ta về tốc độ và sức khỏe tính toán nhưng chỉ là một gã ngu đần khi đứng trước một vấn đề đòi hỏi trực giác. Chủ nghĩa duy vật không dám phủ nhận trực giác, nhưng nó lúng túng không biết làm thế nào để giải thích trực giác, vì thế nó nói bừa rằng đó là bản năng tự nhiên và nhờ “tiến hóa” mà có. Khái niệm “tiến hóa” là một khái niệm mơ hồ, bởi thực tế không bao giờ có một cơ chế tiến hóa nào có thể kiểm chứng được một cách cụ thể, rõ ràng.
Thực tế, trực giác là một trong những bí ẩn lớn nhất của tự nhiên – khả năng nắm bắt được bản chất sự vật một cách trực tiếp ngay tức khắc không thông qua lý luận. Trực giác có nhiều tầng khác nhau. Ở tầng thấp, một học trò có trực giác tốt sẽ định hướng lời giải của một bài toán hình học nhanh hơn những học trò có trực giác kém. Ở tầng cao, trực giác giúp Isaac Newton cảm thấy có lực hấp dẫn giữa các vật chất có khối lượng, Albert Einstein “nhìn thấy” quy luật tương đối chi phối tự nhiên, Louis Pasteur “cảm thấy” tính bất đối xứng của sự sống,… Ở tầng cao hơn nữa, nó giúp con người “nhìn thấy” những thế giới không nhìn thấy – thế giới siêu tự nhiên, phi vật lý, nơi phương pháp thực chứng và logic của khoa học hoàn toàn bất lực. Vì thế những thầy giáo giỏi không phải là những người truyền đạt giỏi, mà là những người giỏi đánh thức người học, giúp người học tỉnh thức để vận dụng trực giác sẵn có trong tâm mà thấu cảm chân lý, thay vì lý luận chứng minh. Đức Phật và Đức Chúa Jesus là những nhà truyền giảng và đánh thức vĩ đại. Câu nói bất hủ của Chúa Jesus, rằng “Phúc cho ai không thấy mà tin” là một lời đánh thức tất cả những ai muốn tìm chân lý, nhưng rất tiếc là có nhiều người không hiểu, thờ ơ với lời đánh thức đó. Nhưng những người như Kurt Gödel thì không như vậy. Lời nói quả quyết của ông, Chủ nghĩa duy vật là sai lầm, chứng tỏ ông là một người tỉnh thức hơn ai hết – ông phủ nhận chủ nghĩa duy vật và vô thần quyết liệt tới chừng nào.
Thực tế cho thấy ngày càng có nhiều người hiểu Gödel hơn, và do đó ngày càng có nhiều người từ bỏ chủ nghĩa duy vật hơn. Tiến sĩ John Spencer, với tư cách một nhà triết học về vật lý lượng tử, đã ủng hộ Gödel bằng lập luận logic một cách mạnh mẽ đến nỗi phải trích dẫn Plato để phê phán chủ nghĩa duy vật như một thứ triết học tầm thường và ngoan cố. Lập luận của Spencer vừa mang tính khoa học vừa mang tính triết học.

Logic bác bỏ chủ nghĩa duy vật

Trong bài báo nói trên, Spencer lưu ý độc giả rằng : Kurt Gödel tuy không nổi tiếng như Albert Einstein, nhưng đừng quên rằng ông là một trong những nhà toán học vĩ đại nhất thế kỷ 20, và là nhà logic vĩ đại nhất kể từ sau Aristotle; bản thân Einstein trong thời gian làm việc cùng với Gödel tại Viện nghiên cứu cao cấp Princeton đã từng công khai nói với mọi người rằng ông đến Viện nghiên cứu chỉ cốt để gặp gỡ trò chuyện với Gödel, rồi cùng đi bộ với Gödel về nhà; một bạn thân khác của Gödel tại đây là nhà toán học lừng danh John von Newman, một trong những cha đẻ của computer ngày nay.
Vậy điều gì đã làm cho một nhà khoa học bậc nhất như Gödel chối bỏ chủ nghĩa duy vật?
Spencer nói: “Chủ nghĩa duy vật, một thứ triết lý dựa trên tiên đề cho rằng chỉ có vật chất mới là cái có thật, đã trở thành nền tảng cố hữu không thể tranh cãi trong rất nhiều trường phái khoa học chính thống”.
Cái nền tảng ấy đã trở thành một xiềng xích trói buộc, một tảng đá đè nặng lên tư duy khoa học, cản trở tư duy sáng tạo đến nỗi nhà thần kinh học Mario Beauregard đã phải lên tiếng kêu gọi: “Nay đã đến lúc chúng ta phải tự giải phóng mình ra khỏi những xiềng xích trói buộc và những tấm vải che mắt của ý thức hệ duy vật cỗ lỗ sĩ” (It’s now time to free ourselves from the shackles and blinders of the old materialist ideology).
Thực ra những người tài giỏi thực sự không cần phải chờ đợi lời kêu gọi đó. Họ đã tự giải phóng mình từ lâu, đúng như Spencer nhận xét: “Trớ trêu thay, có một sự thật là nhiều nhà khoa học đi tiên phong trong khoa học hiện đại từ vài thế kỷ trước đây cho tới những nhà sáng lập cơ học lượng tử như Max Planck và Werner Heisenberg cũng đều bác bỏ chủ nghĩa duy vật”.
Ủng hộ lời kêu gọi của Mario Beauregard, John Spencer nêu lên một lập luận 9 điểm để bác bỏ chủ nghĩa duy vật:
  1. Các định luật vật lý là nền tảng của tất cả mọi khoa học.
  2. Các định luật vật lý là những quan hệ toán học.
  3. Các quan hệ toán học phụ thuộc vào các con số.
  4. Mọi con số được xây dựng từ 1 và 0 (“2” là 1 + 1, và zero là sự vắng mặt của mọi thứ)
  5. Số 0 bản thân nó là phi vật lý (nó không đại diện cho bất kỳ một vật chất cụ thể nào cả).
  6. Số 1 bản thân nó cũng phi vật lý. Có thể có 1 cái cây, 1 cái ôtô,… nhưng bản thân số 1 không phải cái cây hoặc cái ôtô (số 1 chỉ là một mã hoặc một thông tin).
  7. Vì các số là “cái gì đó” phi vật lý, do đó các định luật vật lý thể hiện hoặc phụ thuộc vào cái gì đó phi vật lý.
  8. Vậy buộc phải đi đến kết luận: hoặc a) các định luật vật lý là có thực nhưng phi vật lý, điều này cho thấy chủ nghĩa duy vật là sai; hoặc b) các định luật vật lý là phi hiện thực, điều này làm cho nền tảng của mọi khoa học trở thành phi hiện thực.
  9. Bất chấp thắng lợi phi thường bề ngoài của khoa học, nếu nền tảng của khoa học là phi hiện thực thì rốt cuộc nó không thể cung cấp bất kỳ cơ sở nào cho chân lý khách quan trong hiện thực, và do đó không thể nói rằng chủ nghĩa duy vật phản ánh chân lý khách quan.
john spencerLập luận trên đã được Spencer phát triển lên một trình độ sâu sắc hơn rất nhiều trong cuốn “The Eternal Law” (Định luật Vĩnh cửu), một cuốn sách tích hợp các tri thức triết học, khoa học và thậm chí cả tâm linh, rất đáng đọc, đã được nhà toán học và vật lý lỗi lạc Roger Penrose đánh giá là một cuốn sách làm cho người đọc cảm thấy “vô cùng khoan khoái” (enormously refreshing). Nhưng bất chấp ý kiến của những người như Penrose, các nhà duy vật vẫn ngoan cố cho rằng ngoài vật chất chẳng có bất cứ thứ gì khác. Spencer than phiền: “Trong mọi trường hợp, dù bạn đưa ra bao nhiêu lập luận logic chống lại chủ nghĩa duy vật hoặc dẫn ra bao nhiêu ý kiến của các nhà khoa học hàng đầu bác bỏ chủ nghĩa duy vật, cuối cùng nhà duy vật cứng đầu vẫn bỏ ngoài tai. Vì thế người ta phải băn khoăn tự hỏi: Phải chăng Plato đúng khi quy kết các nhà duy vật là ‘những kẻ tệ hại’ hoặc ‘những gã bướng bỉnh ngoan cố’?” [0].
Tuy nhiên, sự thật vẫn là sự thật. Sự thật dễ thấy nhất là hầu hết những nhà khoa học giỏi nhất, thâm thúy nhất đều từ chối chủ nghĩa duy vật. Để lập một danh sách những nhà khoa học như thế, xin lấy một nhận định của Louis Pasteur làm tiêu chuẩn: “Một ít khoa học làm ta xa rời Chúa [2]; nhiều khoa học làm ta quay về với Chúa” (Un peu de science nous éloigne de Dieu, beaucoup nous y ramène).
Đó là một nhận định chính xác. Quan sát thực tế, tôi thấy đa số những người có đầu óc khoa học nửa vời, thậm chí tầm thường, thường trở thành những kẻ tự phụ, tưởng mình có thể “thế thiên hành đạo”, bịa ra những lý thuyết giải thích thế giới mà không cần đến Thần; ngược lại những người tài giỏi thực sự lại có thái độ khiêm tốn, biết kinh ngạc thán phục trước những kỳ quan của Tạo Hóa, và do đó tin vào sự hiện hữu của những lực lượng siêu nhiên.
Einstein có lẽ là một nhân vật tiêu biểu nhất cho loại người biết kinh ngạc trước những phép mầu của Tự nhiên, vì thế ông cũng là người nêu lên một công thức chính xác để đo lường tri thức của con người: Ego = 1/Knowledge (Cái tôi = 1/Tri thức) – cái tôi tỷ lệ nghịch với tri thức, tri thức càng ít thì cái tôi càng lớn, tri thức càng nhiều thì cái tôi càng nhỏ.
Người có cái tôi lớn thường không thừa nhận Thần, người có cái tôi nhỏ thường thừa nhận Thần, thán phục Thần. Một người có khiêm tốn hay không, hãy xem anh ta đối xử với Thần như thế nào. Cách đo lường đó hoàn toàn phù hợp với “tiêu chuẩn” của Pasteur nói trên. Vậy dựa trên “tiêu chuẩn” này, xin nêu một danh sách những nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại từ chối chủ nghĩa duy vật như sau đây.

NHỮNG NHÀ KHOA HỌC VĨ ĐẠI NHẤT MỌI THỜI ĐẠI CÓ ĐỨC TIN VÀO THẦN

1.Galileo Galilei (1564-1642) :

galileo galileiViệc Tòa án Giáo hội Công giáo La mã năm 1633 kết tội Galileo vì ông ủng hộ thuyết Nhật tâm đã trở thành một vết đen trong lịch sử Công giáo, đánh dấu một cuộc đối đầu không đáng có giữa khoa học và tôn giáo, để lại một hệ lụy vô cùng đáng tiếc cho tới tận hôm nay. Hệ lụy lớn là gây ra một sự hiểu lầm vô cùng tai hại rằng khoa học và tôn giáo là hai hệ thống nhận thức đối đầu nhau và loại trừ lẫn nhau từ trong bản chất. Hệ lụy nhỏ là gây ra sự hiểu lầm lớn rằng Galileo là người vô thần, chống đối tôn giáo. Cả hai hệ lụy đó đều bắt nguồn từ sai lầm của Tòa án Giáo hội năm 1633. Năm 1992, sau 13 năm nghiên cứu lại vụ án Galileo, Giáo hội Công giáo La mã dưới triều đại của Đức Giáo hoàng Jean Paul II đã chính thức sửa chữa sai lầm của 359 năm trước: thừa nhận Tòa án Giáo hội sai và Galileo đúng, khôi phục lại mọi danh dự cho nhà khoa học chính trực Galileo Galilei. Đây là một quyết định dũng cảm, nhân bản, đề cao công lý, thể hiện rõ ý Chúa. Nhân dịp này báo chí thế giới cũng nói nhiều đến Galileo, qua đó cho thấy ông là người có Đức tin vững chắc. Thật vậy, ông tuyên bố: “Chúa được biết đến nhờ những công trình Ngài kiến tạo trong tự nhiên, và nhờ những lời dạy Ngài vén mở trong các kinh sách” (God is known by nature in His works, and by doctrine in His revealed word). Đối với Galileo, khoa học càng làm ông tin chắc vào vai trò sáng tạo của Chúa. Đây, hãy nghe ông nói: “Toán học là bảng chữ cái trong đó Chúa viết về vũ trụ” (Mathematics is the alphabet in which God has written the universe).

2.Isaac Newton (1643-1727) :

isaac newtonNewton nổi tiếng là một người Thiên Chúa giáo ngoan đạo, vì thế ông cũng là người rất khiêm tốn, biết mình bé nhỏ và tầm thường trước Đấng Sáng tạo vĩ đại. Khi được hỏi làm thế nào để ông có thể khám phá được nhiều điều kỳ lạ đến thế, ông nói ông chỉ giống như một đứa trẻ dạo chơi ngoài bãi biển, say mê nhặt những vỏ sò đẹp, và mỗi khám phá của ông giống như một vỏ sò đẹp mà thôi. Khi ông khám phá ra Định luật Vạn vật Hấp dẫn rồi dùng nó để giải thích chuyển động của các hành tinh quanh Mặt Trời, có người chất vấn ông: “Nếu không có chuyển động quán tính của hành tinh theo phương tiếp tuyến với quỹ đạo thì hành tinh sẽ bị hút vào Mặt Trời, vậy chuyển động quán tính ấy từ đâu mà ra?”. Newton đáp ngay: “Đó là cú hích ban đầu của Chúa!”. Ngày xưa thầy dạy vật lý của tôi kể lại chuyện này cho học trò nghe rồi kết luận: “Newton rốt cuộc vẫn là người duy tâm”. Ý thầy chê duy tâm là kém. Lũ trẻ nhỏ chúng tôi đứa nào chẳng tin thầy? Sau này lớn lên tôi mới vỡ nhẽ ra rằng một nhận định sai của giáo dục một khi đã được nhồi nhét vào đầu trẻ em sẽ để lại một hậu quả vô cùng tai hại đối với con người, và điều đó rất khó sửa chữa. Đó chính là tình trạng của thuyết tiến hóa hiện nay. Sau này tự đọc sách, tự suy ngẫm, tôi hiểu ra rằng chỗ thầy tôi chê Newton chính là chỗ để lộ thiên tài của Newton.Thiên tài hơn người tầm thường ở chỗ cảm nhận được cái gì là có thể, cái gì là không thể. Giải thích nguyên nhân đầu tiên là không thể! Nguyên nhân đầu tiên luôn luôn thuộc về Chúa. Tôi dám phát biểu điều đó như một định lý. Sự sống đầu tiên cũng vậy. Thuyết tiến hóa SAI vì nó bịa ra sự sống đầu tiên nẩy sinh từ “nồi soup nguyên thủy”. Hơn 150 năm sau vẫn không làm thế nào mà chứng minh được chuyện bịa này là sự thật. Thay vì thừa nhận chuyện bịa đó đã thất bại, các nhà tiến hóa lại bịa ra những giả thuyết mới, chẳng hạn giả thuyết về “thế giới RNA”, và cứ thế kéo một đám đông khờ dại cả tin đi theo họ. Đám đông này bị cuốn theo đống chữ nghĩa phức tạp hàn lâm mà cứ ngỡ đó là khoa học. Trong khi đó Newton rất tỉnh táo, ông không để cho ai có thể lung lạc được ông. Ông trả lời người chất vấn ông ngay tức khắc bằng một câu trả lời cần thiết nhất, dứt khoát nhất, như một bài học dạy cho người hỏi. Newton biết rõ ai tin Chúa, ai không tin. Hãy nghe ông nói: “Người suy nghĩ nửa vời sẽ không tin Chúa; nhưng người suy nghĩ thấu đáo sẽ phải tin Chúa” (He who thinks half-heartedly will not believe in God ; but he who thinks really has to believe in God).

3.Blaise Pascal (1623-1662) :

blaise pascalTôi đã thảo luận khá nhiều về Pascal trên tất cả những diễn đàn mà tôi từng tham gia, nhưng chưa bao giờ cảm thấy là đủ, vì nhiều lý do. Một, ông quá vĩ đại để có quá nhiều điều cho hậu thế học hỏi, bàn luận; Hai, ông là người Thiên Chúa giáo có Đức tin mãnh liệt, một nhà khoa học có uy tín lớn bênh vực Thiên Chúa giáo, vì thế ông bị giới vô thần ngấm ngầm chống đối bằng cách che đậy, tảng lờ các công trình của ông về triết học và thần học, sao cho càng ít người biết tư tưởng của ông càng tốt. Chính Pascal cũng biết điều đó. Ông nói: “Người ta khinh thường tôn giáo. Họ thù ghét nó nhưng sợ nó đúng” (Les hommes ont mépris pour la réligion. Ils en ont haine et peur qu’elle soit vraie). Vì thế tôi muốn giới thiệu với mọi người càng nhiều về Pascal càng tốt, nhất là về những gì bấy lâu nay ít người biết. Càng đọc Pascal, tôi càng ngạc nhiên và choáng ngợp vì tầm vóc và chiều sâu tư tưởng của ông. Ông chính là người đầu tiên chứ không phải Kurt Gödel đã thảo luận rất kỹ về tính hạn chế của toán học nói riêng và nhận thức lý lẽ nói chung. Đó là những công trình ông viết về cơ sở của Hình học, trong đó ông chỉ ra rằng không có cách nào để kiểm tra một hệ tiên đề là đầy đủ và tuyệt đối chắc chắn. Từ đó suy ra rằng toán học nói riêng và khoa học nói chung là không đầy đủ và không tuyệt đối chắc chắn. Nhận thức muốn vươn lên cao hơn, phải vận dụng “lý lẽ của trái tim” (la raison du Coeur), Pascal nói, “chính trái tim giúp ta nhận biết Chúa chứ không phải lý lẽ” (C’est le Coeur qui sent Dieu et non la raison). Nếu Gödel có gì khác Pascal, thì đơn giản là ông sinh sau đẻ muộn hơn Pascal gần 3 thế kỷ, và biến những luận điểm triết học khoa học của Pascal thành một định lý toán học không thể tranh cãi: Định lý Bất toàn (Theorem of Incompleteness). Vấn đề này đã được thảo luận kỹ trong nhiều bài viết trên PVHg’s Home: “Lý lẽ của Trái tim” (La Raison du Cœur) ngày 05/12/2013, “LỬA của PASCAL” (PASCAL’s FIRE) ngày 16/12/2013; “VỀ TÍNH BẤT TOÀN: TỪ PASCAL ĐẾN GODEL (On the Incompleteness: From Pascal to Godel)” ngày 28/05/2015. Trong những bài đó, tôi đã trích dẫn một ý kiến của Pascal mà qua đó có thể thấy Pascal đánh giá thấp tư tưởng duy vật như thế nào: “Chủ nghĩa vô thần thể hiện sức mạnh của tinh thần, nhưng chỉ ở một mức độ nhất định mà thôi” (Athéisme marque de force d’esprit, mais jusqu’à un certain degré seulement).

4.Gregor Mendel (1822-1884) :

gregor mendelMendel là một tu sĩ Công giáo toàn tâm toàn ý, vì thế không có gì phải nghi ngờ Đức tin của ông đối với Thần. Trong cuốn “Các nhà khoa học có Đức tin” (Scientists of Faith), Dan Graves nhận xét về Mendel như sau: “Mặc dù ông đọc Darwin, nhưng ông không chấp nhận nhiều lý thuyết của Darwin, vì ông tin rằng Thần sáng tạo ra thế giới và sự ngẫu nhiên mù quáng không thể là lý do tạo ra thế giới…” (Although he read Darwin, he [Mendel] did not accept many of his [Darwin’s] theories, believing that God had created the world and blind chance could not be responsible for the outcome…) [1]. Chú ý rằng thuyết tiến hóa của Darwin nói rằng sự sống đầu tiên hình thành một cách ngẫu nhiên, mù quáng, vô mục đích từ vật chất không sống. Và đó là điều Mendel không thể nào chấp nhận được! Năm 1966, trong một hội nghị lớn tại Mỹ, các nhà toán học cũng thảo luận về xác suất để sự sống hình thành ngẫu nhiên từ các phân tử không sống. Hội nghị đã đi đến kết luận rằng xác suất này vô cùng nhỏ, nhỏ gần như bằng 0, và do đó sự sống không thể xẩy ra ngẫu nhiên. Nhà toán học Anh Fred Hoyle đặc biệt quan tâm tới thuyết tiến hóa, cũng đi đến kết luận rằng sự sống không thể hình thành từ “nồi soup nguyên thủy”. Mendel rất giỏi toán, không biết ông có nghĩ tới việc tính xác suất để phủ nhận Darwin hay không, nhưng trực giác thiên tài của ông đã đủ để ông bác bỏ Darwin. Xin lưu ý độc giả rằng thông tin Mendel bác bỏ Darwin bị giới tiến hóa che đậy trong hơn 150 năm qua. Hiện nay dưới ánh sáng internet, sự thật ngày càng được sáng tỏ. Từ đó tôi dám nói rằng ai đã thực sự ngưỡng mộ Mendel thì ắt phải bác bỏ Darwin. Trường phái “Darwin mới” (Neo-Darwinism) đã phải vội vàng kết hợp học thuyết di truyền của Mendel vào thuyết tiến hóa, nhưng thực chất đã phản lại chính Darwin, vì quan điểm về di truyền của Darwin hoàn toàn khác với các định luật di truyền của Mendel. Quan niệm di truyền của Darwin tiếp thu từ Lamark là một quan niệm hoàn toàn sai lầm, nhưng giới tiến hóa che đậy sự thật này, giấu nhẹm sai lầm của Darwin. Nhưng không che giấu được những người ham hiểu biết. Chỉ cần vào Google, gõ “what did Darwin learn from Lamark?”, sự thật sẽ lộ ra ngay.

5.Louis Pasteur (1822-1895):

louis pasteurNếu phải mô tả Pasteur bằng một câu ngắn nhất thì đó là : « Pasteur : Người con ưu tú của Chúa và ân nhân của nhân loại ». Giới vô thần không yêu mến Pasteur, vì ông có Đức tin Thiên Chúa giáo sâu sắc, và vì ông chống thuyết tiến hóa một cách rõ rệt. Tương tự như cách họ đối xử với Pascal, giới vô thần cố làm cho mọi người nhắc đến Pasteur càng ít càng tốt, đơn giản vì càng nhắc đến ông càng làm cho thuyết tiến hóa lộ diện là một lý thuyết ngụy khoa học. Đó là lý do vì sao người ta không tiếc lời ca ngợi Pasteur như cha đẻ của khoa học vi sinh (microbiology) và miễn dịch học (immunology), nhưng người ra rất ít nói đến Pasteur như một nhà khoa học lớn khám phá ra những nguyên lý cơ bản của sự sống. Cụ thể người ta rất sợ nhắc đến hai định luật cơ bản của sự sống do Pasteur khám phá: Định luật sự sống bất đối xứng (thuận tay trái) và Định luật sự sống chỉ ra đời từ sự sống (biogenesis). Lẽ ra những định luật mang tính cơ bản này phải được dạy trong chương trình Sinh học ở trường phổ thông. Nhưng chỉ có những sinh viên đại học chuyên ngành mới được học. Tại sao họ sợ hai định luật đó? Vì cả hai đều phủ nhận thuyết tiến hóa khi thuyết này nói rằng sự sống hình thành một cách tự phát và ngẫu nhiên từ vật chất không sống. Chương trình Sinh học ở trường phổ thông phớt lờ hai định luật cơ bản này và tiếp tục nhồi nhét vào đầu học trò kiến thức sai lầm rằng sự sống hình thành một cách ngẫu nhiên từ vật chất không sống, mặc dù không làm thế nào mà chứng minh được nhận định đó. Khi học trò trở thành người lớn, rất khó để sửa chữa nhận thức sai lầm này, ngay cả khi được trông thấy những bằng chứng rành rành tố cáo sự gian lận của thuyết tiến hóa. Đó là một thảm họa. Tôi tin rằng đến một ngày nào đó, khi thuyết tiến hóa hoàn toàn bị xóa bỏ, công lao của Pasteur sẽ còn được đánh giá cao hơn nữa. Nhưng bản thân ông, ông biết rõ rằng thành công của ông là nhờ có may mắn – ông “có Chúa ở bên trong”. Thật vậy, ông nói: “Người Hy-lạp hiểu được sức mạnh bí ẩn nằm bên dưới sự vật. Chính họ đã cho chúng ta một trong những từ ngữ đẹp nhất trong ngôn ngữ của chúng ta, đó là chữ “enthousiasme” (cảm hứng), chữ Hy-lạp là Εν Θεος , có nghĩa là ‘có Chúa ở bên trong’. Tầm vóc hành vi của con người được đo bởi niềm cảm hứng mà từ đó những hành vi ấy hiện ra. Hạnh phúc thay cho ai có Chúa ở bên trong”.

6.Henri Poincaré (1854-1912) :

henri poincareKhi còn là học sinh, Poincaré đã được mệnh danh là “con quỷ toán học” (monstre de mathématiques). Ở tuổi trưởng thành, giới toán học gọi ông là « Mozart của toán học ». Tổng kết cả cuộc đời, giới bác học mô tả ông như “the last Universalist” (nhà đại quảng bác cuối cùng), bởi khó có thể tưởng tượng được bề rộng của những mảnh đất toán học và vật lý mà ông đã khám phá ra hoặc đặt chân tới, rồi để lại ở đó những dấu ấn sâu sắc, những di huấn, những tư tưởng, những bài toán khổng lồ cho hậu thế tiếp tục khai phá. Nhà toán học đàn em nhưng cùng thời với ông, Bertrand Russell, người nổi tiếng với Nghịch lý Russell, không tiếc lời ngợi ca Poincaré là “nhà toán học vĩ đại nhất đang còn sống”, bất chấp sự hiện diện của những nhà toán học lớn đương thời khác như David Hilbert,… Có thể quên công trình nào đó của Poincaré, nhưng không được phép quên ông là cha đẻ của Topo Đại số, cha đẻ của Giả thuyết Poincaré, người đầu tiên định hướng cho lời giải tổng quát của Bài toán Ba Vật thể (Problème à Trois Corps), người đặt nền móng cho Lý thuyết Hỗn độn (Theory of Chaos), đồng tác giả của Thuyết Tương đối hẹp, và đặc biệt, một nhà triết học khoa học nhìn xa trông rộng, kẻ thù số 1 của chủ nghĩa toán học hình thức do Hilbert cầm đầu… Chỉ cần ghé qua tiểu sử khoa học của ông, một người trung thực không thể không có cảm giác khiếp sợ trước những công trình sáng tạo vĩ đại của ông, cả về số lượng lẫn tầm vóc khổng lồ về tư tưởng. Một người vĩ đại như thế mà vẫn biết rằng có Thần, và Thần chính là tác giả của những quy luật vũ trụ được diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học: “Nếu Thần nói với con người, không nghi ngờ gì nữa rằng Ngài sử dụng ngôn ngữ toán học” (If God speaks to man, He undoubtedly uses the language of mathematics), Poincaré nói [2].

7.Max Planck (1858-1947):

max planckLà cha đẻ của Thuyết Lượng tử, Planck ắt hẳn phải là một nhà tư tưởng. Đối với ông, Thần là nhu cầu tất yếu của cả tôn giáo lẫn khoa học. Ông nói: “Cả tôn giáo lẫn khoa học đều cần đến Đức tin vào Thần để phụng sự cho hoạt động của mình, hơn nữa, tôn giáo cần có Thần ngay từ lúc khởi đầu, khoa học cần đến Thần vào lúc kết thúc toàn bộ tư duy. Đối với tôn giáo, Thần là nền tảng, đối với khoa học, Thần là đỉnh cao nhất của bất kỳ lý lẽ nào liên quan đến vũ trụ quan” (Both religion and science need for their activities the belief in God, and moreover God stands for the former in the beginning, and for the latter at the end of the whole thinking. For the former, God represents the basis, for the latter – the crown of any reasoning concerning the world-view).

8.Albert Einstein (1879-1955):

albert einsteinEinstein nổi tiếng là người hay nhắc đến Thần như Đấng Sáng tạo vũ trụ và tác giả của các định luật vũ trụ. Ông yêu Cái Đẹp và Cái Trật tự say đắm đến nỗi tin chắc rằng Thần bao giờ cũng ngay ngắn rõ ràng mạch lạc đẹp đẽ, Thần không thể chơi trò may rủi ú tim nước đôi lập lờ. Vì thế ông chống đối Nguyên lý Bất định đến cùng, và điều đó làm rạn nứt tình bạn vốn có giữa ông với Niels Bohr. Mặc dù Thần của Einstein không phải là Chúa của Thiên Chúa giáo, nhưng ông cho rằng niềm tin vào Thần của ông, Đấng Sáng tạo, là điều ắt phải có đối với một nhà khoa học. Thậm chí ông coi đó là một tôn giáo đích thực. “Khoa học không có tôn giáo là khoa học khập khiễng; tôn giáo không có khoa học là tôn giáo mù quáng” (Science without religion is lame; Religion without science is blind). Hóa ra Einstein đã phát biểu một chân lý rõ ràng rằng khoa học và tôn giáo rất cần thiết có nhau, bổ sung cho nhau, thay vì loại trừ nhau như chủ nghĩa duy vật tuyên bố. Nói cách khác, Einstein đã mặc nhiên bác bỏ chủ nghĩa duy vật. Ông tuyên bố: “Càng nghiên cứu khoa học tôi càng tin vào Thần” (The more I study science, the more I believe in God).

9.Werner Heisenberg (1901-1976):

chủ nghĩa duy vậtSau khi Einstein và Bohr mất, Heisenberg được tôn vinh như nhà vật lý số 1 của thế giới. Ông đã phạm sai lầm lớn về chính trị khi làm giám đốc chương trình nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử của Hitler. Có lẽ việc này để lại trong lòng ông một nỗi hối hận suốt đời. Theo những gì tôi biết, ông là người ngây thơ về chính trị, nhưng ông không phải kẻ ác. Đây là vấn đề thuộc về lịch sử, đáng để cho những ai yêu lịch sử tìm hiểu kỹ. Nhưng về triết học và vũ trụ quan, ông là người vô cùng sâu sắc. Ông nhắn nhủ các nhà khoa học rằng: “Ngụm nước đầu tiên từ cốc nước khoa học tự nhiên sẽ biến bạn thành một người vô thần, nhưng ở đáy cốc Thần đang đợi bạn” (Der erste Trunk aus dem Becher der Naturwissenschaft macht atheistisch, aber auf dem Grund des Bechers wartet Gott). Đối chiếu câu nói này của Heisenberg với câu nói của Pasteur ở trên (mà tôi lấy làm tiêu chuẩn đo lường tri thức của các nhà khoa học), ta thấy hai câu nói giống nhau đến mức có thể nghĩ rằng “Heisenberg nhắc lại lời Pasteur chăng?”. Không! Đó là “tư tưởng lớn gặp nhau!” (Les grands esprits se rencontrent!)

10. Kurt Gödel (1906-1978):

kurt godelToàn bộ bài viết mà độc giả đang đọc có thể xem như một bình luận về tư tưởng của Gödel. Có lẽ Gödel là nhà khoa học bác bỏ chủ nghĩa duy vật thẳng thắn nhất, rõ ràng nhất, mạnh mẽ nhất. Chúng ta đã thấy nhiều bậc tiền bối của Gödel có những suy nghĩ rất giống ông, điển hình là Blaise Pascal, hay sau này là Max Planck. Nhưng công lao và thiên tài của Gödel là ở chỗ ông đã biến tất cả những nhận định mang tính triết học bác bỏ chủ nghĩa duy vật thành những định lý toán học không thể tranh cãi được. Thiết tưởng nếu không có Định lý Bất toàn của ông thì không biết những trường phái duy vật và vô thần như Hilbert sẽ còn làm mưa làm gió đến bao giờ. Bài báo “Gödel chứng minh Thần hiện hữu (Gödel proved that God Exists)” trên PVHg’s Home ngày 17/09/2014 đã cung cấp cho độc giả một cái nhìn tương đối đầy đủ về vũ trụ quan và tư tưởng triết học và thần học của Gödel. Nhưng sau khi trình bầy 14 quan điểm triết học của Gödel (nội dung bác bỏ chủ nghĩa duy vật và khẳng định sự cần thiết của Đức tin) bài báo đã kết luận bằng lời của Thánh Thomas Aquinas rằng “Đối với người có đức tin, không cần có sự giải thích nào cả. Đối với người không có đức tin, chẳng có lời giải thích nào là đủ” (To one who has faith, no explanation is necessary. To one without faith, no explanation is possible). Nhận định đó thật chí lý.

Kết

Cuối thế kỷ 19, Friedrich Nietzsche tuyên bố: “Chúa đã chết!”. Tuyên bố này nổi tiếng đến nỗi được coi là cột mốc đánh dấu sự chuyển tiếp của nền văn minh nhân loại từ văn minh hữu thần sang văn minh vô thần, kéo dài hơn một thế kỷ rưỡi nay.
Gần đây Richard Dawkins, một môn đệ trung thành nhất và mạnh miệng nhất của chủ nghĩa Darwin, nhắc lại tuyên bố của Nietzsche dưới một dạng thức nhấn mạnh hơn: “Chúa không chết. Chúa ngay từ đầu đã không bao giờ sống!” (God is not dead. He was never alive in the first place).
Stephen Hawking cũng mạnh miệng không kém. Ông tuyên bố nhân dịp ra mắt cuốn “Grand Design” (Thiết kế Lớn) năm 2013: “Big Bang không cần Chúa” (Big Bang didn’t need God), và “Vì có một định luật như định luật hấp dẫn, vũ trụ có thể và sẽ tự tạo ra nó từ hư không…” (Because there is a law such as gravity, the universe can and will create itself from nothing…).
Rất may, uy tín khoa học của những người như Nietzsche, Dawkins hoặc Hawking không thể so sánh với 10 nhân vật vĩ đại trong bảng danh sách nói trên. Vì thế sức thuyết phục kém. Tuy nhiên những ý kiến này giúp chúng ta chiêm nghiệm câu nói của Thánh Thomas Aquinas. Vậy toàn bộ câu chuyện của chúng ta hôm nay có ý nghĩa gì?
Câu trả lời nằm trong ý kiến sau đây của Nicolas Tesla, một thiên tài kỹ thuật trong thế kỷ 20:
“Quà tặng về sức mạnh tinh thần đến từ Chúa, Đấng Thiêng liêng, và nếu chúng ta tập trung suy nghĩ của chúng ta vào chân lý đó, chúng ta sẽ trở nên hòa hợp với sức mạnh vĩ đại đó. Mẹ tôi dạy tôi tìm mọi chân lý trong Kinh Thánh” (The gift of mental power comes from God, Divine Being, and if we concentrate our minds on that truth, we become in tune with this great power. My mother had taught me to seek all truth in the Bible).
Và Kinh Thánh nói: “Phúc cho ai không thấy mà tin”.
Chú thích:
[1] Thần: Một lực lượng siêu tự nhiên mà nhân loại từng sử dụng nhiều từ ngữ khác nhau để gọi tên, như Phật, Đại Giác Giả, Thượng đế, Đấng Tối cao, Chúa, Đấng Sáng tạo, Jehovah, Allah,, , Bà Mẹ Tự nhiên, Nhà thiết kế vĩ đại…
[2] God: God là một từ tiếng Anh ám chỉ một vị Thần nói chung theo định nghĩa ở chú thích [1]. Tuy nhiên, vì Ki-tô giáo là tôn giáo chính yếu ở Tây Phương, nên khi nhắc đến God, người ta thường mặc định ám chỉ đến Chúa trong tín ngưỡng Ki-tô Giáo. Tuy nhiên trong phạm vi bài viết này, trừ trong các trường hợp cụ thể, chúng ta nên hiểu rộng nghĩa của từ God theo chú thích [1].
Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Đại Kỷ Nguyên.
pham viet hung
Giảng dạy: Từng giảng dạy các môn Toán Kinh tế; Cơ học Lý thuyết; Sức bền Vật liệu; Toán luyện thi đại học. Hiện thỉnh giảng Toán cao cấp tại một đại học ở VN.
Tác giả: Phạm Việt Hưng,  viethungpham.com.Đăng tải với sự cho phép. Đọc bản gốc ở đây.
Trích: http://www.daikynguyenvn.com/khoa-hoc-cong-nghe/nha-toan-hoc-lon-nhat-the-ky-20-chu-nghia-duy-vat-la-sai-lam.html

Saturday, July 22, 2017

Tức giận là hại thân một cách ngu ngốc

Khi con người tức giận, cơ thể thật sự sẽ sinh ra “khí”, nên cũng nói là hỏa khí bốc lên, có thể thiêu đốt năng lượng, khiến người ta sinh bệnh thậm chí vì tức mà chết. Đúng là tự mình hại mình, chết một cách “ngu ngốc” nhất.

Không biết bắt đầu từ khi nào, y học Trung Hoa bắt đầu từ dùng từ “phát nộ” (phẫn nộ, phát cáu) thành “sinh khí” (tức giận), từ nhỏ tới lớn đều dùng danh từ này. Khi con người ta “phẫn nộ”, thật sự cơ thể sẽ sinh ra “khí”, nói một cách nghiêm khắc “sinh khí” (tức giận) căn bản là một danh từ của y học cổ truyền Trung Hoa.

Phân tích từ góc độ y học cổ truyền

Không những con người có thể sinh khí (tức giận), mà đa số các loại động vật đều có thể sinh khí (tức giận), sau khi động vật sinh khí sẽ là chiếu đấu. Do đó, sinh khí (tức giận) là một cách thức cơ thể chuẩn bị trước trận chiến. Thông qua việc sinh khí để điều chỉnh nội tiết, làm cơ thể đạt tới trạng thái tốt nhất cho chiến đấu.
Có thể ví sự sinh khí này cũng giống như việc chuẩn bị chiến đấu của một quốc gia. Khi đất nước đối mặt với mối đe dọa của chiến tranh, sẽ lập tức cần chuẩn bị chiến đấu, sẽ tập trung rất nhiều nguồn tài nguyên dành sẵn cho các cuộc chiến. Nếu mối đe dọa kia biến mất, những thứ đầu tư cho cuộc chiến đa số sẽ trở thành phế phẩm và cần loại bỏ khỏi cơ thể, sẽ tiêu hao nguồn năng lượng rất lớn, tổn hao lượng lớn khí huyết của cơ thể.
Thuật dưỡng sinh của các thầy thuốc Trung y xưa rất chú trọng đến việc giữ cho tâm bình ý hòa (Ảnh: Internet)
Trong Hoàng Đế nội kinh, phần Linh khu có một đoạn nói về nguyên nhân gây bệnh như sau: “Phu bách bệnh chi sở thủy sinh giả, tất khởi vu táo thấp hàn tử phong vũ, âm dương hỉ nộ, ẩm thực khởi cư”. Tạm dịch là: Theo các vị đại phu, tất cả mọi bệnh sinh ra từ khí, bắt nguồn từ hỷ nộ tức giận, ăn uống, thời tiết mưa gió. Từ rất sớm người ta đã biết rõ tức giận là một trong những nguyên nhân sinh bệnh, không những làm lãng phí khí huyết của cơ thể, mà còn là một trong những nguyên nhân quan trọng sinh ra các loại bệnh.
Tức giận lâu ngày sẽ để lại những dấu tích trên cơ thể. Nhìn từ bên ngoài, những người thường xuyên tức giận bốc hỏa đa số sẽ hói trán. Trường hợp nghiêm trọng sẽ làm thay đổi hình dáng đầu, đường giữa đỉnh đầu  biến hình trở nên nhọn hơn. Mức độ tức giận ít hơn một chút, hai bên trán sẽ hình thành hình chóp nhọn như hình chữ M, hơi có hiện tượng hói đầu, những người này tính cách sẽ rất dễ cáu giận.
Phân tích từ góc độ y học cổ truyền Trung Hoa, khi tức giận, khí huyết sẽ tăng xông, lên đến đỉnh đầu, làm cho đỉnh đầu phát nhiệt, lâu dần sẽ dẫn tới hói đầu. Cơn nóng giận càng nghiêm trọng, có lúc sẽ gây ra xuất huyết trong gan, trường hợp nghiêm trọng còn có thể bị nôn ra máu. Khi máu trong gan có thể xuất huyết ra một chút thì mức độ sẽ nhẹ bớt, nếu để xuất huyết trong gan, một thời gian sau sẽ hình thành huyết khối. Những điều này nghe rất đáng sợ, nhưng đây thực sự là tình hình thực tế sẽ xảy ra nếu bạn tức giận.
Cái gọi là sinh khí (tức giận) không chỉ đơn thuần là sự nóng giận, có những cơn phiền muộn tích tụ dồn lại trong tâm cũng sẽ gây ra những mối nguy hại cho cơ thể. Tức giận uất ức trong tâm sẽ làm khí huyết trong lồng ngực xuất hiện tình trạng khí trệ mà trong Trung y gọi là “hoành nghịch”. Rất có thể phụ nữ bị tăng sinh tuyết vú và ung thư vú là kết quả của sự phiền muộn.
Ngoài ra, còn một kiểu giận nữa là sự giận dữ nhưng buộc phải kìm nén trong lòng, kiểu người này bên ngoài biểu hiện dường như rất ổn, hình như chưa bao giờ biết tức giận với ai, nhưng thực ra trong lòng luôn ở trạng thái tức giận hoặc không ổn định.
Người này sẽ rất dễ hình thành sự  ức chế đau khổ, gây ra các bệnh như viêm loét dạ dày và đại tràng, trường hợp nghiêm trọng sẽ dẫn tới xuất huyết dạ dày. Đặc trưng lớn nhất của những người thuộc nhóm này là trán rất cao, phía trước trán bị hói hình bán nguyệt.
Những người khí huyết kém, khí sẽ lắng xuống dưới, gây ra tình trạng đầy bụng đau bụng, và khi đó chúng ta thường cho rằng do đại tràng có vấn đề, thực ra căn bản là do tức giận tạo thành.
Từ lý luận ngũ hành của y học cổ truyền, gan thuộc mộc, lách thuộc thổ, mộc khắc thổ. Khi khí gan quá vượng sẽ làm tỳ tạng cũng theo đó mà vượng lên. Nếu những người trẻ tuổi khí huyết quá vượng, sẽ sản sinh ra rất nhiều bạch cầu, khi xử lý vấn đề về dạ dày đường ruột, rất có thể nguyên nhân thực sự gây ra bệnh ở một số bệnh nhân bị bệnh máu trắng là tự tức giận.
Tức giận (sinh khí) sẽ làm cho gan nóng lên, ngược lại gan nóng cũng làm cho người ta rất dễ tức giận.
Theo quan điểm của Trung y, tức giận hại gan, gan bị tổn thương dẫn đến người ta càng dễ tức giận, luật nhân quả tương hỗ lẫn nhau này từ đó hình thành nên sự tuần hoàn ác tính.
Khi cơ thể ngày càng sức cùng lực kiệt, làm khí huyết giảm sút dẫn tới  tình trạng âm hư hỏa trọng, bởi lúc này năng lượng mà cơ thể sử dụng là “hỏa” cạn kiệt, gan nhất định cũng sẽ tương đối vượng, con người dễ bị tức giận. Do đó, điều dưỡng khí huyết, làm cho khí huyết tăng lên ngang bằng với mức độ hư hao của âm, cũng sẽ làm cho tính cách trở nên hòa ái hơn.
Giận dữ cũng gây nóng gan, tiếp theo đó cũng làm phổi bị nóng theo, gây ra mất ngủ nghiêm trọng, chúng tôi đã từng gặp một người 5 ngày 5 đêm không thể ngủ được, chính là do tức giận gây ra.
Những bệnh nhân có thể lực yếu ở bệnh viện, có khi chỉ cần vừa tức giận sẽ gây nguy hiểm tới tính mạng. Ví dụ, những người đờm nhiều, một khi vừa tức giận, sẽ làm cho đờm dâng lên nhiều hơn, gây ra hen suyễn một cách nghiêm trọng, nếu không cẩn thận, cơn khó thở cũng có thể dẫn tới tử vong.

Tức giận chỉ có thể tự mình kiềm chế

Cũng bởi tức giận gây ra rất nhiều vấn đề cho cơ thể, nên việc cần làm đầu tiên hằng ngày đó là duy trì trạng thái “không tức giận”. Cái gọi là không tức giận không phải là kìm nén cơn tức đó ở trong lòng, mà là tu dưỡng cả tâm và thân thể, mở lòng rộng ra hoặc tìm một tín ngưỡng nào đó, giúp cho bạn khi đối diện với những vấn đề nhân sinh không vừa ý với mình, có thể mở rộng lòng tha thứ cho những lỗi lầm của đối phương, làm cho bản thân không có sự tức giận trong đầu. Nếu môi trường làm việc và sinh hoạt làm bạn không thể không tức giận, vậy thì chỉ có cách thay đổi môi trường khác.
Tức giận là nhân tố xuất phát từ nội tại trong cơ thể, một bác sĩ có tốt đến cỡ nào đi nữa cũng không có cách nào ngăn chặn được sự tức giận của bệnh nhân, do đó với vấn đề này chỉ có cách bệnh nhân tự tu dưỡng mới có cơ hội tự khắc phục.
Chỉ sau khi bệnh nhân tức giận, bác sĩ mới có thể nghĩ ra phương pháp để giảm thiểu sự tổn hại mà cơn tức giận gây ra tới mức thấp nhất. Cách làm đó là massage hoặc dùng phương pháp châm cứu vào kinh lạc của gan.
Phương pháp đơn giản nhất, đó là sau khi tức giận, hãy massage vào huyệt Thái xung ở dưới lòng bàn chân (sau khe giữa ngón chân 1 và 2, đo lên 1,5 thốn, huyệt ở chỗ lõm tạo nên bởi 2 đầu xương ngón chân 1 và 2. Hoặc sờ dọc theo khoảng gian đốt xương bàn chân 1, tìm xác định góc tạo nên bởi 2 đầu xương bàn chân 1 và 2, lấy huyệt ở góc này), có thể giúp khí gan bốc lên được phân tán xuống dưới, lúc này huyệt vị này sẽ rất đau, cần massage lại nhiều lần, cho đến khi hết đau mới thôi.
Cũng có thể tìm một bác sĩ châm cứu khi tức giận, châm một kim vào huyệt thái xung, và cứ giữ như vậy trong vòng 30 phút, 2 ngày sau lại đến châm cứu 1 lần, cho tới khi ấn vào huyệt vị này không còn thấy đau nữa, đỉnh đầu cũng ngừng phát nhiệt mới dừng lại.
Hoặc có thể ăn một số loại thực phẩm giúp phân tán khí gan, ví dụ như trần bì, củ từ… cũng rất có tác dụng.
Biện pháp loại bỏ cơn tức giận đơn giản nhất đó là dùng nước nóngngâm chân, nhiệt độ nước khoảng từ 40 – 42 độ, thời gian ngâm của mỗi người khác nhau, tốt nhất cho tới khi vai và lưng ra mồ hôi (tốt nhất ở nhiệt độ phòng từ 25 -28 độ), có người cần thời gian khoảng 30 phút, người huyết áp thấp có lúc cần ngâm 2h đồng hồ.
Nếu để tức giận gây ra huyết khối lưu lại trong gan, sẽ cần rất nhiều thời gian để dưỡng bệnh, khi năng lượng khí huyết cao, cơ thể bắt đầu xử lý vấn đề này.
Có một số người khi đã hiểu rõ hậu quả nghiêm trọng của việc tức giận, thì sẽ không dám tức giận nữa. Ý nghĩa thực sự của sự tức giận là “lấy sự sai sót của người khác để tự trừng phạt bản thân”, đây là một kiểu hành vi ngu ngốc nhất của nhân loại. Đó là bởi tức giận (sinh khí) sẽ gây ra sự tử vong của con người, do đó người ta mới có cách nói tức chết đi được (người chết vì tức giận), đúng là chết một cách “ngu ngốc” nhất.
Phương pháp chẩn đoán của y học hiện nay, rất khó định nghĩa được nguồn bệnh của bệnh nhân là do sinh khí (tức giận) gây ra, có lẽ tương lai một ngày không xa, khi chúng có thể chứng minh thực nghiệm được điều này, mọi người rất có thể sẽ phát hiện ra rằng, tức giận là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra sự tử vong của nhân loại.
Theo Secretchina
Kiên Định biên dịch

Tuesday, July 18, 2017

***MỘT SỐ CÁCH TRỊ BỆNH NGOẠI PHƯƠNG***



***MỘT SỐ CÁCH TRỊ BỆNH NGOẠI PHƯƠNG***
1/ HÍT THỞ TRỊ BỆNH:
Đây là cách mà các bậc tiên hiền đã chỉ dạy trong rất nhiều phương thang trị liệu, được dùng để dưỡng sinh, hồi phục thể trạng và trị liệu một số bệnh tật liên quan đến Ngũ Hành.
Nhiều người gọi đó là Khí Công (công năng của việc điều khí) hoặc Dịch Cân Kinh (Sự dịch chuyển để cân bằng). Việc này có lẽ nhiều người có biết đến, tuy nhiên rất ít người tin hành. Phương cách này có thể điều trị cho nhiều loại bệnh mang tính kinh niên, hay mãn tính rất hữu dụng.
Mục đích thì thầy vừa giải nói bên trên rồi, còn phương pháp thì dù có nói mênh mang bất tận đến năm năm, mười năm cũng chưa thể luận nói tận ý cho được, vì vậy thầy có thể gom lại trong hai câu tinh yếu như sau:
- Dưỡng - Càng chậm càng lâu (tức là đối với việc dưỡng sanh thì chu trình hít vào và thở ra càng chậm thì thọ mạng sẽ càng lâu dài).
- Trị - Nhanh, sạch, thanh, định (tức nếu là hỗn khí để điều trị bệnh tật thì lại cần sức nén, quá trình hít vào thật nhanh và thở ra cũng thật nhanh, hỗn khí phải là nơi sạch sẽ, thanh tịnh, còn định ở đây là phải ấn định vùng tổn thương để đưa khí đến đó. Tùy vùng tổn thương là thuộc hành nào thì đưa loại khí tương khắc mà chế phục. (Tỉ dụ như nơi phát bệnh là bệnh thận mãn tính, vậy thận thuộc Thủy hành, dòng khí đưa vào phải là Hỏa Khí để khắc trị)..v..v
- KIM : Phổi, Ruột già.
- THUỶ : Thận, Bàng quang.
- MỘC : Gan, Mật
- HỎA : Tim, Ruột non.
- THỔ : Lá lách, Dạ dày.
2/ TÂM TƯỞNG TRỪ BỆNH
Đây là cách giúp người bệnh bằng việc tạo ra trong tâm thức họ niềm tin tưởng rằng bệnh tật nhất định bị đẩy lùi, Đông Phương gọi là Tâm Trị, Tây Phương thì gọi là (Liệu pháp tâm lý).
Nhìn chung đây là cách giúp người bệnh có thêm niềm tin, từ đó cơ thể sẽ sản sanh ra các chất kháng thể để chiến đấu và dần đẩy lùi bệnh tật. Liệu pháp này chỉ có thể dùng với những người có niềm tin vững chắc, không mông lung, bất định. Cũng rất hạn chế vì khó kiểm soát và theo dõi nhưng nếu đã không còn phương cách khác thì có thể dùng phương cách này!
3/ THỊ PHƯƠNG ĐẢ TẬT
Tức là nhìn để trị bệnh, điều này thoạt nghe có vẻ khó tiếp thâu, nhưng đây là phương cách rất ích hữu với những loại bệnh (Trầm cảm, Tâm thần, Loạn trí, ... hay bệnh về tánh khí thất thường, nóng nảy).
Khi thị dụng người bệnh có thể tiếp thâu vào não các hình ảnh tương ứng, từ đó có thể làm nền tảng cho sự sắp xếp ngăn nắp các việc hỗn độn, rối rắm. Ví dụ như khi công việc quá nhiều người ta tù mù không biết xử lý ra sao thì lại đi du lịch, khi thị dụng các hình ảnh mênh mông đưa vào đầu họ sẽ có cái nhìn tổng quan hơn, từ đó lại xử lý được vấn đề, thì đây là một dạng của Thị Phương Đả Tật.
3/ THÍNH, KHỨU, VỊ PHƯƠNG ĐẢ TẬT.
Tương tự như thị phương đả tật, người ta cũng có thể dùng cách Nghe, Ngửi, Nếm, để trị bệnh.
4/ CÁCH PHƯƠNG ĐẢ TẬT
Đây là cách nhiều chùa tự cổ xưa đã dụng để trị bệnh cho các bậc vua chúa, kỳ thực không phải chỉ có thuốc men, dược liệu mà có thể trị bệnh được, mà nó còn do nơi sanh sống.
Cùng 1 bệnh đó, nếu để nằm ở nhà dùng thuốc lại không khỏi, mà lên núi lên chùa nằm trị lại khỏi.
Thì đây là cách phương đả tật (tức phải cách ly với môi trường tạo bệnh).
Người ta dùng cách này để trị cai nghiện các loại (thuốc phiện, thuốc lá, rượu, bia...v...v ) hoặc các bệnh nan y khác.
Một phương cách khác của Cách Phương Đả Tật đó là đưa người bệnh đến nơi xa lạ, ở đó lại cung dùng dược liệu tương ứng mà trị bệnh, đến khi khỏi hẳn mới trở về nhà. Nhưng ngày nay xem ra không còn phù hợp với đơif sống hiện đại nữa.
Vì vậy xưa kia có nhiều trường hợp lâm trọng bệnh, ý định là bỏ nhà ra đi đến nơi thâm sơn, cùng cốc để chết ở đó. Nhưng cuối cùng lại khỏi bệnh, lại khỏe mạnh trở về, nhiều người hỏi han thì họ cũng không hiểu rõ nguyên cớ. Còn kỳ thực đó chỉ là một trong các phương trị bệnh của Thiên Y Cơ Văn mà thôi!
Chúc tất cả có một sức khỏe tốt, cầu cho người bệnh đều sớm khỏe. Hy vọng sẽ có người hữu duyên lãnh hội mà giúp cho thân quyến, bằng hữu của mình trong cơn tuyệt vọng còn tìm được diệu phương điều phục.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT!!!

Thursday, July 6, 2017

CHÁNH NIỆM

CHÁNH NIỆM
Ngoài việc duy trì chánh niệm suốt ngày đêm, chẳng có pháp du già tịnh quang nào khác. Hành giả bắt đầu bằng cách thực hành công phu duy trì chánh niệm suốt cả ngày. Khi tâm thức con rất sáng suốt và bén nhạy trong ngày thì thì cuối cùng chánh niệm cũng sẽ được duy trì trong đêm. Khi con đi ngủ mà vẫn tiếp tục duy trì chánh niệm, trong sự kết hợp giữa sự tỉnh giác trong sáng và tánh Không, con sẽ bắt đầu nhận biết được trạng thái của giấc mộng. Sự nhận biết này được gọi là ‘nhận biết tánh sáng của giấc mộng’. Rồi cuối cùng, với chánh niệm bền bỉ, ngay cả khi trang thái giấc mộng biến mất , con sẽ an trú được trong tánh sáng một cách tự nhiên và sự tỉnh giác sẽ trụ lại. Cuối cùng, sự tỉnh giác trong sáng sẽ trụ lại ngay cả trong trạng thái giấc ngủ sâu. Nó cũng giống như sự tỏa sáng của đốm lửa của ngọn đèn. Sẽ chẳng có tư tưởng nào [khởi lên] mà chỉ có một cảm nhận vi tế của sự nghỉ ngơi trong giấc ngủ. Điều này sẽ được thực hiện khi con duy trì sự tỉnh giác trong sáng liên tục cả ngày lẫn đêm mà không bị phóng tâm chút nào.
Sau cùng, trong giấc ngủ sâu, con sẽ nhận biết được tịnh quang của giấc ngủ sâu. Cái mà chúng ta gọi là tịnh quang chính là khả năng sử dụng sự tỉnh giác để tỏa sáng vào các ý tưởng và cảm xúc hay cảm giác của con. Những tư tưởng này sẽ phát khởi rồi tan biến mà không hề chi phối con hay để lại dấu vết gì. Một hành giả sơ cơ sẽ duy trì được sự tỉnh thức trong phút chốc rồi sau đó lại đánh mất chánh niệm. Việc này phải được khắc phục vào lúc ban ngày. Trước hết, con phải có thể đoạn diệt bất kỳ tư tưởng thông thường nào phát khởi lên, rồi luyện tập duy trì sự tỉnh giác trong sáng ấy. Rồi khi con đi ngủ, hãy giữ vững chánh niệm bằng cách tụng minh chú OM AH HUNG. Thỉnh thoảng, con sẽ có thể nhớ đến OM AH HUNG trong giấc mộng và cuối cùng chánh niệm sẽ trụ lại, ngay cả trong trạng thái giấc ngủ sâu.
~ Những lời khai thị của Đức Garchen Rinpoche 2011
Nguồn:drikungvn.org