Friday, December 30, 2016

HIỂU ĐỜI!

HIỂU ĐỜI!
1, Ăn no không gội đầu, đói không tắm. Rửa mặt nước lạnh, vừa đẹp vừa khỏe. Mồ hôi chưa khô, đừng tắm nước lạnh. Đánh răng nước ấm, chống ê chắc răng.
2, Ăn gạo có trấu, thức ăn có chất sơ. Nam không thể thiếu rau hẹ, nữ không thể thiếu ngó sen. Củ cải trắng, sống không tốt nhưng chín thì bổ. Ăn không quá no, no không nên nằm.
3, Dưỡng sinh là động, dưỡng tâm là tĩnh. Tâm không thanh tịnh, ưu tư vọng tưởng dễ nảy sinh. Tâm thần an bình, bệnh sao đến được. Nhắm mắt dưỡng thần, tĩnh tâm ích trí.
4, Dược bổ thực bổ, đừng quên tâm bổ. Coi tiền như cỏ, coi thân như bảo. khói hun cháy lửa, tốt nhất không ăn. Chiên dầu ngâm ướp, ít ăn thì tốt.
5, Cá thối tôm rữa, lấy mạng oan gia. Ăn mặc giữ ấm, nhất thân là xuân. Lạnh chớ chạm răng, nóng chớ chạm môi. Đồ chín mới ăn, nước chín mới uống.
6, Ăn nhiều rau quả, ít ăn đồ thịt. Ăn uống chừng mực, ngủ dậy đúng giờ. Đầu nên để lạnh, chân nên giữ ấm. Vui chơi biết đủ, không cầu an dật.
7, Dưỡng sinh là cần cù, dưỡng tâm là tĩnh tại.
8, Người đến tuổi già, thì phải rèn luyện, đi bộ chạy chậm, luyện công múa kiếm; đừng sợ giá lạnh, quét sạch sân nhà, hội họa thêm vui, tấm lòng rộng mở;
song-khoe
9, Nghe tiếng gà gáy, đừng cố nằm thêm, trồng hoa nuôi chim, đọc sách ngâm thơ; chơi cờ hát kịch, không ham phòng the, việc tư không nhớ, không chiếm lợi riêng.
10, Ẩm thực không tham, bữa tối ăn ít, khi ăn không nói, không nên hút thuốc; ít muối ít đường, không ăn quá mặn, ít ăn chất béo, cơm không quá nhiều;
11, Mỗi ngày ba bữa, thức ăn phù hợp, rau xanh hoa quả, ăn nhiều không sợ; đúng giờ đi ngủ, đến giờ thì dậy, nằm dậy nhẹ nhàng, không gấp không vội;
12, Uống rượu có độ, danh lợi chớ tham, chuyện thường không giận, tấm lòng phải rộng.
13, Tâm không bệnh, nên phòng trước, tâm lý tốt thân thể khỏe mạnh; tâm cân bằng, phải hiểu biết, cảm xúc ổn định bệnh tật ít;
14, Luyện thân thể, động cùng tĩnh, cuộc sống hài hòa tâm khỏe mạnh; phải thực dưỡng, no tám phần, tạng phủ nhẹ nhõm tự khai thông;
15, Người nóng giận, dễ già yếu, thổ lộ thích hợp người người vui; thưởng thức thư họa, bên suối thả câu, lựa chọn sở thích tự do chơi;
16, Dùng đầu óc, không mệt nhọc, bớt lo dưỡng tâm ít náo nhiệt; có quy luật, sức khỏe tốt, cuộc sống thường ngày phải hài hòa;
17, Tay vận động, tốt cho não, phòng ngừa bị lạnh và cảm cúm.
18, Mùa hè không ngủ trên đá, mùa thu không ngủ trên phản. Mùa xuân không hở rốn, mùa đông không che đầu. Ban ngày hoạt động, tối ngủ ít mơ.
19, Tối ngủ rửa chân, hơn uống thuốc bổ. Buổi tối mở cửa, hễ ngủ là say. Tham mát không chăn, không bệnh mới lạ.
20, Ngủ sớm dậy sớm, tinh thần sảng khoái, tham ngủ tham lạc, thêm bệnh giảm thọ. Tranh cãi buổi tối, ruột như sát muối.
21, Một ngày ăn một đầu heo, không bằng nằm ngủ ngáy trên giường.
22, Ba ngày ăn một con dê, không bằng rửa chân rồi mới lên giường.
23, Gối đầu chọn không đúng, càng ngủ người càng mệt. Tâm ngủ trước, người ngủ sau, ngủ vậy sẽ thành mỹ nhân.
24, Đầu hướng gió thổi, ấm áp dễ chịu, chân hướng gió thổi, hãy mời thầy lang.
25, Không ngủ nơi ngõ hẻm, độc nhất khi gió lùa.
26, Đi ngủ không thắp đèn, sáng dậy không chóng mặt.
27, Muốn ngủ để tấm thân nhẹ nhõm, chân không hướng tây đầu không hướng đông
.........................HIỂU ĐỜI ....................
Tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già. Chẳng dám nói hiểu hết mọi lẽ nhân sinh nhưng chỉ có hiểu đời thì mới sống thanh thản, sống thoải mái.
Qua một ngày mất một ngày
Qua một ngày vui một ngày
Vui một ngày lãi một ngày
Hạnh phúc do mình tạo ra. Vui sướng là mục tiêu cuối cùng của đời người, niềm vui ẩn chứa trong những sự việc vụn vặt nhất trong đời sống, mình phải tự tìm lấy. Hạnh phúc là cảm giác, cảm nhận, điều quan trọng là ở tâm trạng.
Tiền không phải là tất cả nhưng không phải không là gì. Đừng quá coi trọng đồng tiền, càng không nên quá so đo, nếu hiểu ra thì sẽ thấy nó là thứ ngoại thân, khi ra đời chẳng mang đến, khi chết chẳng mang đi. Nếu có người cần giúp, rộng lòng mở hầu bao, đó là một niềm vui lớn. Nếu dùng tiền mua được sức khỏe và niềm vui thì tại sao không bỏ ra mà mua? Nếu dùng tiền mà mua được sự an nhàn tự tại thì đáng lắm chứ! Người khôn biết kiếm tiền biết tiêu tiền. Làm chủ đồng tiền, đừng làm tôi tớ cho nó.
“Quãng đời còn lại càng ngắn thì càng phải làm cho nó phong phú”. Người già phải thay đổi quan niệm cũ kỹ đi, hãy chia tay với “ông sư khổ hạnh”, hãy làm “con chim bay lượn”. Cần ăn thì ăn, cần mặc thì mặc, cần chơi thì chơi, luôn luôn nâng cao chất lượng cuộc sống, hưởng thụ những thành quả công nghệ cao, đó mới là ý nghĩa sống của tuổi già.
Tiền bạc là của con, địa vị là tạm thời, vẻ vang là quá khứ, sức khỏe là của mình.
Cha mẹ yêu con là vô hạn; con yêu cha mẹ là có hạn.
Con ốm cha mẹ buồn lo; cha mẹ ốm con nhòm một chút hỏi vài câu là thấy đủ rồi.
Con tiêu tiền cha mẹ thoải mái; cha mẹ tiêu tiền con chẳng dễ.
Nhà cha mẹ là nhà con; nhà con không phải là nhà cha mẹ.
Khác nhau là thế, người hiểu đời coi việc lo liệu cho con là nghĩa vụ, là niềm vui, không mong báo đáp.
Chờ báo đáp là tự làm khổ mình.
Ốm đau trông cậy ai? Trông cậy con ư? Nếu ốm dai dẳng chẳng có đứa con có hiếu nào ở bên giường đâu (cửu bệnh sàng tiền vô hiếu tử). Trông vào bạn đời ư? Người ta lo cho bản thân còn chưa xong, có muốn đỡ đần cũng không làm nổi.
Trông cậy vào đồng tiền ư? Chỉ còn cách ấy.
Cái được, người ta chẳng hay để ý; cái không được thì nghĩ nó to lắm, nó đẹp lắm. Thực ra sự sung sướng và hạnh phúc trong cuộc đời tùy thuộc vào sự thưởng thức nó ra sao.
Người hiểu đời rất quý trọng và biết thưởng thức những gì mình đã có, và không ngừng phát hiện thêm ý nghĩa của nó, làm cho cuộc sống vui hơn, giàu ý nghĩa hơn.
Cần có tấm lòng rộng mở, yêu cuộc sống và thưởng thức cuộc sống, trông lên chẳng bằng ai, trông xuống chẳng ai bằng mình (tỷ thượng bất túc tỷ hạ hữu dư), biết đủ thì lúc nào cũng vui (tri túc thường lạc).
Tập cho mình nhiều đam mê, vui với chúng không biết mệt, tự tìm niềm vui.
Tốt bụng với mọi người, vui vì làm việc thiện, lấy việc giúp người làm niềm vui.
Con người ta vốn chẳng phân biệt giàu nghèo sang hèn, tận tâm vì công việc là coi như có cống hiến, có thể yên lòng, không hổ thẹn với lương tâm là được. Huống hồ nghĩ ra, ai cũng thế cả, cuối cùng là trở về với tự nhiên. Thực ra ghế cao chẳng bằng tuổi thọ cao, tuổi thọ cao chẳng bằng niềm vui thanh cao.
Quá nửa đời người dành khá nhiều cho sự nghiệp, cho gia đình, cho con cái, bây giờ thời gian còn lại chẳng bao nhiêu nên dành cho mình, quan tâm bản thân, sống thế nào cho vui thì sống, việc nào muốn thì làm, ai nói sao mặc kệ vì mình đâu phải sống vì ý thích hay không thích của người khác, nên sống thật với mình.
Sống ở trên đời không thể nào vạn sự như ý, có khiếm khuyết là lẽ thường tình ở đời, nếu cứ chăm chăm cầu toàn thì sẽ bị cái cầu toàn làm cho khổ sở. Chẳng thà thản nhiên đối mặt với hiện thực, thế nào cũng xong.
Tuổi già tâm không già, thế là già mà không già; Tuổi không già tâm già, thế là không già mà già. Nhưng xử lý một vấn đề thì nên nghe già.
Sống phải năng hoạt động nhưng đừng quá mức. Ăn uống quá thanh đạm thì không đủ chất bổ; quá nhiều thịt cá thì không hấp thụ được. Quá nhàn rỗi thì buồn tẻ; quá ồn áo thì khó chịu…. Mọi thứ đều nên “vừa phải”.
Người ngu gây bệnh (hút thuốc, say rượu, tham ăn tham uống….)
Người dốt chờ bệnh (ốm đau mới đi khám chữa bệnh)
Người khôn phòng bệnh , chăm sóc bản thân, chăm sóc cuộc sống.
Khát mới uống, đói mới ăn, mệt mới nghỉ, thèm ngủ mới ngủ, ốm mới khám chữa bệnh…. Tất cả đều là muộn.

Saturday, December 24, 2016

CÁCH GIẢI THOÁT KHỎI SANH TỬ

CÁCH GIẢI THOÁT KHỎI SANH TỬ
Đạo sư Padma nói: Khi thực hành Pháp, có những cách giải thoát khỏi sanh tử.
Công chúa Tsogyal hỏi: Chúng ta phải làm gì?
Đạo sư nói: Nếu con muốn khởi lên lòng sùng mộ phi thường, hãy quan sát những đức hạnh bên ngoài và bên trong Đạo sư của con.
Nếu con muốn hành động hòa hợp với mọi người, chớ do dự lừng khừng trong nỗ lực làm lợi lạc cho những người khác.
Nếu con muốn chứng ngộ tâm của Đạo sư, hãy đưa những giáo huấn khẩu truyền của Ngài vào thực hành.
Nếu con muốn đạt được những thành tựu (siddhi) nhanh chóng, chớ bao giờ không giữ những thệ nguyện của con.
Nếu con muốn thoát khỏi bốn dòng nước dữ sanh, già, bệnh ,chết, hãy không ngừng giải quyết cái nền tảng của tất cả (Lun-gzhi, Alaya) vốn vô sanh.
Nếu con muốn không có những chướng ngại trong thực hành, hãy ném bỏ những xao lãng thế gian đằng sau con.
Nếu con muốn hoàn thành không cố gắng lợi lạc của những người khác, hãy tu hành tâm thức con trong Bồ đề tâm của từ bi vô lượng.
Nếu con sợ đi vào ba cõi thấp trong đời tới, hãy bỏ mười hành động không đức hạnh trong kiếp này.
Nếu con muốn có hạnh phúc trong cả đời này và những đời sau, hãy cố gắng làm mười thiện hạnh.
Nếu con muốn đưa tâm con thâm nhập vào Pháp, hãy kiên trì thực hành cả trong khó nhọc và khốn khổ.
Nếu con muốn xa lìa sanh tử, hãy tìm kiếm giác ngộ vô thượng ở trong tâm của chính con.
Nếu con muốn hoàn thành quả tức là ba thân, hãy cố gắng thu thập hai sự tích tập.
Nếu con thực hành như vậy, con sẽ tìm thấy hạnh phúc. Người không xoay tâm thức họ khỏi sanh tử thì không bao giờ có hạnh phúc.
THỰC HÀNH PHÁP VỚI SỰ CHÂN THÀNH
Đạo sư Padma nói: Nếu con muốn thực hành Pháp từ cốt lõi lòng con thì có một cách.
Công chúa Tsogyal hỏi: Đó là cách gì?
Đạo sư nói: Khi nhập mình vào sadhana, hãy thoát khỏi tham và sân.
Khi con nghiên cứu trong đường lối đúng, hãy mặc áo giáp nhẫn nhục.
Khi ở trong những chốn ẩn cư, chớ dính mắc vào thức ăn và của cải.
Nếu con khao khát Pháp dẫn tới chứng đắc, hãy theo một Đạo sư đã đạt được thành tựu.
Nếu con đã gặp một vị Thầy cao cả, chớ làm ngược lại Ngài mà hãy cố gắng tốt nhất để làm vừa lòng Ngài.
Khi con cảm thấy nghi ngờ về Pháp, hãy hỏi Đạo sư của con để có được lời khuyên bảo.
Khi bà con thân thuộc chống lại con, hãy cắt đức mối ràng buộc dính mắc của họ với con.
Hãy ném bỏ sự xao lãng do những chướng ngại hay ma quỷ.
Hãy thực hành tức thời không trì hỗn.
Chớ mong muốn tụ họp mà hãy ở trong đơn độc.
Những bạn bè và của cái, thân thuộc và đồ vật, tất cả đều huyễn, thế nên hãy bỏ chúng.
Tham luyến và hung hăng sẽ sinh ra nếu con ở chung với những người khác.
Hãy sống một mình và dấn thân vào thực hành tâm linh.
Nhiều thứ tiêu khiển sẽ chỉ làm gián đoạn sự thực hành của con, thế nên hãy từ bỏ chúng.
Bất luận thế nào, người không thể dấn thân vào thực hành tâm linh sẽ không tìm ra hạnh phúc chân thực.
GIỮ GÌN NHỮNG CAM KẾT THỆ NGUYỆN (SAMAYA)
Đạo sư Padma nói: Khi thực hành Pháp, con phải giữ gìn những cam kết thệ nguyện. Có vẻ người ta chỉ vi phạm những cam kết thệ nguyện bởi vì họ không thể chịu đựng khó nhọc.
Công chúa Tsogyal: Điều ấy nghĩa là gì?
Đạo sư nói: Có những người vi phạm giữ bí mật về Đạo sư của họ, tuyên bố mình là người học Đạo, và chỉ quảng cáo sự tu hành của mình.
Có những người vi phạm có ý định làm một cúng dường cho Đạo sư của họ và rồi đổi ý, giữ đồ cúng dường lại một cách dối trá như một phần của tài sản của họ.
Có những người vi phạm lừa gạt cả Thầy lẫn bạn đạo của họ.
Có những người vi phạm gièm pha vị Thầy từ ái của họ và rồi khoe khoang tiếng tăm của họ.
Có những người vi phạm phóng chiếu những lỗi lầm riêng của mình lên vị Thầy và còn tự cho là có cam kết thệ nguyện thanh tịnh.
Có những người vi phạm nghĩ rằng họ có thể phê phán tấm gương đời sống không thể phê phán của Thầy họ.
Có những người vi phạm nói lên những đức hạnh của Thầy họ cho những người khác nhưng mục đích lại nhắm vào sự cạnh tranh với Ngài.
Có nhiều người ương ngạnh tuyên bố họ có hiểu biết mà lại không từng nghe những giáo lý tuyên bố họ đã chín thành quả mà không từng nhận truyền pháp và tuyên bố họ có những giáo huấn khẩu truyền mà thật sự chưa nhận được chúng. Như vậy, chỉ có một ít người nhận được những ban phước và thần lực gia hộ.
NIỀM TIN BỀN VỮNG
Đạo sư Padma nói: Khi thực hành Pháp, chỉ có niềm tin bền vững là rất quan trọng. Có mười nguyên nhân khởi lên niềm tin.
Công chúa Tsogyal hỏi: Đó là những nguyên nhân nào?
Đạo sư nói: Hãy nhận biết rằng những hành động, lợi và danh hiện tại của mình không chứa đựng hạnh phúc.
Hãy tin vào nhân quả của những hành động thiện, ác.
Hãy cảm thấy mệt mỏi chán ngán (với sanh tử) trong khi nhớ rằng con sẽ chết.
Hãy hiểu rằng tài sản, của cải, vợ con và thân thuộc là không quan trọng vì họ sẽ không theo con qua cái chết.
Hãy hiểu rằng con không có quyền chọn lựa nơi chốn trong đời tới của con, vì không chắc chắn con tái sanh ở đâu.
Hãy nhận biết rằng không thực hành Pháp không đã có được một thân người trọn vẹn con sẽ rời bỏ đời này với hai bàn tay trắng.
Hãy nhận biết rằng bất kể nơi nào con sanh ra trong sáu cõi sanh tử con cũng không bao giờ vượt khỏi khổ đau.
Hãy nghe về những phẩm tánh cao siêu của Tam Bảo.
Hãy thấy biết những hành động đặc biệt của vị Thầy thiêng liêng là những phẩm tánh tốt đẹp.
Hãy tụ họp với những bạn đạo tốt họ trung thành với đức hạnh.
Người nào nhớ hay làm khởi lên những điều này sẽ ra khỏi sanh tử. Nhưng có phải chỉ làm khởi lên một điều thôi cũng là khó khăn ư?
MƯỜI BA SỰ TỪ BỎ
Đạo sư Padma nói: Nếu con muốn thực hành Pháp từ cốt lõi trái tim mình, con phải có mười ba loại từ bỏ.
Công chúa Tsogyal hỏi: Đó là những điều gì?
Đạo sư nói: Nếu con không thể từ bỏ quê hương con không thể đánh bại Ma kiêu mạn.
Nếu con từ bỏ những hoạt động của một gia chủ con sẽ không tìm ra thời giờ để thực hành Pháp.
Nếu con không thực hành Pháp khi con cảm thấy niềm tin con sẽ không chấm dứt được dòng nghiệp.
Khi chính con không có niềm tin, thì đừng chê trách những người khác.
Nếu con không thể bỏ những thứ sở hữu của mình, con sẽ không thể đoạn dứt được những công việc thế gian.
Nếu con không xa cách thân thuộc, con sẽ không dứt được dòng tham luyến và sân hận.
Nếu con không thực hành Pháp ngay bây giờ, không chắc chắn con sẽ tái sanh ở đâu trong đời tới.
Nếu con ước nguyện làm điều gì trong tương lai thay vì làm nó ngay bây giờ khi đang có cơ hội, không chắc bao giờ cơ hội lại xảy ra.
Chớ lừa dối mình, hãy cắt đứt những tham vọng của con và hãy thực hành Thánh Pháp.
Hãy từ bỏ thân thuộc và bạn bè, người thương yêu và tài sản. Nếu con làm nhu vậy ngay bây giờ, điều đó là ý nghĩa nhất.
Chớ xúc tiến một địa vị xã hội không đức hạnh mà chắc chắn con không thể mang theo vĩnh viễn, hãy xúc tiến những hành động đức hạnh chắc chắn không thể không làm.
Chớ làm những chuẩn bị cho ngày mai không hẳn sẽ cần thiết, thay vì thế hãy dấn thân vào việc chuẩn bị cho cái chết bằng sự thực hành tâm linh. Đó là điều thực sự cần thiết.
Nếu con nỗ lực trong việc thực hành Pháp, con không cần phải lo nghĩ về thực phẩm và áo quần, chúng sẽ tự động có. Ta chưa bao giờ nghe hay thấy ai chết vì đói trong khi thực hành Pháp.
MƯỜI BA VIỆC QUAN TRỌNG
Đạo sư Padma nói: Để thực hành Pháp một cách thành thật, con phải thực hành mười ba việc quan trọng này.
Công chúa Tsogyal hỏi: Đó là những việc gì?
Đạo sư nói: Quan trọng là theo học một Đạo sư có phẩm tánh tốt.
Quan trọng là theo học một thời gian dài một Đạo sư có những giáo huấn khẩu truyền.
Quan trọng là có lòng sùng mộ kiên định vào Tam Bảo cao cả.
Quan trọng là tránh hành vi không đức hạnh và xấu xa dù tinh tế nhất.
Quan trọng là suy nghĩ về vô thường ba lần trong ngày và ba lần trong đêm.
Quan trọng là tinh tấn trong việc thực hành Pháp đức hạnh.
Quan trọng là nuôi dưỡng từ bi cho mọi chúng sanh trong mọi thời điểm.
Quan trọng là dứt bỏ sự bám chấp vào những hình tướng và vật chất một cách thiện xảo.
Quan trọng là có được xác tín vào những giáo lý khẩu truyền là thể sai lầm.
Quan trọng là giữ gìn những cam kết và thệ nguyện theo cách đúng đắn.
Quan trọng là thông tỏ tự tâm của con.
Quan trọng là không tiết lộ những giáo huấn bí truyền cho những người không thích hợp.
Khi thực hành, quan trọng là tự mình nỗ lực và ở trong những chốn hẻo lánh.
Khi con thực hành những điều này, sự thực hành Pháp của con sẽ thành công.
CÁCH THỨC CỦA PHÁP
Đạo sư Padma nói: Nếu con muốn thực hành Pháp, đây là cách thức.
Công chúa Tsogyal hỏi: Người ta phải làm gì?
Đạo sư nói: Nếu con muốn tri giác nghĩa của pháp tánh, con phải theo một Đạo sư.
Nếu con mong muốn thoát khỏi sanh tử, con phải từ bỏ đời sống của một người chủ gia đình.
Nếu biết rõ rằng con phải chết, con phải thực hành Pháp.
Nếu mong ước thực hành bất nhị, con phải từ bỏ những hoạt động.
Nếu muốn hoàn thiện những phẩm tính tốt, con phải hoàn thành những thực hành.
Nếu muốn xua tan đau khổ, con phải từ bỏ những tín đồ và quyến thuộc.
Nếu muốn đạt được kinh nghiệm, con phải thường xuyên nhập thất trên núi.
Nếu muốn thoát khỏi bám luyến, con phải từ bỏ quê hương.
Nếu muốn nhìn một cảnh tượng, con phải nhìn vào tấm gương trong sáng của tâm con
Nếu muốn thành tựu, con phải sùng kính guru, yidam và dakini trên đầu con.
Dường như chưa có ai thực hành thật sự những giáo lý của giải thoát.
SỰ KIÊN NHẪN
Đạo Sư Padma nói: Khi thực hành Pháp từ tận đáy lòng, con phải có sự kiên trì nhất.
Bà hỏi: Thưa, điều này có nghĩa gì?
Vị Thầy nói: Bạn bè và con cháu, thực phẩm và tài sản, tất cả đều là ảo ảnh, vậy hãy từ bỏ chúng.
Trò giải trí, thanh danh và những hoàn cảnh tốt đẹp, tất cả đều là những che chướng nghiêm trọng, vậy hãy từ bỏ chúng.
Tình bạn, quyến thuộc và người hầu, tất cả đều là gốc rễ của luân hồi gây nên bám luyến và sân hận, vậy hãy từ bỏ chúng.
Năm, tháng, ngày, và giờ tất cả đều làm ngắn lại thời gian còn lại trước cái chết, vậy hãy nhanh chóng thực hành.
Người không kiên nhẫn và không có mục đích đúng đắn họ xem thân nhân, thực phẩm, tài sản và con cháu là quan trọng. Họ xem sự giải trí tiêu khiển là hoàn cảnh tốt đẹp. Họ xem tình bạn là vui sướng. Không để ý đến năm, tháng, ngày trôi qua, họ chỉ ngồi đếm chiều dài cuộc sống. Vào lúc chết, họ phải tự mình lèo lái.
SỰ KHÓ KHĂN CỦA VIỆC THỰC HÀNH PHÁP
Đạo Sư Padma nói: Thật sự là khó thực hành Pháp.
Bà hỏi: Thưa, như vậy có nghĩa gì?
Vị Thầy nói: Chấp giữ tà kiến là nguy hiểm.
Thiền định bị sai lạc do tạo tác của tâm thức.
Kẻ địch tệ nhất là phá hỏng samaya.
Hành bị lừa gạt vì những hành vi bất thiện của thân, khẩu, ý.
Giáo lý bị hủy hoại vì quá nhiều tham vọng.
Pháp bị tàn lụi do ham đạt được giàu có.
Giới nguyện bị hư hỏng do chỉ trích những người khác.
Con đường bị lầm lạc vì chấp đau khổ là có thật.
Tính khiêm tốn bị mất vì thèm muốn những sự vật hấp dẫn.
Mục đích bị sai lạc do tất cả danh lợi của cuộc sống này.
Những vị thầy không thực hành Pháp đều lúng túng và những thiền giả như vậy đều chán nản thất vọng.
NHỮNG CÁCH ĐỂ CẢM THẤY THONG DONG
Vị Thầy nói: Có những cách làm thong dong nếu con biết làm như thế nào.
Bà hỏi: Mong Thầy giải nghĩa!
Vị thầy nói: Khi thoát khỏi trụ bám nhị nguyên, kiến được thong dong.
Khi thoát khỏi hôn trầm, trạo cử, và xao lãng, thiền định được thong dong.
Khi bám luyến được tịnh hóa như hư không, hạnh được thong dong.
Khi tâm con thoát khỏi buồn khổ, nơi cư trú của con cảm thấy thong dong.
Khi thiên chấp được thanh lọc, lòng bi được thong dong.
Khi trụ bám được tịnh hóa, sự bố thí được thong dong.
Khi biết thực phẩm và của cải là huyễn ảo, hoan hỷ được thong dong.
Khi không có dáng điệu kiêu mạn, những hoạt động hàng ngày của con được thong dong.
Khi không sống cuộc đời của một gia chủ bị đau khổ dẫn dắt, sinh nhai được thong dong.
Khi không đua tranh theo những phẩm tính tôn quý, tình bạn được thong dong.
Khi thoát khỏi cách cư xử ấu trĩ và chấp ngã, người ta được thong dong.
Khi đi theo một vị Thầy tôn quý có lòng bi và những hướng dẫn khẩu truyền, người ta được thong dong.
Khi hiểu rằng bản tánh Như Lai đều hiện diện trong sáu loại chúng sanh, con thong dong cảm thấy họ là những thân nhân thân thuộc.
Khi cắt đứt bám luyến, con làm bất cứ gì đều thong dong.
Khi những hình tướng và hiện hữu giải thoát tự nhiên, sự phát hiện đại lạc được thong dong.
Khi con biết âm thanh sắc tướng là như huyễn, việc dứt bỏ đau khổ được thong dong.
Khi con nhận ra bản lai diện mục, việc thoát khỏi nỗ lực và cố gắng được thong dong.
Khi tư tưởng được nhận ra là pháp tánh, con thong dong sử dụng những gì con thấy như là thiền định.
Hiểu được những điều này, con sẽ thong dong khi làm bất cứ điều gì.
Chúng sanh của thời buổi đen tối chẳng buông bỏ chấp ngã nên không hạnh phúc. Tất cả họ đều đáng thương.
NHỮNG CÁCH HẠNH PHÚC
Vị Thầy nói: Nếu con có thể đi theo những hướng dẫn khẩu truyền này, thì có những cách để được hạnh phúc.
Bà hỏi: Thưa, chúng con nên làm gì?
Vị Thầy nói: Vì vũng lầy bám luyến và chấp thủ không có đáy, nếu từ bỏ quê hương con sẽ hạnh phúc.
Vì sự học và tư duy về tri kiến là vô cùng, nếu chứng ngộ tâm mình con sẽ hạnh phúc.
Vì những chuyện trò trống rỗng thường tình không bao giờ cạn, nếu giữ im lặng con sẽ hạnh phúc.
Vì những hoạt động tiêu khiển của thế gian không bao giờ ngừng, nếu ở nơi hoang vắng con sẽ hạnh phúc.
Vì không bao giớ có kết thúc những hoạt động, nếu từ bỏ hành động con sẽ hạnh phúc.
Vì việc tích lũy của cải không bao giờ đem đến bằng lòng, nếu buông bỏ bám luyến con sẽ hạnh phúc.
Vì những kẻ thù không bao giờ có khuất phục, nếu chiến thắng những cảm xúc phiền não của mình con sẽ hạnh phúc.
Vì những thân nhân mà con gắn bó, nếu cắt đứt những liên hệ con sẽ hạnh phúc.
Vì gốc rễ luân hồi không bao giờ chịu đứt, nếu cắt đứt chấp ngã con sẽ hạnh phúc.
Vì những tư tưởng và khái niệm không bao giờ cạn, nếu cắt đứt hoạt động của tư tưởng con sẽ hạnh phúc.
Nói chung, những chúng sanh không thoát khỏi chấp ngã đều không hạnh phúc. Họ đau khổ lâu dài trong các cõi sinh tử luân hồi.
ĐI LẠC ĐƯỜNG
Đạo Sư Padma nói: Có nhiều hành giả đi lạc và trở thành người thường sau khi đã thọ giới nguyện.
Bà hỏi: Thưa, thế có nghĩa gì?
Vị Thầy nói: Hành giả (yogi) đi lạc đường khi nói về kiến (cái thấy) mà không nhận biết bản tâm và tìm nó trong mọi hướng.
Hành giả đi lạc khi đè nén giam cầm tâm thức mình và vì không hiểu nên đã thực hành “thiền định mê muội” vô ký.
Hành giả đi lạc khi tuyên bố mọi sự đều là tâm và sau đó dấn thân vào những hành vi phù phiếm.
Bà hỏi: Thưa, người ta tránh đi lạc như thế nào?
Vị Thầy nói: Hành giả không đi lạc khi nhận biết những hình tướng là tâm và lấy pháp thân là con đường.
Hành giả không đi lạc khi cắt đứt mọi tạo tác của tâm và có xác tín của kiến.
Hành giả không đi lạc khi áp dụng điều này vào thực hành và lấy tánh giác làm con đường.
Hành giả không đi lạc khi hiểu rằng những hình tướng biểu hiện là những người trợ giúp và thoát khỏi bám luyến, chấp thủ.
Bất luận thế nào, trong thời buổi suy đồi phần lớn hành giả đi lạc đường. Chỉ có một số ít người đi đúng hướng.
MỘT SỐ ĐIỀU KHÔNG THỂ TRÁNH KHỎI
Đạo Sư Padma nói: Khi thực hành Pháp, một số điều quan trọng không thể tránh được.
Bà hỏi: Thưa, điều đó có nghĩa gì?
Vị Thầy nói: Khi nhận biết trí tuệ đồng khởi đang hiện diện trong chính con, thì không cách nào thoát khỏi việc đạt giác ngộ.
Khi nhận ra đặc tính của luân hồi là đau khổ liên tục và chuyển tâm con khỏi nó, thì không cách nào tránh được việc giải thoát khỏi luân hồi.
Khi không chấp vào thành kiến đối với những học phái triết học, không cách nào tránh khỏi đạt được sự học uyên bác vô biên.
Khi con nhận ra đặc tính của luân hồi là đau khổ liên tục và quay lại với nó, thì không cách nào tránh được việc thoát khỏi luân hồi.
Khi con không tách lìa với bám chấp và trụ định, thì không cách nào tránh được việc rơi lại vào sinh tử luân hồi.
Vì trí tuệ không có bất kỳ hình tướng cụ thể nào, khi con biết cách làm trong sạch năm độc một cách tự nhiên, thì không cách nào con có thể đọa địa ngục.
Ở đây không có ai sở hữu được những phương pháp này, nên tất cả sẽ phải lang thang trong luân hồi một thời gian dài.
KHÔNG CHỨNG ĐẮC
Đạo Sư Padma nói: Cách thực hành Pháp của người ta sẽ không đem lại chứng đắc.
Bà hỏi: Thưa, điều đó có nghĩa gì?
Vị Thầy nói: Khi ban giáo lý, họ lạc vào sự huênh hoang và chê bai.
Khi học hỏi, họ lạc vào hy vọng và sợ hãi.
Khi chủ tọa một bữa tiệc cúng dường, họ lạc vào tham chấp thực phẩm và đồ uống.
Khi thiền định, họ lạc vào hôn trầm và trạo cử.
Khi tạo công đức, họ lạc vào việc tìm sự kính trọng và lợi lộc.
Khi đạt được sự khéo léo của hiểu biết, họ lạc vào tham muốn lớn hơn.
Khi liên kết với nhiều đệ tử, họ lạc vào căng thẳng trong thực hành Pháp.
Có quá nhiều hành giả đi ngược lại với Pháp trong bất kỳ những gì họ làm.
SỰ TỰ KIÊU
Đạo Sư Padma nói: Những người gọi là hành giả ấy có tham vọng lớn trong sự kiêu mạn và tự cao của họ.
Bà hỏi: Thưa, điều đó có nghĩa gì?
Vị Thầy nói: Một số người tự cao xem họ có hiểu biết trong học và dạy.
Một số người tự cao xem họ là người thành kính và đang thực hành Pháp.
Một số người tự cao xem họ là thiền giả sống cô độc trong núi non.
Một số người tự cao xem họ là có thần lực và những khả năng vĩ đại.
Một số người khao khát giống như một thú ăn thịt ngửi thấy mùi máu khi họ thấy của cải hay đối tượng hấp dẫn.cắt
CẮT ĐỨT SỰ PHỨC TẠP CỦA THIỆN VÀ ÁC
Đạo Sư Padma nói: Khi thực hành Pháp, cần cắt đứt sự phức tạp của những hành vi thiện và ác.
Bà hỏi: Thưa, điều đó có nghĩa gì?
Vị Thầy nói: Khi những ý niệm chấp ngã bị cạn kiệt, bấy giờ không có Pháp, không hành động xấu, không nghiệp, và không quả báo. Thế nên con đã cắt đứt được sự phức tạp của hành động thiện ác.
Vì vậy, chừng nào mà con chưa dứt niệm tưởng chấp ngã thì những hành động bất thiện vẫn sẽ tích lũy nghiệp và sinh quả cũng như những hành động thiện vẫn tích lũy nghiệp và tạo ra quả.
Khi những ý niệm bị cạn kiệt, sẽ không có sự tích lũy của thiện hay ác và sẽ chẳng có kết quả nào xảy ra. Điều này được gọi là “Sự cạn kiệt của những nguyên nhân và điều kiện (nhân và duyên)”. Nó cũng được gọi là “chân lý tuyệt đối.”
Trong tương lai, khoảng 500 năm của thời đại suy thoái, một số người sẽ buông mình vào những cảm xúc tiêu cực thô bạo, vì không nhận ra sự chấp ngã và thất bại trong việc làm giảm tư tưởng ý niệm.
Tự nhận rằng mình đang nắm giữ kiến giải tuyệt đối, họ sẽ tuyên bố rằng quan tâm đến những hậu quả của những hành động thiện hay ác là một kiến giải thấp.
Coi thường luật nhân quả, họ sẽ tuyên bố rằng tâm họ đã giác ngộ.
Sẽ có một số người hành động một cách phù phiếm và không kiểm soát.
Hạnh của họ bị hư hỏng sẽ dẫn dắt chính họ và người khác đi lạc hướng.
Chớ theo gương của họ dù chỉ trong một khoảnh khắc.
Ta, Tsogyal, một phụ nữ ngu dốt, phụng sự vị Thầy hóa thân trong một thời gian dài. Vào những dịp khác nhau, Ngài đã ban khai thị về thực hành Pháp mà Ta luôn luôn khắc ghi trong trí nhớ hoàn hảo của Ta, thu thập và viết lại vì lợi ích của những thế hệ tương lai.
Vì bây giờ chưa phải là thời điểm thích hợp để truyền bá, Ta đã cất giấu những giáo huấn này như một kho tàng quý báu. Cầu mong những người xứng đáng và đã được định trước gặp được chúng.
“Chuỗi giáo huấn vấn đáp” được ghi lại trong Hang Thượng tại Chimphu vào ngày hai mươi lăm tháng thứ hai của mùa thu trong Năm con Heo Cái.
Dấu ấn kho tàng.
Dấu ấn cất giấu.
Dấu ấn giao phó.

Thursday, October 27, 2016

Thiện ác báo ứng: Cự tuyệt dâm và hành dâm sẽ có kết cục như thế nào?

Người xưa có câu: “Bách thiện hiếu vi tiên, vạn ác dâm vi thủ.” (Tạm dịch: Trong trăm cái thiện thì hiếu đứng đầu, trong vạn cái ác thì dâm (quan hệ nam nữ bất chính) đứng đầu), để nói rõ rằng phạm tội dâm sẽ bị báo ứng nặng nhất.
Vào triều đại nhà Minh, tại Ninh Ba có một vị thư sinh tên là Tôn Đạo. Vì nhà nghèo khó nên anh ta phải chăm chỉ dạy học thuê để kiếm sống. Về sau, ngay cả chức nghiệp này anh ta cũng không giữ được thế là đành phải nương nhờ vào việc ghi chép cho gia đình họ Trương ở Đường Tây sinh sống.
Một hôm đêm đã rất khuya, nhà họ Trương có một tỳ nữ lén lút chạy đến phòng của Tôn Đạo. Tôn Đạo biết rõ ý đồ của tỳ nữ này nên đã dùng lời lẽ nghiêm nghị mà cự tuyệt. Nhưng tình cảnh này lại bị một vị thầy giáo dạy học cho trường học tư của nhà họ Trương nhìn thấy. Ông ta liền lén lút gọi mời tỳ nữ này đến gặp gỡ.
Đến tiết Đoan Ngọ, ông thầy giáo đó phát bệnh toàn thân đau nhức, không có cách nào chữa trị. Lúc này, chủ nhà đành phải mời Tôn Đạo lên làm thầy giáo đứng lớp chính.
Một hôm, Tôn Đạo gặp người chú của anh ta tại Giang Khẩu. Người chú kinh ngạc hỏi: “Bởi vì con trai của ta bị bệnh nên ta đến miếu thờ Thành hoàng cầu nguyện. Đến lúc trời tối, ta ngủ luôn ở đó, không ngờ mơ thấy Thần thành hoàng ngồi trên điện. Sau đó, vị Thần thành hoàng kêu thuộc hạ dâng cuốn sổ ghi chép những người có mệnh bị chết đói lên để sửa đổi. Từng tên từng tên được đọc lên, khoảng chừng mười mấy người thì ta nghe thấy có tên của ngươi. Ta vụng trộm hỏi vị minh quan: “Vì sao mà Tôn Đạo lại được cải sửa?” Vị minh quan nói: “Trong bổn mệnh của người này, vào năm 46 tuổi sẽ bị chết đói nơi đất khách quê người. Nhưng bởi vì vào đêm ngày 18 tháng Tư năm nay anh ta đã nghiêm khắc cự tuyệt dâm với một tỳ nữ, cho nên sẽ kéo dài tuổi thọ của anh ta thêm hai kỷ (1 kỷ là 12 năm). Đồng thời cải sửa tự mệnh phải chịu đói khát thành được hưởng bổng lộc.” Nói đến đây, người chú này liên tục nói lời chúc mừng Tôn Đạo.
Về sau, học sinh theo học Tôn Đạo càng ngày càng đông, mỗi năm tiền học phí mà Tôn Đạo thu được lên đến hơn 100 lượng vàng. Đến năm 36 Vạn Lịch, Tôn Đạo 46 tuổi, quả nhiên năm đó mất mùa, giá gạo vô cùng đắt đỏ, những người nghèo hầu như không có tiền mua, người chết đói vô cùng nhiều. Nhưng Tôn Đạo không những tránh được kiếp nạn này mà còn vô cùng giàu có. Lúc về già, gia đình Tôn Đạo vẫn thuộc hàng giàu có. Đến năm Tôn Đạo 70 tuổi, không bệnh mà chết (ứng nghiệm với viêc được kéo dài 24 năm).
Bùi Chương là người ở Hà Đông, Sơn Tây. Cha của Bùi Chương là bạn thân thiết của Thần tăng Đàm Chiếu pháp sư. Pháp sư Đàm Chiếu là người tinh thông tướng thuật. Ông xem tướng Bùi Chương, thiên đình đầy đặn, địa các tròn trịa, công danh sự nghiệp trong tương lai nhất định có thành tựu lớn.
Năm Bùi Chương 20 tuổi, anh ta lấy vợ tên là Lý Thị. Năm sau, Bùi Chương đến Thái Nguyên làm quan còn người vợ ở nhà. Mấy năm sau, Bùi Chương gặp lại pháp sư Đàm Chiếu, ông hết sức kinh ngạc nói: “Mấy năm trước, ta nhìn cậu có tướng hiển quý sao bây giờ lại đổi khác như vậy? Thiên đình đầy đặn của cậu trước đây sao bây giờ lại hõm vào như vậy? Địa các vốn tròn trịa sao bây giờ lại nhọn như vậy? Hơn nữa, lòng bàn tay còn có vùng khí đen, e rằng sẽ gặp họa, cậu nên đề phòng. Tướng của cậu trở nên như vậy, không biết là cậu đã làm việc thiếu đạo đức gì?
Bùi Chương nghe xong liền ngẫm nghĩ lại những việc làm của mình mấy năm qua. Nghĩ đi nghĩ lại, Bùi Chương chỉ thấy duy nhất một việc trái với luân thường đạo lý là đã “ăn ở” với một người phụ nữ ở Thái Nguyên, còn lại không làm việc gì thất đức cả.
Pháp sư Đàm Chiếu thở dài một hơi rồi nói: “Cậu vốn có tiền đồ sáng lạn, vậy mà lại không biết trân quý mà cùng người phụ nữ khác hành dâm. Cậu đúng là đã tự hủy hoại phúc đức của mình, thật là quá đáng tiếc!
Không lâu sau, đúng như lời pháp sư nói, tai họa ập xuống Bùi Chương. Lúc anh ta đang tắm rửa thì bị thuộc hạ lẻn vào hành thích, con dao đâm trúng vào bụng khiến cho nội tạng bị lòi ra mà chết. Nhất sinh nhất tử, thiện ác báo ứng thật sự không sai.
Người xưa nói: “Bách thiện hiếu vi tiên, vạn ác dâm vi thủ.” (Tạm dịch: Trong trăm cái thiện thì hiếu đứng đầu, trong vạn cái ác thì dâm (quan hệ nam nữ bất chính) đứng đầu) để nói rõ rằng phạm tội dâm sẽ bị báo ứng nặng nhất. Người tu hành thời xưa một khi phạm vào tội tà dâm thì vĩnh viễn mất đi cơ duyên tu luyện, thật đáng sợ! Những bài học này vẫn còn nguyên giá trị đạo đức cho người thời nay chiếu theo học tập.
Theo NTDTV
Mai Trà biên dịch

Monday, October 24, 2016

500 ĐẠI NGUYỆN PHI THƯỜNG CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA ( P2) Tôi chưa từng được nghe điều gì vĩ đại hơn thế. Đó chính là 500 lời nguyện vô cùng từ bi và phi thường của Phật Thích Ca Mâu Ni vào thủa tiền kiếp xa xưa khi ngài mới phát tâm cầu Đạo. KINH ĐẠI THỪA ĐẠI BI PHÂN-ĐÀ-LỢI ( tiếp theo) ...Khi còn là đồng tử dạo chơi và các hành động khác chỉ là nhằm thị hiện để giáo hóa chúng sinh. Như ở nơi cung điện cùng đám thể nữ thọ hưởng năm dục lòng sinh nhàm chán, nửa đêm vượt thành ra đi, vứt bỏ ngọc anh lạc cùng các thứ đồ trang sức nơi thân. Vì để hàng phục các đám dị học như Ni-kiền-đà-già-la-ca..., nên con mặc Pháp phục đến bên gốc cây Bồ-đề. Những chúng sinh thấy con đến nơi ấy thì con sẽ tập hợp tất cả phước đức để thành tựu diệu lực Tam-muội, vì những chúng sinh này thuyết giảng đạo pháp, khiến tất cả họ đều dốc cầu đạo quả Tam thừa. Trong số này nếu có người đã gieo sẵn giống Thanh văn thì khiến cho tất cả chúng sinh đó đạt quả thuần thục, ở đời cuối cùng theo con sẽ được hóa độ. Những ai cầu quả vị Bích-chi-phật thừa thì khiến cho tất cả đều được pháp nhẫn Hiển minh hoa. Hoặc có chúng sinh vun trồng hạt giống Đại thừa thì khiến đều đạt được pháp tam-muội Kim cang trì hải bất động, nhờ pháp Tam-muội này nên họ chứng đác bậc Tam địa. Con sẽ tự tay dùng cỏ bày cạnh gốc cây Bồ-đề làm tòa ngồi Kim cang, ngồi kiết già, thân ngay, ý chính sẽ vào cõi thiền bất động khiến cho hơi thở ra vào an trụ trong vắng lặng. Ngày ngày con chỉ một lần con xuất định, ăn nửa hạt mè, còn nửa hạt đem bố thí cho người. Trong thời gian ấy, con sẽ tu hạnh khổ như vậy, khiến cho khắp thế giới Ta-bà lên đến cõi trời A-ca-ni-trá, ai nghe tên con đều tìm đến cúng dường, tất cả đều chứng kiến việc tu tập khổ hạnh của con. Trong số chư Thiên này, nếu người cầu Thanh văn thừa, thưa Đức Thế Tôn, con nguyện giúp họ tiêu trừ được hết các thứ phiền não trói buộc, nơi thân sau cùng ấy theo con được độ thoát. Có người cầu Bích-chi-phật thừa cũng như trước đã nói, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn- na-la, Ma-hầu-la-dà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-da, Cưu-bàn-trà, Tiên nhân đạt ngũ thông... đến cúng dường con thì tất cả các chúng ấy đều chứng minh cho việc tu tập khổ hạnh của con. Nếu những ai cầu đạo quả Thanh văn thừa... cũng như trước đã nói. Đối với pháp tu khổ hạnh của đám dị học ở bốn châu thiên hạ này thì khiến cho chư Thiên và hàng phi nhân đến nói rõ cho họ: “Việc tu tập khổ hạnh của các ông không đạt được qua báo lớn, lại không phải là điều chưa từng có! Nơi đó địa phận của ta có vị Bồ-tát nhất sinh bổ xứ đang tu khổ hạnh, lại nhập thiền định tâm xả bỏ mọi thứ ràng buộc, thân xa lìa mọi hành động, hơi thở ra vào đều vắng lặng, mỗi ngày xuất định một lần, ăn nửa hạt mè. Tu khổ hạnh như vậy thì đạt quả báo rất lớn, đạt được lợi ích lớn, giáo hóa rộng khắp, chẳng bao lâu sẽ thành đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Các ông không tin lời ta thì hãy đến đó mà xem!”. Bạch Đức Thế Tôn, con nguyện cho tất cả những người ấy bỏ các tu tập của mình, đi đến tận nơi xem con tu khổ hạnh, nếu có kẻ đã gieo hạt giống Thanh văn... (như trước đã nói.) Nếu có các hàng quốc vương, quần thần, trăm quan, dân chúng, tại gia, xuất gia thì khiến cho tất cả đều đi đến chỗ con chiêm ngưỡng cúng dường, nếu có ai cầu quả vị Thanh văn thừa (như trước đã nói.) Như có người nữ thấy sự khổ hạnh của con đi đến cúng dường thì khiến đời sau họ không còn thọ thân nữ nữa, trong số này có người cầu Thanh văn thừa (như trước đã nói.) Nếu có các loài cầm thú thấy con tu khổ hạnh thì khiến cho chúng với thân ấy là thân sau cùng, sau khi qua đời không còn trở lại thọ thân súc sinh nữa. Như có loài nào đã phát tâm cầu đạo quả Thanh văn thừa thì chỉ còn một đời theo con để được hóa độ. Hoặc có cầu quả Bích-chi-phật thừa... (như trước đã nói). Các loài súc sinh, ngạ quỷ cũng đều như vậy. Bấy giờ, con ngồi kiết già tu khổ hạnh như thế, khiến cho hàng ức na-do-tha trăm ngàn chúng sinh chứng kiến sự khổ hạnh của con như là được gặp một sự kiện chưa từng có. Những chúng sinh này đã ở trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp gieo hạt giống giải thoát. Con tu khổ hạnh như vậy là nơi quá khứ không có chúng sinh, hay hàng thuật số dị học, hàng Thanh văn thừa, Bích-chi-phật thừa, Đại thừa vô thượng, nào có thể tu tập được. Sau con, cũng không có chúng sinh, thuật số, dị học, cho đến Đại thừa nào có thể thực hành được như thế. Khi chưa thành đạo quả Chánh giác, con đã làm những việc của bậc Trượng phu hàng phục ma vương và quyến thuộc của chúng, phá trừ mọi phiền não. Con thành đạo quả Bồ-đề tối thượng rồi, sẽ khiến cho chúng sinh ở đó nghe pháp lần thứ nhất đắc quả A-la-hán, nghe pháp lần thứ hai cũng được quả A-la-hán. Như vậy con thuyết pháp lần thứ ba, thứ tư cũng khiến họ đắc quả A-la-hán. Con sẽ vì từng chúng sinh một thị hiện trăm ngàn pháp thần thông khiến họ an trụ nơi chánh kiến, thuyết giảng trăm ngàn vô lượng nghĩa pháp môn đầy đủ, tùy sự lãnh hội của mỗi người mà được đạo quả. Phiền não của chúng sinh như núi cao, con nhất định sẽ dùng chày trí tuệ Kim cang để đập tan, thuyết giảng giáo pháp Ba thừa, vì mỗi một chúng sinh nên lặn lội hàng trăm do-tuần thuyết giảng đạo pháp đem họ về nẻo Vô úy. Hoặc có người muốn xuất gia trong pháp của con thì nguyện của họ không bị những trở ngại như yếu kém, thất niệm, phóng túng, cuồng si, ngang ngạnh, kiêu mạn, ngu tối, trói buộc do phiền não, tâm tán loạn. Nếu có người nữ muốn xuất gia trong pháp của con để học đạo, thọ đại giới thì thành tựu nguyện lớn. Nguyện cho bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di của con luôn được cúng dường. Nguyện cho chư Thiên và các quỷ thần thấy được bốn Thánh đế. Các chúng Dạ-xoa, Rồng, A-tu-la và các súc sinh thọ tám trai giới và tu tập phạm hạnh. Thưa Đức Thế Tôn, con thành tựu đạo quả Bồ-đề rồi, nếu có chúng sinh khởi tâm sân hận đối với con, hoặc dùng đao, gậy, lửa, đá đến chỗ của con, nhằm tàn hại hoặc nhục mạ con bằng lời lẽ thô tục, lại còn bài báng nói xấu con khắp mười phương, bỏ độc dược vào đồ ăn uống, đưa cho con thì con sẽ nhận chịu hết các nghiệp quả còn sót lại, như thế để thành tựu đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Con thành Bậc Chánh Giác rồi, nếu chúng sinh đối với con trước đây có oán thù, hiềm khích gì, nay mang theo đồ chém giết, các thứ binh khí, dùng những lời lẽ nhục mạ, dùng các thức ăn độc hại đến chỗ con, khiến cho thân con chảy máu, thì con đem tâm đại bi với tiếng nói êm dịu của Phạm thiên, giống như tiếng chuông, tiếng trống, tiếng sấm động để vì chúng sinh đó thuyết giảng giáo pháp về Tam-muội giới văn đem lại cho họ tâm thanh tịnh, khiến họ được an trụ trong nghiệp lành, cải hối nghiệp ác, được đầy đủ tịnh giới. Nguyện cho chúng sinh đó không đánh mất đạo quả giải thoát, xa lìa tham dục dứt sạch lậu, tận trừ chướng ngại của nghiệp báo còn sót lại nơi đời trước. Thưa Đức Thế Tôn, con thành đạo quả Bồ-đề rồi, hàng ngày, theo số lỗ chân lông trên thân thể con sẽ hiện ra từng ấy vị Hóa Phật có đủ ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân và tám mươi vẻ đẹp. Con sẽ sai các vị Hóa Phật kia đến cõi không có Phật, đến cõi Phật thanh tịnh, đến cõi Phật có đủ năm thứ ô trược nữa. Chúng sinh ở trong các thế giới đó tạo nghiệp Vô gián, bài báng Chánh pháp, hủy hoại Thánh hiền cho đến tích tập các căn chẳng lành. Trong số chúng sinh này, có kẻ cầu Thanh văn thừa, có kẻ cầu Duyên giác thừa, có kẻ cầu Đại thừa, cho dù là giới luật thiếu sót, oai nghi không đủ, phạm các tội căn bản, tâm ý luôn bị thiêu đốt, sai trái với đạo lành, rơi vào vòng luân chuyển vô tận, bị tà đạo làm khốn khổ, chìm đắm trong biển sinh tử mênh mông, con cũng khiến cho từng vị Hóa Phật, hàng ngày vì hàng ức na-do-tha trăm ngàn chúng sinh như thế mà tùy duyên thuyết giảng đạo pháp. Nếu có chúng sinh phụng thờ trời Ma-hê-thủ-la thì cũng tùy theo đấy hiện hình tướng trời Ma- hê-thủ-la để thuyết pháp, cho họ, tán dương cõi Phật nơi thế giới Ta-bà, khuyến hóa các chúng sinh đó thệ nguyện hồi hướng, nếu họ được nghe danh hiệu con thì khiến họ nguyện sinh về thế giới của con. Thưa Đức Thế Tôn, như các chúng sinh ấy, lúc sắp mạng chung, nếu con không hiện ra trước mặt họ để thuyết pháp khiến họ phát sinh tâm thiện thì vào đời vị lai con không chứng đắc đạo quả Giác ngộ Vô thượng. Nếu các chúng sinh này sau khi qua đời bị đọa vào ba nẻo ác, không sinh vào thế giới của con để được thọ thân người thì vô lượng pháp mà con đã tu tập lãnh hội sẽ diệt mất hết, mọi Phật sự đều không thành tựu. Với các chúng sinh phụng thờ thần Na-la-diên cũng vậy. Khi con thành tựu đạo quả Bồ-đề rồi, nơi tất cả cõi Phật có những chúng sinh tạo nghiệp Vô gián... bị tà đạo làm khốn khổ, chìm đắm trong vòng sinh tử mênh mông, thì nguyện cho họ sau khi lâm chung được sinh về thế giới của con, tùy theo nghiệp cũ mà thọ thân tướng thô kệch, mạo diện xấu xí như Tỳ-xá-già, lại thất niệm, nhiều lỗi lầm, phá giới, uế tạp, lắm bệnh, đoản mạng, các thứ xấu ác này làm tổn giảm thọ mạng. Vì những chúng sinh này nên con ở nơi bốn châu thiên hạ trong thế giới Ta-bà, vào một lúc nọ từ cõi trời Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ thị hiện sinh ra, lớn lên, làm đồng tử dạo chơi, học tập các thứ ngành nghề kỹ xảo, xuất gia tu khổ hạnh, hàng phục Ma vương, thành đạo Bồ-đề Vô thượng, chuyển pháp luân, thực hiện đầy đủ mọi Phật sự ở bốn châu thiên hạ rồi mới nhập Niết-bàn để lại xá-lợi. Thưa Đức Thế Tôn, con thành đạo Bồ-đề rồi, sẽ dùng một loại âm thanh để thuyết giảng chánh pháp. Các chúng sinh nào cầu Thanh văn thừa nghe Phật thuyết pháp liền hiểu được Pháp tạng của Thanh văn. Có chúng sinh cầu Duyên giác thừa thì khiến họ lãnh hội được pháp Nhân duyên. Nếu các chúng sinh cầu Đại thừa vô thượng thì nghe Phật nói pháp liền hiểu rõ về pháp Đại thừa thuần nhất không xen tạp. Chúng sinh nào chưa đủ công đức, muốn cầu đạo quả Bồ-đề, thì khiến họ hiểu rõ về pháp môn Bố thí. Nếu có chúng sinh thiếu phước đức, Cầu sinh lên cõi trời thọ hưởng diệu lạc, nghe Phật thuyết pháp lần lượt hiểu rõ về Giới. Chúng sinh nào tâm giận dữ, sợ hãi lẫn nhau nghe Phật nói phấp thì lãnh hội đầy đủ về pháp môn Từ. Nếu có những chúng sinh ưa tạo nghiệp giết hại, thì sẽ khiến họ hiểu rõ được phép môn Bi. Kẻ có tâm tham lam keo kiệt, ganh ghét thì khiến họ lãnh hội được pháp môn Hỷ. Những chúng sinh nào cậy sắc, ỷ mạnh lòng dục uế tạp thì khiến họ hiểu rõ được pháp Xả. Kẻ có tâm tham đắm ái dục nghe Phật nói pháp liền lý giải được pháp Quán bất tịnh. Chúng sinh nào cầu học Đại thừa mà kiêu mạn, loạn tâm, nghe Phật giảng pháp thì đạt được pháp Thân niệm xứ. Kẻ thiếu trí tuệ cầu được sáng suốt thì nghe Phật nói pháp liền lý giải được pháp Nhân duyên. Kẻ học hỏi thiếu kém nghe Phật giảng pháp thì khiến họ đạt được pháp chẳng quên mất các pháp tổng trì. Các chúng sinh bị rơi vào rừng rậm tà kiến nghe Phật nói pháp thì lãnh hội được pháp Không. Nếu các chúng sinh bị nhiều suy tưởng che lấp tâm ý, nghe Phật nói pháp liền đạt được pháp môn Vô tướng. Kẻ có những nguyện không thanh tịnh che lấp tâm ý, nghe Phật nói pháp liền đạt được pháp Vô nguyện. Kẻ thân ý không trong sạch thì khiến họ lãnh hội được pháp thân ý nhu hòa. Kẻ bị những hành động tán loạn che lấp tâm ý thì khiến họ hiểu rõ được pháp, chẳng quên mất tâm Bồ-đề. Kẻ chứa sân si, tham dục, che lấp tâm tư, nghe Phật nói pháp lãnh hội được pháp dứt mọi oán kết. Kẻ khốn khổ vì bị hủy diệt tâm ý thì khiến họ hiểu rõ về pháp vốn không. Kẻ tâm bị não hại thì khiến họ lãnh hội thì được pháp không ganh ghét. Kẻ quên nghiệp lành thì đạt được pháp chiếu soi sáng suốt. Kẻ tạo tác theo nghiệp ma thì lãnh hội được pháp thanh tịnh. Kẻ chìm đắm trong lý luận sai khác thì khiến họ hiểu rõ được con đường giải thoát. Kẻ bị các kết sử trói buộc tâm ý thì rõ được pháp dứt bỏ xa lìa. Kẻ bị lôi cuốn trong thiên kiến tà đạo thì khiến họ hiểu rõ được pháp trở lại đường chínhề Kẻ có tâm cầu pháp Đại thừa thì rõ được pháp chẳng thoái chuyển. Kẻ chán sinh tử thì rõ được pháp ưa hạnh Bồ-tát. Kẻ chưa rõ được cảnh giới thiện, nghe Phật nói pháp liền hiểu được pháp của cảnh giới thiện. Kẻ không ưa nghĩ đến căn lành thì khiến hiểu hoan hỷ. Các chúng sinh tâm chống đối nhau nghe Phật nói pháp thì lần lượt sáng tỏ, vô ngại. Kẻ thường hành theo nghiệp ác thì lãnh hội được pháp tế độ. Kẻ sợ hãi đại chúng thì khiến đạt được pháp tam-muội Sư tử tướng. Kẻ bị bốn thứ ma che lấp tâm ý thì lãnh hội được pháp tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Kẻ không thấy ánh sáng nơi quốc độ Phật thì khiến đạt được vô số tam-muội Quang minh trang nghiêm. Kẻ có tâm yêu ghét thì lãnh hội được pháp Giải thoát và tâm xả. Kẻ không biết Phật pháp sáng tỏ thì khiến đạt được pháp tam-muội Nhất tràng. Người nào xa lìa trí tuệ lớn thì nghe Phật nói pháp thì đạt được tam-muội Pháp cự. Kẻ bị khốn cùng trong ngu si mờ tối thì khiến đạt được pháp tam-muội Nhật đăng quang minh. Kẻ không có khả năng giảng giải giáo pháp, nghe Phật nói pháp liền được vô số công đức ứng đối. Có các chúng sinh xem xét các sắc hòa hợp không bền chắc, như bọt nước, nghe Phật nói pháp liền được tam-muội Na-la-diên. Kẻ tâm ý khuynh động thì khiến đạt được tam-muội Kiên lao quyết định. Kẻ bỏ thệ nguyện trước thì khiến đạt được tam-muội Kiên cố. Kẻ thoái chuyển các thần thông thì khiến đạt được tam-muội Kim cang. Các chúng sinh nào đối với Bồ-đề tràng sinh nghi hoặc, nghe Phật nói pháp liền hiểu rõ về Kim cang đạo tràng. Các chúng sinh nào tâm nhàm chán các pháp không, nghe Phật nói pháp liền được tam-muội Kim cang. Kẻ muốn biết tâm của loài khác thì khiến biết được nẻo hành xử. Kẻ muốn biết căn nghiệp của người khác thì khiến thông tỏ được. Kẻ nói chẳng hiểu nhau thì khiến đạt được nẻo ngôn từ thông tỏ. Kẻ chưa đạt được pháp thân, nghe Phật nói pháp liền hiểu rõ, phân biệt các thân. Kẻ mong gặp Như Lai thì khiến đạt được tam-muội Bất tuần. Kẻ phân biệt về các nhân duyên thì khiến đạt được tam-muội Vô tranh. Kẻ có tâm nghi ngờ về Chuyển pháp luân thì khiến đối với việc Chuyển pháp luân tâm đạt thanh tịnh. Kẻ phát sinh tà hạnh không tin nhân quả thì khiến thì khiến lãnh hội rõ các pháp và thuận theo nhân duyên. Kẻ dấy khởi thường kiến về một cõi Phật nghe Phật nói pháp liền phân biệt rõ về vô lượng cõi Phật. Kẻ chưa gieo nhân tướng tốt thì khiến đạt được vô số tam-muội Trang nghiêm. Kẻ không phân biệt được âm thanh thì nghe Phật nói pháp liền được hiểu rõ, phân biệt các loại ngôn ngữ, âm thanh. Kẻ cầu được Nhất thiết chủng trí nghe Phật nói pháp liền được tam-muội Vô sở phân biệt pháp giới. Người đối với đạo pháp bị thoái chuyển thì khiến đạt được tam-muội Kiên cố. Kẻ không thông đạt pháp tánh thì khiến lãnh hội thấu đạt. Người xả bỏ thệ nguyện thì khiến có được tam-muội Bất thoái. Có chúng sinh nào hay phân biệt lẫn lộn các đạo pháp, nghe Phật nói pháp thì hiểu rõ các đạo pháp không còn lẫn lộn. Kẻ cầu được trí như hư không thì khiến lãnh hội được tam-muội Vô sở hữu. Kẻ chưa đầy đủ các pháp Ba-la-mật thì khiến an trụ nơi Ba-la-mật thanh tịnh. Các chúng sinh chưa có đầy đủ bốn nhiếp pháp, nghe Phật nói pháp liền đạt được tam-muội Diệu thiện nhiếp thủ. Kẻ chưa trụ nơi phạm hạnh thì khiến được an trụ nơi pháp bình đẳng. Kẻ chưa đầy đủ ba mươi bảy pháp trợ Bồ-đề nghe Phật nói pháp liền được trụ nơi tam-muội Xuất thế. Kẻ nào có tâm nghi ngờ về vô sinh pháp nhẫn thì khiến đạt được tam-muội Quyết định. Kẻ nào quên mất pháp đã nghe thì khiến đạt được tam-muội Chẳng mất niệm. Có các chúng sinh không thích đối với những người thuyết pháp, nghe Phật nói pháp liền được Tuệ nhãn thanh tịnh không còn hồ nghi. Kẻ chưa cung kính, tin tưởng Tam bảo thì khiến có được tam-muội Công đức tăng trưởng. Các chúng sinh đói khát mưa pháp thì khiến được tam-muội Pháp vũ. Có các chúng sinh dấy khởi đoạn kiến đôi với Tam bảo, nghe Phật nói pháp liền được tam-muội Các báu trang nghiêm. Kẻ không tạo nghiệp trí tuệ thì khiến lãnh hội lý vô sinh. Kẻ bị các thứ phiền não ràng buộc thì khiến lý giải không môn. Kẻ có tâm xem nhẹ tất cả các pháp thì khiến đạt được tam-muội Trí ấn. Kẻ chưa biết đầy đủ công đức của Như Lai thì khiến có được tam-muội Thế gian giải thoát. Kẻ đối trước chỗ Phật chưa tích chứa công đức thì khiến đạt được vô số thần túc biến hóa. Kẻ chưa nghĩ đến việc thuyết giảng các pháp môn một cách rốt ráo thì nghe Phật nói pháp liền thông suốt tất cả các pháp đồng một pháp giới. Kẻ chưa hiểu rõ về tất cả kinh điển thì khiến đạt được tam-muội Thật tướng các pháp bình đẳng. Kẻ xa lìa pháp lục hòa kính thì khiến lãnh hội tất cả pháp tướng. Có các chúng sinh không tinh tấn đối với pháp môn giải thoát chẳng thể nghĩ bàn, nghe Phật nói pháp liền được thần túc tự tại. Kẻ không siêng năng tu hạnh Bồ-tát thì liền khiến đạt được trí tuệ tinh tấn. Có các chúng sinh muốn phân biệt nhập vào Như Lai tạng, nghe Phật nói pháp, hoàn toàn không nghe theo kẻ khác, liền phân biệt nhập vào Như Lai tạng. Các chúng sinh nào chưa từng được thấy kinh Bản sinh, nghe Phật nói pháp liền đạt được pháp tam-muội Hiện khắp mọi chốn. Kẻ chưa thấy đầy đủ mười lực của Như Lai thì khiến đạt được tam-muội Vô hoại. Kẻ nào chưa có được bốn vô sở úy thì khiến đạt được tam-muội Vô tận ý. Kẻ chưa thấy đầy đủ pháp bất cộng của Phật thì khiến có được tam-muội Bất cộng pháp. Có các chúng sinh chưa được đầy đủ tri kiến không ngu si, nghe Phật nói pháp liền đạt được tam-muội Nguyệt cú. Các chúng sinh nào chưa biết tất cả các pháp môn Phật pháp, nghe Phật nói pháp liền đạt được tam-muội Ấn thanh tịnh dứt mọi cấu uế. Các chúng sinh nào chưa lãnh hội được Nhất thiết trí, nghe Phật nói pháp liền đạt được tam-muội Thiện hữu. Các chúng sinh nào chưa thành tựu được tất cả Phật sự, nghe Phật nói pháp liền được tam-muội Vô lượng bất tận ý. Các chúng sinh như vậy đối với Phật pháp đều được tin hiểu. Có các Bồ-tát tâm ngay thẳng không dối trá, nghe Phật thuyết pháp liền được tám vạn bốn ngàn pháp môn, tám vạn bốn ngàn các Tam-muội, bảy vạn năm ngàn môn Đà- la-ni. Có vô lượng vô biên a-tăng-kỳ Đại Bồ-tát tu tập pháp Đại thừa, nghe giảng nói pháp này cũng được vô lượng công đức như vậy an trụ nơi bậc Bất thoái chuyển. Cho nên các Đại Bồ-tát muốn đạt được vô số trang nghiêm bền chắc phải phát nguyện chẳng thể nghĩ bàn, tăng thêm tri kiến chẳng thể nghĩ bàn để tự trang nghiêm. Đó là dùng tướng tốt để trang nghiêm nơi thân, dùng lời nói lành như ý để trang nghiêm nơi miệng, khiến cho mọi người hoan hỷ. Dùng pháp Tam-muội bất thoái chuyển để trang nghiêm nơi tâm. Do niệm trang nghiêm nên không mất tất cả các môn Đà-la-ni. Do tâm trang nghiêm nên phân biệt rõ các pháp. Do niệm trang nghiêm nên hiểu được các nghĩa vi tế. Do tâm thiện trang nghiêm nên đạt được thệ nguyện kiên cố, tinh tấn, theo nguyện của mình đưa đến bờ bên kia. Do chuyên tâm trang nghiêm nên vượt qua các cấp bậc. Dùng hành vi xả bỏ tất cả các vật để trang nghiêm bố thí. Dùng sự trong sạch không nhơ để trang nghiêm trì giới. Dùng tâm đối với tất cả chúng sinh không phân biệt cao thấp để trang nghiêm nhẫn nhục. Dùng tất cả sự việc đã thành tựu để trang nghiêm tinh tấn. Dùng tất cả các pháp Tam-muội thần thông tự tại để trang nghiêm thiền định. Dùng sự hiểu biết về nguyên do của các kết sử để trang nghiêm tuệ. Dùng hành động đi đến tất cả chỗ ở của chúng sinh để trang nghiêm Từ. Dùng việc trang nghiêm Từ. Dùng việc không lìa bỏ tất cả chúng sinh để trang nghiêm Bi. Dùng thái độ không nghi hoặc đối với tất cả các pháp để trang nghiêm Hỷ. Dùng việc xem sự khen chê là không hai để trang nghiêm Xả. Dùng sự thể hiện các pháp Tam-muội tự tại thông suốt để trang nghiêm thần thông. Dùng việc được kho báu vô tận để trang nghiêm phước. Dùng việc hiểu rõ tâm niệm hiện có của tất cả chúng sinh để trang nghiêm trí. Dùng việc đem phấp thiện giác ngộ cho tất cả chúng sinh để trang nghiêm giác. Dùng việc đạt được mắt trí tuệ sáng suốt để trang nghiêm minh. Dùng sự ứng đối hợp pháp nghĩa để trang nghiêm biện tài. Dùng sự hàng phục chúng ma cùng đám dị học để trang nghiêm vô úy. Dùng chỗ đạt được công đức vô thượng nơi Phật để trang nghiêm đức. Dùng a-tăng-kỳ biện luận, thuyết pháp vì chúng sinh khắp nơi để trang nghiêm pháp. Dùng việc soi chiếu về tất cả pháp Phật để trang nghiêm minh... Dùng sự soi chiếu về mọi biến hóa nơi tất cả các cõi Phật để trang nghiêm quang. Dùng việc giảng nói về biến hóa không lầm lẫn để trang nghiêm lúc thuyết pháp. Dùng sự chỉ dạy luôn thích ứng để trang nghiêm cho việc giảng dạy trao truyền. Dùng chỗ đạt được bốn thần túc đến bờ bên kia để trang nghiêm sự thần biến. Dùng chỗ hội nhập pháp bí mật của Phật để trang nghiêm Như Lai. Dùng trí không tùy thuộc kẻ khác, được tất cả kính thuận để trang nghiêm tự tại. Dùng việc theo đúng như lý mà tu hành khắp mọi nơi chốn không thoái chuyển để trang nghiêm pháp thiện. Vô lượng a-tăng-kỳ chúng sinh cầu pháp Đại thừa, con dùng một câu pháp với âm thanh trong lành diệt trừ được nhiều điều bất thiện, có đầy đủ các pháp thiện, khiến cho các Đại Bồ-tát đối với các pháp đạt được trí tuệ, không nhờ vào các nhân khác, thành tựu pháp quang minh lớn lao, chóng thành Bậc Chánh Giác Tốì Thượng. Bạch Đức Thế Tôn, lại nữa trong các thế giới khác, chúng sinh tạo nghiệp vô gián cho đến phạm các tội căn bản, tâm ý luôn bị phiền não thiêu đốt, hoặc có người cầu Thanh văn thừa, Bích-chi-phật thừa, vô thượng Đại thừa, nguyện sinh về thế giới của con, cho dù họ đã tích tập các nghiệp chẳng lành, thô bạo, ưa làm việc ác, ngang ngược điên đảo, không thu nhiếp tâm ý, thì con cũng sẽ vì các chúng sinh ấy với tám muôn bôn ngàn (84.000) căn tánh khác nhau tâm ý loạn động mà thuyết giảng sâu rộng về tám muôn bốn ngàn (84.000) pháp tụ. Trong số này, nếu có chúng sinh cầu Đại thừa vô thượng thì con sẽ vì họ thuyết giảng rộng pháp Ba-la-mật, từ Đàn ba-la-mật cho đến Bát-nhã ba-la-mật. Có chúng sinh cầu Thanh văn thừa, Bích-chi-phật thừa, chưa gieo trồng thiện căn, mà cầu thoát khỏi sinh tử thì con sẽ khiến họ an trụ nơi ba pháp quy y sau mới khiến tu học nơi sáu pháp Ba-la- mật. Các chúng sinh ưa việc sát sinh thì khiến an trụ giới không sát sinh. Các chúng sinh tham lam thì khiến an trụ nơi giới không trộm cắp. Các chúng sinh tham đắm việc phi pháp thì khiến an trụ nơi giới không tà dâm. Những chúng sinh vọng ngữ thì khiến an trụ nơi giới không nói dối. Các chúng sinh ưa nẻo tối tăm, ô trược thì khiến an trụ nơi giới không uống rượu. Đối với các chúng sinh có đủ năm thứ bệnh này, con sẽ khiến họ dứt bỏ hẳn và an trụ nơi giới cấm Ưu-bà-tắc. Chúng sinh không ưa pháp thiện, con sẽ khiến họ trong một ngày đêm an trụ nơi Tám trai giới. Những chúng sinh có ít thiện căn, con sẽ khiến họ đến gần với pháp xuất gia giữ mười giới để được an trụ nơi phạm hạnh. Hoặc có chúng sinh thích cầu pháp thiện, con sẽ khiến họ đến với pháp thiện thọ cụ túc giới, an trụ nơi phạm hạnh đến cùng. Con sẽ vì các chúng sinh tạo nghiệp vô gián cho đến loại không thu nhiếp tâm ý ấy mà dùng vô số pháp môn thị hiện thân túc, thuyết giảng văn nghĩa, mở bày chỉ dạy các ấm, giới, nhập, vô thường, khổ, không, vô ngã, khiến họ trụ ở yên ổn nơi Niết-bàn vi diệu, tịch diệt. Con sẽ vì bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, thuyết giảng giáo pháp như vậy. Nếu có người ưa luận nghị, con vì họ thị hiện các pháp nghị luận... Cho đến có người cầu giải thoát, con sẽ vì họ thị hiện không luận. Hoặc như có người không ưa pháp thiện, con sẽ vì họ thuyết giảng các pháp gần gũi chúng Tăng. Đối với người ưa pháp thiện, con sẽ vì họ thuyết giảng pháp trì tụng, tu tập thiền định, hướng đến giải thoát. Con vì mỗi một chúng sinh mà trải qua hàng trăm ngàn do-tuần, không sử dụng thần túc, dùng không biết bao nhiêu thứ câu lời nghĩa lý và phương tiện quyền biến để hóa độ, cam chịu sự khó nhọc này cho đến khi vào Niết-bàn, thậm chí do diệu lực của thệ nguyện, con sẽ phải giảm một phần trong năm phần thọ mạng của mình. Khi sắp nhập Niết-bàn con sẽ làm vụn ngọc thân xá-lợi thành như nửa hạt cải, vì thương xót chúng sinh, sau đó con đi vào Niết-bàn. Xin nguyện sau khi con nhập Niết-bàn, chánh pháp trụ thế được một ngàn năm, tượng pháp trụ thế được năm trăm năm. * Xem trọn bộ Kinh , vui lòng vào đây : http://tuvientuongvan.com.vn/…/kinh-dai-thua-dai-bi-phan-da…

500 ĐẠI NGUYỆN PHI THƯỜNG CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA ( P2)
Tôi chưa từng được nghe điều gì vĩ đại hơn thế. Đó chính là 500 lời nguyện vô cùng từ bi và phi thường của Phật Thích Ca Mâu Ni vào thủa tiền kiếp xa xưa khi ngài mới phát tâm cầu Đạo.
KINH ĐẠI THỪA ĐẠI BI PHÂN-ĐÀ-LỢI ( tiếp theo)
...Khi còn là đồng tử dạo chơi và các hành động khác chỉ là nhằm thị hiện để giáo hóa chúng sinh. Như ở nơi cung điện cùng đám thể nữ thọ hưởng năm dục lòng sinh nhàm chán, nửa đêm vượt thành ra đi, vứt bỏ ngọc anh lạc cùng các thứ đồ trang sức nơi thân. Vì để hàng phục các đám dị học như Ni-kiền-đà-già-la-ca..., nên con mặc Pháp phục đến bên gốc cây Bồ-đề. Những chúng sinh thấy con đến nơi ấy thì con sẽ tập hợp tất cả phước đức để thành tựu diệu lực Tam-muội, vì những chúng sinh này thuyết giảng đạo pháp, khiến tất cả họ đều dốc cầu đạo quả Tam thừa.
Trong số này nếu có người đã gieo sẵn giống Thanh văn thì khiến cho tất cả chúng sinh đó đạt quả thuần thục, ở đời cuối cùng theo con sẽ được hóa độ. Những ai cầu quả vị Bích-chi-phật thừa thì khiến cho tất cả đều được pháp nhẫn Hiển minh hoa. Hoặc có chúng sinh vun trồng hạt giống Đại thừa thì khiến đều đạt được pháp tam-muội Kim cang trì hải bất động, nhờ pháp Tam-muội này nên họ chứng đác bậc Tam địa. Con sẽ tự tay dùng cỏ bày cạnh gốc cây Bồ-đề làm tòa ngồi Kim cang, ngồi kiết già, thân ngay, ý chính sẽ vào cõi thiền bất động khiến cho hơi thở ra vào an trụ trong vắng lặng.
Ngày ngày con chỉ một lần con xuất định, ăn nửa hạt mè, còn nửa hạt đem bố thí cho người. Trong thời gian ấy, con sẽ tu hạnh khổ như vậy, khiến cho khắp thế giới Ta-bà lên đến cõi trời A-ca-ni-trá, ai nghe tên con đều tìm đến cúng dường, tất cả đều chứng kiến việc tu tập khổ hạnh của con. Trong số chư Thiên này, nếu người cầu Thanh văn thừa, thưa Đức Thế Tôn, con nguyện giúp họ tiêu trừ được hết các thứ phiền não trói buộc, nơi thân sau cùng ấy theo con được độ thoát. Có người cầu Bích-chi-phật thừa cũng như trước đã nói, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn- na-la, Ma-hầu-la-dà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-da, Cưu-bàn-trà, Tiên nhân đạt ngũ thông... đến cúng dường con thì tất cả các chúng ấy đều chứng minh cho việc tu tập khổ hạnh của con.
Nếu những ai cầu đạo quả Thanh văn thừa... cũng như trước đã nói. Đối với pháp tu khổ hạnh của đám dị học ở bốn châu thiên hạ này thì khiến cho chư Thiên và hàng phi nhân đến nói rõ cho họ: “Việc tu tập khổ hạnh của các ông không đạt được qua báo lớn, lại không phải là điều chưa từng có! Nơi đó địa phận của ta có vị Bồ-tát nhất sinh bổ xứ đang tu khổ hạnh, lại nhập thiền định tâm xả bỏ mọi thứ ràng buộc, thân xa lìa mọi hành động, hơi thở ra vào đều vắng lặng, mỗi ngày xuất định một lần, ăn nửa hạt mè. Tu khổ hạnh như vậy thì đạt quả báo rất lớn, đạt được lợi ích lớn, giáo hóa rộng khắp, chẳng bao lâu sẽ thành đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Các ông không tin lời ta thì hãy đến đó mà xem!”. Bạch Đức Thế Tôn, con nguyện cho tất cả những người ấy bỏ các tu tập của mình, đi đến tận nơi xem con tu khổ hạnh, nếu có kẻ đã gieo hạt giống Thanh văn... (như trước đã nói.)
Nếu có các hàng quốc vương, quần thần, trăm quan, dân chúng, tại gia, xuất gia thì khiến cho tất cả đều đi đến chỗ con chiêm ngưỡng cúng dường, nếu có ai cầu quả vị Thanh văn thừa (như trước đã nói.)
Như có người nữ thấy sự khổ hạnh của con đi đến cúng dường thì khiến đời sau họ không còn thọ thân nữ nữa, trong số này có người cầu Thanh văn thừa (như trước đã nói.)
Nếu có các loài cầm thú thấy con tu khổ hạnh thì khiến cho chúng với thân ấy là thân sau cùng, sau khi qua đời không còn trở lại thọ thân súc sinh nữa. Như có loài nào đã phát tâm cầu đạo quả Thanh văn thừa thì chỉ còn một đời theo con để được hóa độ. Hoặc có cầu quả Bích-chi-phật thừa... (như trước đã nói). Các loài súc sinh, ngạ quỷ cũng đều như vậy. Bấy giờ, con ngồi kiết già tu khổ hạnh như thế, khiến cho hàng ức na-do-tha trăm ngàn chúng sinh chứng kiến sự khổ hạnh của con như là được gặp một sự kiện chưa từng có. Những chúng sinh này đã ở trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp gieo hạt giống giải thoát.
Con tu khổ hạnh như vậy là nơi quá khứ không có chúng sinh, hay hàng thuật số dị học, hàng Thanh văn thừa, Bích-chi-phật thừa, Đại thừa vô thượng, nào có thể tu tập được. Sau con, cũng không có chúng sinh, thuật số, dị học, cho đến Đại thừa nào có thể thực hành được như thế. Khi chưa thành đạo quả Chánh giác, con đã làm những việc của bậc Trượng phu hàng phục ma vương và quyến thuộc của chúng, phá trừ mọi phiền não. Con thành đạo quả Bồ-đề tối thượng rồi, sẽ khiến cho chúng sinh ở đó nghe pháp lần thứ nhất đắc quả A-la-hán, nghe pháp lần thứ hai cũng được quả A-la-hán. Như vậy con thuyết pháp lần thứ ba, thứ tư cũng khiến họ đắc quả A-la-hán.
Con sẽ vì từng chúng sinh một thị hiện trăm ngàn pháp thần thông khiến họ an trụ nơi chánh kiến, thuyết giảng trăm ngàn vô lượng nghĩa pháp môn đầy đủ, tùy sự lãnh hội của mỗi người mà được đạo quả. Phiền não của chúng sinh như núi cao, con nhất định sẽ dùng chày trí tuệ Kim cang để đập tan, thuyết giảng giáo pháp Ba thừa, vì mỗi một chúng sinh nên lặn lội hàng trăm do-tuần thuyết giảng đạo pháp đem họ về nẻo Vô úy. Hoặc có người muốn xuất gia trong pháp của con thì nguyện của họ không bị những trở ngại như yếu kém, thất niệm, phóng túng, cuồng si, ngang ngạnh, kiêu mạn, ngu tối, trói buộc do phiền não, tâm tán loạn. Nếu có người nữ muốn xuất gia trong pháp của con để học đạo, thọ đại giới thì thành tựu nguyện lớn. Nguyện cho bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di của con luôn được cúng dường. Nguyện cho chư Thiên và các quỷ thần thấy được bốn Thánh đế. Các chúng Dạ-xoa, Rồng, A-tu-la và các súc sinh thọ tám trai giới và tu tập phạm hạnh.
Thưa Đức Thế Tôn, con thành tựu đạo quả Bồ-đề rồi, nếu có chúng sinh khởi tâm sân hận đối với con, hoặc dùng đao, gậy, lửa, đá đến chỗ của con, nhằm tàn hại hoặc nhục mạ con bằng lời lẽ thô tục, lại còn bài báng nói xấu con khắp mười phương, bỏ độc dược vào đồ ăn uống, đưa cho con thì con sẽ nhận chịu hết các nghiệp quả còn sót lại, như thế để thành tựu đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Con thành Bậc Chánh Giác rồi, nếu chúng sinh đối với con trước đây có oán thù, hiềm khích gì, nay mang theo đồ chém giết, các thứ binh khí, dùng những lời lẽ nhục mạ, dùng các thức ăn độc hại đến chỗ con, khiến cho thân con chảy máu, thì con đem tâm đại bi với tiếng nói êm dịu của Phạm thiên, giống như tiếng chuông, tiếng trống, tiếng sấm động để vì chúng sinh đó thuyết giảng giáo pháp về Tam-muội giới văn đem lại cho họ tâm thanh tịnh, khiến họ được an trụ trong nghiệp lành, cải hối nghiệp ác, được đầy đủ tịnh giới. Nguyện cho chúng sinh đó không đánh mất đạo quả giải thoát, xa lìa tham dục dứt sạch lậu, tận trừ chướng ngại của nghiệp báo còn sót lại nơi đời trước.
Thưa Đức Thế Tôn, con thành đạo quả Bồ-đề rồi, hàng ngày, theo số lỗ chân lông trên thân thể con sẽ hiện ra từng ấy vị Hóa Phật có đủ ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân và tám mươi vẻ đẹp. Con sẽ sai các vị Hóa Phật kia đến cõi không có Phật, đến cõi Phật thanh tịnh, đến cõi Phật có đủ năm thứ ô trược nữa. Chúng sinh ở trong các thế giới đó tạo nghiệp Vô gián, bài báng Chánh pháp, hủy hoại Thánh hiền cho đến tích tập các căn chẳng lành. Trong số chúng sinh này, có kẻ cầu Thanh văn thừa, có kẻ cầu Duyên giác thừa, có kẻ cầu Đại thừa, cho dù là giới luật thiếu sót, oai nghi không đủ, phạm các tội căn bản, tâm ý luôn bị thiêu đốt, sai trái với đạo lành, rơi vào vòng luân chuyển vô tận, bị tà đạo làm khốn khổ, chìm đắm trong biển sinh tử mênh mông, con cũng khiến cho từng vị Hóa Phật, hàng ngày vì hàng ức na-do-tha trăm ngàn chúng sinh như thế mà tùy duyên thuyết giảng đạo pháp. Nếu có chúng sinh phụng thờ trời Ma-hê-thủ-la thì cũng tùy theo đấy hiện hình tướng trời Ma- hê-thủ-la để thuyết pháp, cho họ, tán dương cõi Phật nơi thế giới Ta-bà, khuyến hóa các chúng sinh đó thệ nguyện hồi hướng, nếu họ được nghe danh hiệu con thì khiến họ nguyện sinh về thế giới của con.
Thưa Đức Thế Tôn, như các chúng sinh ấy, lúc sắp mạng chung, nếu con không hiện ra trước mặt họ để thuyết pháp khiến họ phát sinh tâm thiện thì vào đời vị lai con không chứng đắc đạo quả Giác ngộ Vô thượng. Nếu các chúng sinh này sau khi qua đời bị đọa vào ba nẻo ác, không sinh vào thế giới của con để được thọ thân người thì vô lượng pháp mà con đã tu tập lãnh hội sẽ diệt mất hết, mọi Phật sự đều không thành tựu. Với các chúng sinh phụng thờ thần Na-la-diên cũng vậy. Khi con thành tựu đạo quả Bồ-đề rồi, nơi tất cả cõi Phật có những chúng sinh tạo nghiệp Vô gián... bị tà đạo làm khốn khổ, chìm đắm trong vòng sinh tử mênh mông, thì nguyện cho họ sau khi lâm chung được sinh về thế giới của con, tùy theo nghiệp cũ mà thọ thân tướng thô kệch, mạo diện xấu xí như Tỳ-xá-già, lại thất niệm, nhiều lỗi lầm, phá giới, uế tạp, lắm bệnh, đoản mạng, các thứ xấu ác này làm tổn giảm thọ mạng. Vì những chúng sinh này nên con ở nơi bốn châu thiên hạ trong thế giới Ta-bà, vào một lúc nọ từ cõi trời Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ thị hiện sinh ra, lớn lên, làm đồng tử dạo chơi, học tập các thứ ngành nghề kỹ xảo, xuất gia tu khổ hạnh, hàng phục Ma vương, thành đạo Bồ-đề Vô thượng, chuyển pháp luân, thực hiện đầy đủ mọi Phật sự ở bốn châu thiên hạ rồi mới nhập Niết-bàn để lại xá-lợi.
Thưa Đức Thế Tôn, con thành đạo Bồ-đề rồi, sẽ dùng một loại âm thanh để thuyết giảng chánh pháp. Các chúng sinh nào cầu Thanh văn thừa nghe Phật thuyết pháp liền hiểu được Pháp tạng của Thanh văn. Có chúng sinh cầu Duyên giác thừa thì khiến họ lãnh hội được pháp Nhân duyên. Nếu các chúng sinh cầu Đại thừa vô thượng thì nghe Phật nói pháp liền hiểu rõ về pháp Đại thừa thuần nhất không xen tạp. Chúng sinh nào chưa đủ công đức, muốn cầu đạo quả Bồ-đề, thì khiến họ hiểu rõ về pháp môn Bố thí. Nếu có chúng sinh thiếu phước đức, Cầu sinh lên cõi trời thọ hưởng diệu lạc, nghe Phật thuyết pháp lần lượt hiểu rõ về Giới. Chúng sinh nào tâm giận dữ, sợ hãi lẫn nhau nghe Phật nói phấp thì lãnh hội đầy đủ về pháp môn Từ.
Nếu có những chúng sinh ưa tạo nghiệp giết hại, thì sẽ khiến họ hiểu rõ được phép môn Bi. Kẻ có tâm tham lam keo kiệt, ganh ghét thì khiến họ lãnh hội được pháp môn Hỷ. Những chúng sinh nào cậy sắc, ỷ mạnh lòng dục uế tạp thì khiến họ hiểu rõ được pháp Xả. Kẻ có tâm tham đắm ái dục nghe Phật nói pháp liền lý giải được pháp Quán bất tịnh. Chúng sinh nào cầu học Đại thừa mà kiêu mạn, loạn tâm, nghe Phật giảng pháp thì đạt được pháp Thân niệm xứ. Kẻ thiếu trí tuệ cầu được sáng suốt thì nghe Phật nói pháp liền lý giải được pháp Nhân duyên. Kẻ học hỏi thiếu kém nghe Phật giảng pháp thì khiến họ đạt được pháp chẳng quên mất các pháp tổng trì. Các chúng sinh bị rơi vào rừng rậm tà kiến nghe Phật nói pháp thì lãnh hội được pháp Không. Nếu các chúng sinh bị nhiều suy tưởng che lấp tâm ý, nghe Phật nói pháp liền đạt được pháp môn Vô tướng. Kẻ có những nguyện không thanh tịnh che lấp tâm ý, nghe Phật nói pháp liền đạt được pháp Vô nguyện.
Kẻ thân ý không trong sạch thì khiến họ lãnh hội được pháp thân ý nhu hòa. Kẻ bị những hành động tán loạn che lấp tâm ý thì khiến họ hiểu rõ được pháp, chẳng quên mất tâm Bồ-đề. Kẻ chứa sân si, tham dục, che lấp tâm tư, nghe Phật nói pháp lãnh hội được pháp dứt mọi oán kết. Kẻ khốn khổ vì bị hủy diệt tâm ý thì khiến họ hiểu rõ về pháp vốn không. Kẻ tâm bị não hại thì khiến họ lãnh hội thì được pháp không ganh ghét. Kẻ quên nghiệp lành thì đạt được pháp chiếu soi sáng suốt. Kẻ tạo tác theo nghiệp ma thì lãnh hội được pháp thanh tịnh. Kẻ chìm đắm trong lý luận sai khác thì khiến họ hiểu rõ được con đường giải thoát. Kẻ bị các kết sử trói buộc tâm ý thì rõ được pháp dứt bỏ xa lìa. Kẻ bị lôi cuốn trong thiên kiến tà đạo thì khiến họ hiểu rõ được pháp trở lại đường chínhề Kẻ có tâm cầu pháp Đại thừa thì rõ được pháp chẳng thoái chuyển. Kẻ chán sinh tử thì rõ được pháp ưa hạnh Bồ-tát. Kẻ chưa rõ được cảnh giới thiện, nghe Phật nói pháp liền hiểu được pháp của cảnh giới thiện. Kẻ không ưa nghĩ đến căn lành thì khiến hiểu hoan hỷ.
Các chúng sinh tâm chống đối nhau nghe Phật nói pháp thì lần lượt sáng tỏ, vô ngại. Kẻ thường hành theo nghiệp ác thì lãnh hội được pháp tế độ. Kẻ sợ hãi đại chúng thì khiến đạt được pháp tam-muội Sư tử tướng. Kẻ bị bốn thứ ma che lấp tâm ý thì lãnh hội được pháp tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Kẻ không thấy ánh sáng nơi quốc độ Phật thì khiến đạt được vô số tam-muội Quang minh trang nghiêm. Kẻ có tâm yêu ghét thì lãnh hội được pháp Giải thoát và tâm xả. Kẻ không biết Phật pháp sáng tỏ thì khiến đạt được pháp tam-muội Nhất tràng.
Người nào xa lìa trí tuệ lớn thì nghe Phật nói pháp thì đạt được tam-muội Pháp cự. Kẻ bị khốn cùng trong ngu si mờ tối thì khiến đạt được pháp tam-muội Nhật đăng quang minh. Kẻ không có khả năng giảng giải giáo pháp, nghe Phật nói pháp liền được vô số công đức ứng đối. Có các chúng sinh xem xét các sắc hòa hợp không bền chắc, như bọt nước, nghe Phật nói pháp liền được tam-muội Na-la-diên. Kẻ tâm ý khuynh động thì khiến đạt được tam-muội Kiên lao quyết định. Kẻ bỏ thệ nguyện trước thì khiến đạt được tam-muội Kiên cố. Kẻ thoái chuyển các thần thông thì khiến đạt được tam-muội Kim cang.
Các chúng sinh nào đối với Bồ-đề tràng sinh nghi hoặc, nghe Phật nói pháp liền hiểu rõ về Kim cang đạo tràng. Các chúng sinh nào tâm nhàm chán các pháp không, nghe Phật nói pháp liền được tam-muội Kim cang. Kẻ muốn biết tâm của loài khác thì khiến biết được nẻo hành xử. Kẻ muốn biết căn nghiệp của người khác thì khiến thông tỏ được. Kẻ nói chẳng hiểu nhau thì khiến đạt được nẻo ngôn từ thông tỏ. Kẻ chưa đạt được pháp thân, nghe Phật nói pháp liền hiểu rõ, phân biệt các thân. Kẻ mong gặp Như Lai thì khiến đạt được tam-muội Bất tuần.
Kẻ phân biệt về các nhân duyên thì khiến đạt được tam-muội Vô tranh. Kẻ có tâm nghi ngờ về Chuyển pháp luân thì khiến đối với việc Chuyển pháp luân tâm đạt thanh tịnh. Kẻ phát sinh tà hạnh không tin nhân quả thì khiến thì khiến lãnh hội rõ các pháp và thuận theo nhân duyên. Kẻ dấy khởi thường kiến về một cõi Phật nghe Phật nói pháp liền phân biệt rõ về vô lượng cõi Phật. Kẻ chưa gieo nhân tướng tốt thì khiến đạt được vô số tam-muội Trang nghiêm. Kẻ không phân biệt được âm thanh thì nghe Phật nói pháp liền được hiểu rõ, phân biệt các loại ngôn ngữ, âm thanh. Kẻ cầu được Nhất thiết chủng trí nghe Phật nói pháp liền được tam-muội Vô sở phân biệt pháp giới.
Người đối với đạo pháp bị thoái chuyển thì khiến đạt được tam-muội Kiên cố. Kẻ không thông đạt pháp tánh thì khiến lãnh hội thấu đạt. Người xả bỏ thệ nguyện thì khiến có được tam-muội Bất thoái. Có chúng sinh nào hay phân biệt lẫn lộn các đạo pháp, nghe Phật nói pháp thì hiểu rõ các đạo pháp không còn lẫn lộn. Kẻ cầu được trí như hư không thì khiến lãnh hội được tam-muội Vô sở hữu. Kẻ chưa đầy đủ các pháp Ba-la-mật thì khiến an trụ nơi Ba-la-mật thanh tịnh. Các chúng sinh chưa có đầy đủ bốn nhiếp pháp, nghe Phật nói pháp liền đạt được tam-muội Diệu thiện nhiếp thủ. Kẻ chưa trụ nơi phạm hạnh thì khiến được an trụ nơi pháp bình đẳng.
Kẻ chưa đầy đủ ba mươi bảy pháp trợ Bồ-đề nghe Phật nói pháp liền được trụ nơi tam-muội Xuất thế. Kẻ nào có tâm nghi ngờ về vô sinh pháp nhẫn thì khiến đạt được tam-muội Quyết định. Kẻ nào quên mất pháp đã nghe thì khiến đạt được tam-muội Chẳng mất niệm. Có các chúng sinh không thích đối với những người thuyết pháp, nghe Phật nói pháp liền được Tuệ nhãn thanh tịnh không còn hồ nghi. Kẻ chưa cung kính, tin tưởng Tam bảo thì khiến có được tam-muội Công đức tăng trưởng. Các chúng sinh đói khát mưa pháp thì khiến được tam-muội Pháp vũ.
Có các chúng sinh dấy khởi đoạn kiến đôi với Tam bảo, nghe Phật nói pháp liền được tam-muội Các báu trang nghiêm. Kẻ không tạo nghiệp trí tuệ thì khiến lãnh hội lý vô sinh. Kẻ bị các thứ phiền não ràng buộc thì khiến lý giải không môn. Kẻ có tâm xem nhẹ tất cả các pháp thì khiến đạt được tam-muội Trí ấn. Kẻ chưa biết đầy đủ công đức của Như Lai thì khiến có được tam-muội Thế gian giải thoát. Kẻ đối trước chỗ Phật chưa tích chứa công đức thì khiến đạt được vô số thần túc biến hóa. Kẻ chưa nghĩ đến việc thuyết giảng các pháp môn một cách rốt ráo thì nghe Phật nói pháp liền thông suốt tất cả các pháp đồng một pháp giới. Kẻ chưa hiểu rõ về tất cả kinh điển thì khiến đạt được tam-muội Thật tướng các pháp bình đẳng. Kẻ xa lìa pháp lục hòa kính thì khiến lãnh hội tất cả pháp tướng.
Có các chúng sinh không tinh tấn đối với pháp môn giải thoát chẳng thể nghĩ bàn, nghe Phật nói pháp liền được thần túc tự tại. Kẻ không siêng năng tu hạnh Bồ-tát thì liền khiến đạt được trí tuệ tinh tấn. Có các chúng sinh muốn phân biệt nhập vào Như Lai tạng, nghe Phật nói pháp, hoàn toàn không nghe theo kẻ khác, liền phân biệt nhập vào Như Lai tạng. Các chúng sinh nào chưa từng được thấy kinh Bản sinh, nghe Phật nói pháp liền đạt được pháp tam-muội Hiện khắp mọi chốn. Kẻ chưa thấy đầy đủ mười lực của Như Lai thì khiến đạt được tam-muội Vô hoại. Kẻ nào chưa có được bốn vô sở úy thì khiến đạt được tam-muội Vô tận ý. Kẻ chưa thấy đầy đủ pháp bất cộng của Phật thì khiến có được tam-muội Bất cộng pháp. Có các chúng sinh chưa được đầy đủ tri kiến không ngu si, nghe Phật nói pháp liền đạt được tam-muội Nguyệt cú.
Các chúng sinh nào chưa biết tất cả các pháp môn Phật pháp, nghe Phật nói pháp liền đạt được tam-muội Ấn thanh tịnh dứt mọi cấu uế. Các chúng sinh nào chưa lãnh hội được Nhất thiết trí, nghe Phật nói pháp liền đạt được tam-muội Thiện hữu. Các chúng sinh nào chưa thành tựu được tất cả Phật sự, nghe Phật nói pháp liền được tam-muội Vô lượng bất tận ý. Các chúng sinh như vậy đối với Phật pháp đều được tin hiểu. Có các Bồ-tát tâm ngay thẳng không dối trá, nghe Phật thuyết pháp liền được tám vạn bốn ngàn pháp môn, tám vạn bốn ngàn các Tam-muội, bảy vạn năm ngàn môn Đà- la-ni. Có vô lượng vô biên a-tăng-kỳ Đại Bồ-tát tu tập pháp Đại thừa, nghe giảng nói pháp này cũng được vô lượng công đức như vậy an trụ nơi bậc Bất thoái chuyển.
Cho nên các Đại Bồ-tát muốn đạt được vô số trang nghiêm bền chắc phải phát nguyện chẳng thể nghĩ bàn, tăng thêm tri kiến chẳng thể nghĩ bàn để tự trang nghiêm. Đó là dùng tướng tốt để trang nghiêm nơi thân, dùng lời nói lành như ý để trang nghiêm nơi miệng, khiến cho mọi người hoan hỷ. Dùng pháp Tam-muội bất thoái chuyển để trang nghiêm nơi tâm. Do niệm trang nghiêm nên không mất tất cả các môn Đà-la-ni. Do tâm trang nghiêm nên phân biệt rõ các pháp. Do niệm trang nghiêm nên hiểu được các nghĩa vi tế. Do tâm thiện trang nghiêm nên đạt được thệ nguyện kiên cố, tinh tấn, theo nguyện của mình đưa đến bờ bên kia. Do chuyên tâm trang nghiêm nên vượt qua các cấp bậc.
Dùng hành vi xả bỏ tất cả các vật để trang nghiêm bố thí. Dùng sự trong sạch không nhơ để trang nghiêm trì giới. Dùng tâm đối với tất cả chúng sinh không phân biệt cao thấp để trang nghiêm nhẫn nhục. Dùng tất cả sự việc đã thành tựu để trang nghiêm tinh tấn. Dùng tất cả các pháp Tam-muội thần thông tự tại để trang nghiêm thiền định.
Dùng sự hiểu biết về nguyên do của các kết sử để trang nghiêm tuệ. Dùng hành động đi đến tất cả chỗ ở của chúng sinh để trang nghiêm Từ. Dùng việc trang nghiêm Từ. Dùng việc không lìa bỏ tất cả chúng sinh để trang nghiêm Bi. Dùng thái độ không nghi hoặc đối với tất cả các pháp để trang nghiêm Hỷ. Dùng việc xem sự khen chê là không hai để trang nghiêm Xả. Dùng sự thể hiện các pháp Tam-muội tự tại thông suốt để trang nghiêm thần thông. Dùng việc được kho báu vô tận để trang nghiêm phước. Dùng việc hiểu rõ tâm niệm hiện có của tất cả chúng sinh để trang nghiêm trí. Dùng việc đem phấp thiện giác ngộ cho tất cả chúng sinh để trang nghiêm giác.
Dùng việc đạt được mắt trí tuệ sáng suốt để trang nghiêm minh. Dùng sự ứng đối hợp pháp nghĩa để trang nghiêm biện tài. Dùng sự hàng phục chúng ma cùng đám dị học để trang nghiêm vô úy. Dùng chỗ đạt được công đức vô thượng nơi Phật để trang nghiêm đức. Dùng a-tăng-kỳ biện luận, thuyết pháp vì chúng sinh khắp nơi để trang nghiêm pháp. Dùng việc soi chiếu về tất cả pháp Phật để trang nghiêm minh... Dùng sự soi chiếu về mọi biến hóa nơi tất cả các cõi Phật để trang nghiêm quang. Dùng việc giảng nói về biến hóa không lầm lẫn để trang nghiêm lúc thuyết pháp. Dùng sự chỉ dạy luôn thích ứng để trang nghiêm cho việc giảng dạy trao truyền.
Dùng chỗ đạt được bốn thần túc đến bờ bên kia để trang nghiêm sự thần biến. Dùng chỗ hội nhập pháp bí mật của Phật để trang nghiêm Như Lai. Dùng trí không tùy thuộc kẻ khác, được tất cả kính thuận để trang nghiêm tự tại. Dùng việc theo đúng như lý mà tu hành khắp mọi nơi chốn không thoái chuyển để trang nghiêm pháp thiện.
Vô lượng a-tăng-kỳ chúng sinh cầu pháp Đại thừa, con dùng một câu pháp với âm thanh trong lành diệt trừ được nhiều điều bất thiện, có đầy đủ các pháp thiện, khiến cho các Đại Bồ-tát đối với các pháp đạt được trí tuệ, không nhờ vào các nhân khác, thành tựu pháp quang minh lớn lao, chóng thành Bậc Chánh Giác Tốì Thượng. Bạch Đức Thế Tôn, lại nữa trong các thế giới khác, chúng sinh tạo nghiệp vô gián cho đến phạm các tội căn bản, tâm ý luôn bị phiền não thiêu đốt, hoặc có người cầu Thanh văn thừa, Bích-chi-phật thừa, vô thượng Đại thừa, nguyện sinh về thế giới của con, cho dù họ đã tích tập các nghiệp chẳng lành, thô bạo, ưa làm việc ác, ngang ngược điên đảo, không thu nhiếp tâm ý, thì con cũng sẽ vì các chúng sinh ấy với tám muôn bôn ngàn (84.000) căn tánh khác nhau tâm ý loạn động mà thuyết giảng sâu rộng về tám muôn bốn ngàn (84.000) pháp tụ.
Trong số này, nếu có chúng sinh cầu Đại thừa vô thượng thì con sẽ vì họ thuyết giảng rộng pháp Ba-la-mật, từ Đàn ba-la-mật cho đến Bát-nhã ba-la-mật. Có chúng sinh cầu Thanh văn thừa, Bích-chi-phật thừa, chưa gieo trồng thiện căn, mà cầu thoát khỏi sinh tử thì con sẽ khiến họ an trụ nơi ba pháp quy y sau mới khiến tu học nơi sáu pháp Ba-la- mật. Các chúng sinh ưa việc sát sinh thì khiến an trụ giới không sát sinh. Các chúng sinh tham lam thì khiến an trụ nơi giới không trộm cắp. Các chúng sinh tham đắm việc phi pháp thì khiến an trụ nơi giới không tà dâm.
Những chúng sinh vọng ngữ thì khiến an trụ nơi giới không nói dối. Các chúng sinh ưa nẻo tối tăm, ô trược thì khiến an trụ nơi giới không uống rượu. Đối với các chúng sinh có đủ năm thứ bệnh này, con sẽ khiến họ dứt bỏ hẳn và an trụ nơi giới cấm Ưu-bà-tắc. Chúng sinh không ưa pháp thiện, con sẽ khiến họ trong một ngày đêm an trụ nơi Tám trai giới. Những chúng sinh có ít thiện căn, con sẽ khiến họ đến gần với pháp xuất gia giữ mười giới để được an trụ nơi phạm hạnh. Hoặc có chúng sinh thích cầu pháp thiện, con sẽ khiến họ đến với pháp thiện thọ cụ túc giới, an trụ nơi phạm hạnh đến cùng.
Con sẽ vì các chúng sinh tạo nghiệp vô gián cho đến loại không thu nhiếp tâm ý ấy mà dùng vô số pháp môn thị hiện thân túc, thuyết giảng văn nghĩa, mở bày chỉ dạy các ấm, giới, nhập, vô thường, khổ, không, vô ngã, khiến họ trụ ở yên ổn nơi Niết-bàn vi diệu, tịch diệt. Con sẽ vì bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, thuyết giảng giáo pháp như vậy. Nếu có người ưa luận nghị, con vì họ thị hiện các pháp nghị luận... Cho đến có người cầu giải thoát, con sẽ vì họ thị hiện không luận. Hoặc như có người không ưa pháp thiện, con sẽ vì họ thuyết giảng các pháp gần gũi chúng Tăng.
Đối với người ưa pháp thiện, con sẽ vì họ thuyết giảng pháp trì tụng, tu tập thiền định, hướng đến giải thoát. Con vì mỗi một chúng sinh mà trải qua hàng trăm ngàn do-tuần, không sử dụng thần túc, dùng không biết bao nhiêu thứ câu lời nghĩa lý và phương tiện quyền biến để hóa độ, cam chịu sự khó nhọc này cho đến khi vào Niết-bàn, thậm chí do diệu lực của thệ nguyện, con sẽ phải giảm một phần trong năm phần thọ mạng của mình.
Khi sắp nhập Niết-bàn con sẽ làm vụn ngọc thân xá-lợi thành như nửa hạt cải, vì thương xót chúng sinh, sau đó con đi vào Niết-bàn. Xin nguyện sau khi con nhập Niết-bàn, chánh pháp trụ thế được một ngàn năm, tượng pháp trụ thế được năm trăm năm.
* Xem trọn bộ Kinh , vui lòng vào đây :
http://tuvientuongvan.com.vn/…/kinh-dai-thua-dai-bi-phan-da…

Sunday, October 23, 2016

17 LỜI KHUYÊN DẠY ĐÁNG SUY NGẪM CỦA THIỀN SƯ KODO SAWAKI (1880-1965)

17 LỜI KHUYÊN DẠY ĐÁNG SUY NGẪM
CỦA THIỀN SƯ KODO SAWAKI (1880-1965)
1. Gửi người bắt đầu biết suy gẫm về cuộc đời
Ở một số nơi tại Mãn Châu, các cỗ xe thường do các chú chó to lớn kéo. Bác xà ích treo một miếng thịt trước mũi chó, và chú chó chạy như điên theo miếng thịt. Nhưng dĩ nhiên là chú không bao giờ với tới. Chú chỉ được vứt cho miếng thịt khi cỗ xe đã về tới đích. Rồi chỉ trong một cái ngốn, chú nuốt chửng miếng thịt xuống cổ họng.
Người đi làm với đồng lương cũng y hệt như thế. Từ đầu tháng cho đến cuối tháng, họ cũng chạy theo đồng lương treo trước mũi. Một khi đã lãnh lương, họ cũng ngốn nó, và lại sẵn sàng chạy tiếp theo kỳ lương tới. Không ai có thể thấy xa hơn đầu mũi của mình.
Câu hỏi là: Tại sao bạn phải khốn khổ như thế?
Nếu không cẩn thận, bạn sẽ phí hết cuộc đời mình không làm gì ngoài việc chờ đợi những hy vọng tầm thường nhất của mình có thể thành tựu.
2. Gửi người không thể nào dừng lo lắng người khác nghĩ về mình như thế nào
Bạn không thể nào đổi bất cứ thứ gì với người khác. Mỗi và mọi người phải sống cuộc đời riêng của mình.
Đừng phí thời gian suy xét xem ai là người tài giỏi nhất.
Mắt không nói, “Chúng tôi thấp hơn, nhưng thấy nhiều hơn”. Chân mày không trả lời, “Đúng, chúng tôi không thấy gì, nhưng chúng tôi ở cao hơn”.
Mũi không thể thay mắt, và miệng không thể thay cho tai.
Mọi thứ đều có nhiệm vụ riêng của mình, mà không gì trong vũ trụ có thể thay thế.
3. Gửi người đã hoàn toàn mệt mỏi trong việc đấu tranh với người phối ngẫu
Vấn đề không phải ai là người đúng. Đơn giản là các bạn nhìn sự việc theo quan niệm khác nhau. Khi bạn bắt đầu nói “Tôi”, mọi thứ theo sau đều là ảo tưởng.
Hãy thôi cố gắng làm một người đặc biệt - hãy cứ là chính mình. Hãy kiềm chế. Ngồi xuống!
4. Gửi người nghĩ làm giống người khác là có lợi
Bạn luôn bám theo người khác. Nếu họ ăn khoai chiên, bạn cũng đòi ăn khoai chiên. Nếu ai đó ăn kẹo, bạn cũng muốn ngậm kẹo. Nếu ai đó thổi còi, bạn cũng kêu đòi: “Mẹ ơi, mua cho con cái còi”. Và điều đó không chỉ xảy ra đối với con trẻ.
Khi mùa xuân tới, bạn quay cuồng theo mùa xuân. Khi thu đến, bạn chạy theo mùa thu. Ai cũng chờ đợi thứ gì đó để chạy đuổi theo. Có người còn kiếm sống được nhờ sự chạy đuổi theo đó - họ làm nghề quảng cáo.
Với từng cá nhân, chúng ta còn chịu đựng nổi, nhưng khi họ lập thành nhóm, họ bắt đầu trở nên quái dị. Họ bị rơi vào sự ngu ngốc của nhóm, của bầy đàn.
Khi sống trong sự ngu ngốc của nhóm, chúng ta lẫn lộn giữa sự cuồng điên và kinh nghiệm thực sự. Nên điều quan trọng là bạn phải rõ ràng về bản thân, và thức tỉnh khỏi cơn điên đó. Thiền có nghĩa là rời bỏ bầy đàn và tự đi trên đôi chân của mình.
5. Gửi người mà suốt đời chỉ biết có tiền và tiền
Hạnh phúc và bất hạnh của con người không chỉ tùy thuộc vào tiền. Nếu con số trong tài khoản tín dụng của bạn là thước đo lường hạnh phúc, thì sự việc sẽ đơn giản xiết bao. Tuy nhiên thực sự nó không phải như thế.
Đừng quá tiêu cực khi bạn bắt đầu nói là bạn cần tiền để sống. Trong thế giới này, bạn có thể hoàn toàn sống tốt mà không cần đến sổ tiết kiệm.
Một số người nghĩ rằng họ quan trọng bởi vì họ có tiền. Người khác thì cho mình quan trọng vì đã đạt được giác ngộ (satori). Nhưng cho dầu bạn thổi phồng tấm da thịt này bao nhiêu, bạn cũng không thể biến mình thành gì cả - ngoài việc trở thành ma.
Những gì không thuộc về bạn chiếm đầy vũ trụ. Khi nào những suy tưởng của cá nhân bạn chấm dứt, thì Phật pháp có mặt.
6. Gửi người thích có nhiều tiền, tình yêu, chức vị và danh vọng
Si mê có nghĩa là chỉ biết chăm lo cho bản thân mình. Còn kẻ trí nói, “Dầu có gì xảy ra, tôi vẫn là tôi”.
Một lần tôi viếng thăm một mỏ than. Có lúc khi đang đi xuống, tôi có cảm giác như thình lình chúng tôi lại trở lên cao. Cũng giống như thế, khi suy nghiệm về cuộc đời mình, hình như chúng ta luôn sai lầm khi lầm tưởng rằng những con số luôn thay đổi là tổng số.
Thua là định. Thắng là ảo tưởng.
Không thèm muốn bất cứ thứ gì là món quà lớn nhất mà bạn có thể ban tặng cho vũ trụ.
7. Gửi người muốn thấy kẻ thù bị điêu đứng
Chúng ta thường nghĩ không biết ở đây ai thực sự là kẻ hay hơn. Nhưng chẳng phải là tất cả chúng ta đều tượng hình từ cùng nắm đất đó sao?
Mọi người cần ngồi chôn chặt xuống chỗ không có tốt hơn hay xấu hơn.
Suốt đời bạn đã là kẻ điên rồ khi nghĩ rằng thực sự có “tôi” và “người khác”. Bạn làm đủ trò để nổi bật trong đám đông, nhưng trong thực tế thì không có “bạn” hay “người khác”.
Phật pháp có nghĩa là liền một mảnh. Vậy thì đường biên nào chạy giữa bạn và tôi? Dần dần tất cả chúng ta đều hành xử như thể có đường biên chia tách bạn và thù. Chúng ta đã quen quá với cách suy nghĩ đó, ta tin rằng đường biên đó thực sự hiện hữu.
Nghèo hay giàu, quan trọng hay không quan trọng - không có gì hiện hữu. Chúng chỉ là ánh sáng lấp lánh trên các làn sóng.
8. Gửi người đang đau khổ vì bị lường gạt
Tất cả chúng sanh đều lầm lạc: xem là hạnh phúc cái đưa đến bất hạnh, và than khóc vì một bất hạnh hoàn toàn không phải là bất hạnh. Tất cả chúng ta đều biết là một đứa trẻ đang khóc có thể biến nước mắt thành tiếng cười khi bạn cho nó cái bánh. Cái mà những kẻ phàm phu như chúng ta gọi là hạnh phúc cũng không hơn thế bao nhiêu. Đôi lúc bạn cần tát vào mặt mình để tự hỏi một cách nghiêm túc: Những điều bạn được hay mất có thực sự đáng được bạn reo hò hay than khóc như thế không?
Sớm muộn gì mọi người cũng bắt đầu chỉ nghĩ cho riêng mình. Bạn nói, “Tốt quá!”. Nhưng cái gì tốt? Nó chỉ tốt cho bản thân bạn, thế thôi.
Người có nhiều ham muốn rất dễ bị lường gạt. Ngay cả những kẻ lừa phỉnh đại tài nhất cũng không mong được gì từ người không có lòng tham muốn.
Phật giáo có nghĩa là vô ngã, không có gì để đạt được.
9. Gửi người lận đận trên đường công danh
Khi đã chết và bạn nhìn lại cuộc đời mình, bạn sẽ thấy những thứ này không đáng chi.
May mắn hay rủi ro, tốt hay xấu - không phải tất cả đều như bạn nhìn thấy. Cũng không phải giống như bạn nghĩ đâu. Bạn cần phải vượt lên trên may mắn hay bất hạnh, tốt hay xấu.
Đau khổ không là gì hơn là cái khổ ta tự tạo ra cho bản thân.
10. Gửi người luôn than thở rằng mình không có thời gian
Mọi người đều than phiền là họ quá bận rộn đến không có thời gian. Nhưng tại sao họ lại bận rộn đến thế? Chính là ảo vọng khiến họ bận rộn. Người hành thiền luôn có thời gian. Khi bạn hành thiền, bạn có nhiều thời gian hơn bất cứ ai ở trên thế gian này.
Nếu không cẩn thận, bạn đang làm ầm ĩ cái việc kiếm sống của mình. Bạn luôn bận rộn, nhưng tại sao? Chỉ là để kiếm miếng ăn. Đàn gà cũng tíu tít khi mổ thức ăn. Nhưng tại sao? Chỉ để bị người ta ăn thịt.
Người ta có thể tạo ra bao nhiêu ảo vọng trong một cuộc đời? Khó thể tính toán. Ngày này qua ngày khác, lúc nào cũng “Tôi muốn cái này, tôi muốn cái kia...”. Chỉ dạo một vòng trong công viên cũng đã có bao vọng tưởng hiện ra trong đầu. Vậy đó là ý nghĩa của ‘bận rộn”, “Tôi muốn được bên em, tôi muốn về nhà, tôi muốn gặp em...”.
Con người luôn thở không ra hơi vì chạy quá nhanh theo ảo vọng của họ.
11. Gửi người đang mong muốn có một cuộc sống hạnh phúc hơn
Hãy tịnh lắng và mọi thứ rồi sẽ tốt thôi. Ta chỉ cần một sự gián đoạn ngắn. Làm Phật có nghĩa là một sự gián đoạn ngắn từ làm chúng sanh. Làm Phật không có nghĩa là phải đi từ chúng sanh lên.
“Loài nào đứng trên mặt đất mà không đi tới cũng chẳng đi lui?”. Kyuho trả lời, “Là con cừu đá với con cọp đá: trước sau gì chúng cũng mệt mỏi khi phải kình chống nhau”. Con cừu đá không nhúc nhích. Con cọp đá cũng không nhảy chồm lên vì đói. Điểm mấu chốt là đó - hãy đối mặt với sự việc vượt lên cả suy tư.
Chúng ta được gì khi thực sự nắm bắt sự vật như chúng đang là? Vượt trên sự suy tư. Vượt lên trên suy tư không cho phép nó tự suy tư. Dầu bạn có nghĩ thế hay không: sự vật cũng đơn giản như chúng là.
“Tất cả mọi pháp đều trống không” có nghĩa là không có gì để chúng ta can dự vào, vì không có gì thực sự xảy ra.
Chưa từng có gì xảy ra, bất chấp những gì như đang xảy ra - đó là trạng thái tự nhiên. Ảo tưởng là đánh mất trạng thái tự nhiên này. Thông thường chúng ta không nhận ra được trạng thái tự nhiên này. Chúng ta che giấu nó với một điều gì khác, nên nó không còn tự nhiên nữa.
Phật pháp có nghĩa là trạng thái tự nhiên này. Thực hành theo Phật có nghĩa là hoàn toàn sống trong giây phút hiện tại này - là cả cuộc sống của ta - ngay đây và bây giờ.
12. Gửi người muốn học Phật pháp để hoàn thiện bản thân
“Lý thuyết rỗng tuếch” là cách ta gọi những kẻ sính dùng thuật ngữ. Kiểu đó thì không ích lợi gì. Hãy đắm cả hồn và xác vào đó!
Bạn phải hoàn toàn chết để có thể quán tưởng về Phật pháp. Chỉ tự hành xác và chết nửa vời thì không đủ.
13. Gửi người cho rằng Phật giáo không có nghĩa lý gì đối với họ
Khi nói về Phật, bạn đang nghĩ đến một điều gì xa vời, không liên quan đến bạn, đó là lý do tại sao bạn chỉ chạy loanh quanh trong vòng tròn.
Chúng sanh và Phật đều có cùng hình tướng. Tỉnh giác và si mê cũng có cùng hình tướng. Khi ta thực hành theo Phật pháp, chúng ta là Phật. Hay đúng hơn, chính vì ta đã là Phật nên ta có thể thực hành theo Phật pháp.
Bạn nghĩ rằng Phật giáo thì hơi khác với mọi thứ. Nhưng không phải như thế chút nào: Phật giáo chính là mỗi và tất cả mọi thứ.
14. Gửi người không biết việc hành thiền của mình có ích lợi gì không
Thiền có ích gì? Hoàn toàn không! Nhưng cái “chẳng ích lợi gì” này phải thấm vào xương thịt bạn cho đến khi bạn thực sự thực hành cái “chẳng ích lợi gì”. Chỉ đến khi đó, thì việc hành thiền của bạn mới thực sự chẳng ích lợi gì.
Bạn nói rằng bạn muốn trở thành người tốt hơn bằng cách hành thiền. Nhưng thiền không phải là về việc học làm thế nào để thành một con người. Thiền là dừng lại việc làm người.
Bạn nói, “Khi thiền, tôi bị ảo tưởng!”. Điên rồ! Sự thật là chỉ khi hành thiền bạn mới ý thức đến các ảo tưởng của mình. Khi bạn quay cuồng với ảo tưởng của mình, bạn đâu hề để ý tới chúng. Lúc bạn hành thiền, một con muỗi chích, bạn cũng biết ngay. Nhưng khi bạn đang quay cuồng, thì con vắt có cắn, bạn cũng không hề hay.
Đừng càu nhàu. Đừng có trao tráo mắt nhìn khoảng không. Chỉ ngồi!
15. Gửi người với tâm bấn loạn đang cố hết sức để được tâm an
Tâm bạn không an vì bạn đang chạy đuổi theo lý tưởng của một tâm hoàn toàn thanh tịnh. Đó là đi thụt lùi. Hãy theo dõi tâm trong từng giây phút, dầu nó có loạn động đến thế nào. Ta chỉ có thể đạt được tâm an lạc rộng lớn khi thực hành với tâm loạn động này.
Khi sân cuối cùng được chấp nhận là tâm sân, thì tâm sẽ an lạc.
16. Gửi người cho rằng mình đạt được trạng thái tâm tốt đẹp hơn nhờ thiền định
Khi nào bạn còn cho rằng thiền là việc tốt, thì có điều gì đó không bình thường. Hoàn toàn không có gì đặc biệt về thiền không vết nhơ. Không cần phải hàm ân về điều đó. Đừng làm ô uế việc hành thiền của bạn bằng cách nói là bạn đã tiến bộ, cảm thấy tốt hơn, hay trở nên tự tin hơn trong việc hành thiền.
Chúng ta chỉ nói, “Mọi việc tốt đẹp!” khi chúng xảy ra theo ý ta.
Lý ra chúng ta phải để dòng nước của trạng thái ban đầu của ta như nó là. Nhưng thay vào đó, ta cứ liên tục vọc tay vào đó để xem nước lạnh hay ấm. Đó là lý do nó bị vẩn đục.
Thiền không phải là máy đo khi nhiệt độ từ từ tăng lên: “Thêm chút nữa…, đúng rồi! Giờ tôi đã đạt được giác ngộ!”. Thiền không bao giờ trở thành một điều gì đó đặc biệt, dầu bạn có thực hành nó trong bao lâu. Nếu nó trở thành đặc biệt, chắc chắn là bạn đã lơi lỏng chỗ nào rồi.
17. Gửi người kỳ vọng một cách sống tuyệt đối
Phật pháp là gì? Đó là để mọi khía cạnh trong đời sống hàng ngày của bạn đều nương tựa theo Phật.
Cốt lõi của tất cả mọi hành động là đi đến chỗ tận cùng. Nếu tâm bạn vắng mặt dù chỉ một giây, bạn không khác gì cái xác chết. Thực hành là luôn tự hỏi mình “Ngay bây giờ tôi có thể làm gì theo như Phật?”.
Đạt được đích chỉ một lần thôi chưa đủ. Điểm tối đa của năm ngoái chẳng ích lợi gì. Bạn cần phải đạt được đích ngay bây giờ.
🌺Nguồn: Thư viện hoa sen
Nguyên tác: Thiền sư Kodo Sawaki (1880-1965) hay “Kodo-Kẻ không nhà”, là một trong những vị thiền sư phái Tào Động (Nhật Bản) có ảnh hưởng nhất của thế kỷ XX. Là trẻ mồ côi, 16 tuổi xuất gia, sau bị gọi nhập ngũ, chiến tranh kết thúc Sawaki quay về tiếp tục tu học thiền. Kodo Sawaki lập hạnh không trụ mà đi khắp nơi để dạy thiền.Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án. Một số lời khuyên dạy của Kodo Sawaki được môn sinh tập hợp thành "Gửi bạn”
Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ

Tuesday, August 2, 2016

Bị vu oan làm cô gái trẻ có bầu, thiền sư chỉ đáp lại bằng 2 từ này

Bị vu oan làm cô gái trẻ có bầu, thiền sư chỉ đáp lại bằng 2 từ này

Bị vu cáo làm cô gái xinh đẹp có thai, thiền sư Hakuin chỉ nói 2 từ “Vậy sao?” rồi bế đứa trẻ đi xin sữa.

Thiền sư Hakuin bị vu cáo làm cô gái xinh đẹp có thai.
Thiền sư Hakuin được mọi người chung quanh ca tụng là một người sống cuộc đời trong sạch.
Một cô gái Nhật Bản xinh đẹp, sống gần ngài, bỗng nhiên có thai. Cô không chịu thú nhận ai là người làm chuyện đó, nhưng sau bao phen bị bố mẹ vặn hỏi, cuối cùng cô chỉ tên người đó là Hakuin.
Cha mẹ cô giận dữ vô cùng, đến kiếm ông thiền sư. “Vậy sao?” ngài chỉ nói có vậy thôi.
Sau khi đứa trẻ sinh ra, người ta mang nó tới cho Hakuin. Vào lúc này ngài đã mất hết cả danh tiếng, nhưng điều đó không làm ngài bực bội, ngài chăm sóc đứa trẻ rất chu đáo. Ngài xin sữa của những người lối xóm và các thứ khác mà đứa trẻ cần đến.
Một năm sau cô gái không chịu đựng được điều đó thêm nữa, bèn thú thật với bố mẹ cô rằng người cha thật sự của đứa bé là một anh trẻ tuổi làm việc trong chợ cá.
Mẹ và bố cô gái vội vàng tìm đến Hakuin xin ngài tha thứ, sau khi xin lỗi hết lời, rồi xin nhận lại đứa trẻ.
Hakuin ưng thuận. Khi trao đứa trẻ lại ngài chỉ nói: “Vậy sao?”
Phản ứng khi bị vu cáo: “Thế à”
Ngày nay với phương pháp thử nghiệm DNA, việc tìm đích danh “thủ phạm”, tác giả của bào thai không khó. Nhưng trước đây, nhiều người đã bị hàm oan, thân bại danh liệt vì lỗi lầm của các thiếu nữ.
Thiếu nữ là con nhà gia giáo, thuộc gia đình có ảnh hưởng trong làng. Cho nên, việc có nhiều dân làng kéo đến dưới chòi ở của thiền sư để la ó, phản đối cũng là điều dễ hiểu. Đáp lại thiền sư bình tĩnh lắng nghe họ, không giận dữ, chậm rãi, mỉm cười trả lời: “Thế à!”.
Vị thiền sư bình thản, "bế con" đi xin sữa.
Đối với dân làng, “Thế à” có nghĩa là đồng ý, nhận tội, chịu trách nhiệm, và hậu quả. Nhưng đối với thiền sư, bằng hai tiếng “Thế à” ông muốn nói với thiếu nữ lầm lỡ rằng: Cô biết hơn ai hết tôi không phải là cha đứa bé; và với dân làng đang phẫn nộ cũng như mẹ cha cô gái: Bây giờ tôi có giải thích thế nào các ông các bà cũng không tin. Nhưng điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là tôi phó thác và tin tưởng nơi Đấng Quyền Năng Tối Cao. Như trường hợp Đức Kitô thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha.”
 Bế con đi xin sữa
Danh giá của một thiền sư nổi tiếng trước đây không còn vì bị gán tội…tà dâm Thiền sư Hakuin đã bị dân làng và gia đình cô gái lôi từ đỉnh cao trọng vọng xuống bùn nhơ. Ông vẫn bình thản, không lộ vẻ gì là xấu hổ hay giận dữ, hàng ngày “bế con” đi xin sữa… Tai ông phải chứa đầy những lời nói soi mói của dân làng. Nhưng ông không xem đứa bé là “của nợ” làm hại đời mình. Là người tu hành lâm cảnh gà trống nuôi con, ông chăm lo cho nó hơn cả người cha ruột thịt. Đứa bé cần có người nuôi dưỡng, dạy dỗ. Mẹ nó sợ xấu hổ, khước từ. Nó có tội gì đâu.
Danh dự của một con người, nhất là người tu hành có tiếng như ông, là điều thật quan trọng cần bảo vệ. Nhựng ông không xem danh dự của mình quan trọng bằng sự an thịnh của bé thơ. Ông an nhiên khi bị hàm oan, nhục mạ. Đúng hơn, phải nói là ông đã vượt thoát khỏi thân phận yếu hèn của con người, đạt tới sự siêu thoát, không còn bận bịu với những  gì thuộc về thế gian, trần tục.
Phản ứng khi được xin lỗi: “Thế à!”
Thấy thiền sư nhẫn nại chịu đựng để xin sữa “nuôi con,” một con người thật sự còn có chút gì tốt trong lòng, chưa nói đến “lương tâm” theo nghĩa trọn hảo, cũng không thể không động lòng, huống hồ cô gái mẹ của đứa bé, người biết rõ hơn ai hết thiền sư Hakuin không phải là cha của con mình. Thái độ an nhiên của thiền sư đã đánh động, làm thức tỉnh lương tâm của cô gái.
Cũng bằng hai tiếng “Thế à,” thiền sư trả lời cho cô gái, cha mẹ cô và dân làng khi họ ăn năn xin lỗi! “Thế à” lần thứ hai này có nghĩa là… Tôi đâu còn nhớ gì để tha thứ, tôi đã tha thứ từ phút đầu tiên khi bị buộc tội và đã quên hết rồi mà…
Nếu “Thế à” lần đầu đã làm hả dạ những người cáo buộc thiền sư thì lần này hai tiếng đó làm cho họ bình tâm vì cảm thấy đã được tha thứ thật sự và từ lâu.
Thái độ an nhiên của thiền sư Hakuin không phải phát xuất từ trái tim chai lì, vô cảm, không còn biết xấu hổ trước những lời buộc tội vu oan của người khác, nhưng chính lòng ước ao mãnh liệt và ý chí cương quyết muốn vươn tới lý tưởng chân thiện mỹ để trở nên một với Đấng Tối Cao đã khiến cho những gì không thuộc về lý tưởng đó trở nên tầm thường, thứ yếu, ngay cả danh dự của con người. Hình ảnh một thiền sư “bồng con đi xin sữa” dưới mắt người đời là một hành động can đảm, nhất là khi dư luận nghĩ thiền sư là cha đứa bé. Nhưng đối với một người tu hành siêu thoát như Hakuin thì đó cũng chỉ là một hành động như bao nhiêu hành động khác ông làm mỗi ngày. Đối với ông không có việc nào nhỏ, việc nào lớn, việc nào thấp hèn hay can đảm. Tất cả  đều được làm để tôn vinh và nên một với Đấng Tối Cao.
Trích 101 câu chuyện Thiề

Monday, February 22, 2016

Bốn nỗi khổ lớn của một đời người và cách để thay đổi chúng

 Guu.vn - Đời người tựa như cánh cửa, có người lạc quan khi ở bên trong, có người lại vui vẻ khi đứng bên ngoài. Kỳ thực, có rất nhiều thứ không biết như thế nào mới là tốt nhất, chỉ cần bạn cho là đáng giá thì mới là tốt nhất.

1. Bốn cái khổ của đời người

Một là nhìn không thông: Không nhìn thấy được bản thân mình lạc trong vòng luẩn quẩn, không thấy vết thương của mình sau mỗi lần tranh đấu, không nhìn thấy nơi yên tĩnh ở phía sau sự sầm uất vô vị, chính là một nỗi khổ lớn của đời người.
Hai là luyến tiếc: Luyến tiếc sự ưu việt của bản thân trong quá khứ, luyến tiếc những sự việc không tới nơi tới chốn đã từng làm, luyến tiếc những hư vinh, những tiếng vỗ tay đắc thắng. Sống trong luyến tiếc thì cả đời sẽ dằn vặt không yên.
Ba là không thể đứng dậy sau thất bại: Cuộc sống ai mà chưa từng thất bại, nhưng nếu thất bại mà lại gục ngã, không thể đứng dậy được thì phần đời còn lại có lẽ chỉ là những lời than trách mà thôi.
Bốn là không thể vứt bỏ: Không buông bỏ được người và sự việc đã đi xa, không vứt bỏ được những mặc cảm về tội lỗi trong quá khứ sẽ giống như mang theo tảng đá khi đi đường dài vậy, thật khổ, thật mệt.
Bạn đã hiểu rồi, vậy bạn có muốn thay đổi hay không?

2. Một đời người, không phải tốt đẹp như trong mơ, cũng không xấu như trong tưởng tượng.

Phía sau mỗi người đều có nỗi đau ẩn chứa, đều có nỗi khổ không thể nói ra bằng lời.
Mỗi người đều bước đi trên con đường của mình. Chỉ cần nhớ:
Khi lạnh hãy mặc thêm áo khoác cho mình;
Khi đói mua cho mình một cái bánh;
Khi đau hãy tự cho mình một chút kiên cường;
Khi thất bại thì tự đặt cho mình một mục tiêu, hãy chịu đau đứng dậy sau khi bị té ngã, hãy đích thực là chính mình.

3. Không nên lấy tiêu chuẩn của mình để đặt yêu cầu cho người khác, cũng không nên đeo kính màu để nhìn người khác.

Bởi vì mỗi người đều có sở thích, cá tính, cũng như giá trị của riêng họ. Những điều bạn thấy không thuận mắt, cũng không nhất định là điều không tốt.
Lý giải về hành phúc có hàng ngàn vạn loại, quan niệm về hạnh phúc của mỗi người cũng không giống nhau. Hạnh phúc lớn nhất của cuộc đời chính là có thể được làm chính mình.
Tin tưởng chính mình, đi theo tiếng gọi của tâm hồn mình, không viễn tưởng đặt ra mục tiêu vượt xa khả năng bản thân, không mù quáng ganh đua, bạn chính là người hạnh phúc nhất.
Không có vàng nguyên chất, cũng không có người hoàn mỹ, bởi vì không hoàn mỹ mới là chúng ta đích thực nhất.

4. Hạnh phúc là sự gom góp từng chút từng chút, là được thực hiện từng ngày từng ngày. Đừng làm tổn thương người yêu mến bạn, cũng đừng làm người bạn yêu mến bị tổn thương.

Một người dẫu có tốt đến mấy, nhưng nếu họ không nguyện ý cùng bạn đồng hành cho đến hết cuộc đời, thì họ chính là người khách ghé thăm bạn mà thôi.
Một người dẫu có nhiều nhược điểm, nhưng lại có thể luôn nhường nhịn bạn, chăm sóc bạn, nguyên ý suốt đời ở bên bạn, đó chính là hạnh phúc của bạn.
Ai cũng muốn tìm một người thập toàn thập mỹ, nhưng con ngươi ai cũng có khuyết điểm. Yêu chính là nhường nhịn, thành thật với nhau, trọn đời bên nhau.
Có được một người có thể làm cho bạn vui vẻ cả đời, mới chính là mục tiêu của cuộc sống.

5. Khi những thứ mà ta sở hữu và những chấp nhất của chúng ta trở thành một loại “vũ khí” gây tổn thương, thì buông bỏ chính là giải pháp tốt nhất cho cuộc đời.

Mấy ai có thể biết được mình có bao nhiêu đau khổ, ai biết được mình bị bao nhiêu tổn thương. Nếu nước mắt không đọng lại ở trên mặt thì không ai biết được nó lạnh giá đến chừng nào, cái đau không nằm trên thân thể thì không thể biết nó đau đớn nhường nào.
Bạn có thể nhìn thấy giọt lệ đọng nơi khóe mắt, vết sẹo ở trên thân nhưng không nhất định hiểu được nỗi đau buồn và bi thương ở trong tâm hồn.
Hãy ngoảnh mặt bước đi trước khi rơi lệ, để lại sau lưng một hình bóng kiên cường, bạn sẽ thấy tâm hồn thật nhẹ nhõm trên hành trình kế tiếp của cuộc đời mình.

6. Khi còn trẻ không hiểu biết, trung niên sẽ luyến tiếc.

Có một số thứ, khi bạn hoàn toàn sở hữu được, lại cảm thấy buồn tẻ vô vị; có một số thứ, khi vĩnh viễn mất đi, mới phát hiện ra nó trân quý vô cùng.
Khi lâm vào giai đoạn khốn khổ của cuộc đời, cái gì tới thì muốn ngăn cản cũng không ngăn được, cái gì đi thì muốn giữ cũng giữ không được.
Trong cái được và mất, có những sự việc nhỏ bé không đáng kể, nhưng chúng khiến bạn đau, khiến bạn yêu, bạn hận, khiến bạn cả đời phải đau khổ, cả đời phải khác cốt ghi tâm.

7. Cánh cửa cuộc đời

Đời người tựa như một cánh cửa, có người cảm thấy bi quan khi ở trong cánh cửa tối om, có người lạc quan khi được ở trong cánh cửa tĩnh mịch, có người ưu sầu vì mưa gió khi đứng bên ngoài cánh cửa, có người thấy vui vẻ bởi vì được tự do khi đứng ngoài cánh cửa.
Kỳ thực trong đời người, có rất nhiều thứ không biết như thế nào mới là tốt nhất, chỉ cần bạn cho là đáng giá thì nó là tốt nhất.
Thành công và thất bại, hạnh phúc và bất hạnh, định nghĩa trong nội tâm của mỗi người là không giống nhau. Mấu chốt là phải năm chắc được điều bạn muốn là cái gì, đừng để nó tuột khỏi tay bạn, đừng để mình phải hối tiếc quá nhiều.

8. Thêm một chút gia vị cho tình bạn.

Tình nghĩa bạn bè, cuối cùng sẽ dần dần phai nhạt. Để có một người bạn đích thực thường phải mất vài năm hoặc vài chục năm, mà đắc tội với một người bạn có thể chỉ trong vài phút, hoặc chỉ vì một chuyện.
Thế tục phù phiếm, lòng người phức tạp, rất mẫn cảm với những lặt vặt nhỏ nhoi, đều là trở ngại cho sự tiến triển của tình bạn.
Có lẽ bởi vì là bạn bè, nên đã thiếu đi một chút băn khoăn, thiếu đi một chút tôn trọng, vì thế mới thành ra như vậy. Giữa bạn bè với nhau khi thân cận quá, quan hệ sẽ trở nên phức tạp, khoảng cách quá xa thì lại mất đi liên lạc.
Hãy biết quan tâm, trân quý, che chở cho tình bạn. Cho dù không trường tồn muôn thủa, thì ít nhất đã từng có một tình bạn khắc cốt ghi tâm.

9. “Thấu hiểu” là thuật ngữ thâm tình nhất, khắc sâu nhất trong thế giới tình cảm.

Thấu hiểu, chính là dùng ánh mắt của ta để an ủi nỗi ưu thương của người khác;
Thấu hiểu, chính là để nhịp tim đập theo nhịp tim của người khác;
Thấu hiểu, chính là im lăng lắng nghe âm thanh của tâm hồn;
Thấu hiểu, chính là trong mắt của tôi luôn có hình bóng của bạn;
Người thấu hiểu, chính là yêu hết mức có thể. Bởi vì chỉ có “thấu hiểu”, mới có thể trầm tĩnh, mới có thể ung dung, mới biết thế nào là trân quý.

10. Cánh “cung” của cuộc đời, người kéo quá cỡ sẽ mệt mỏi, kéo cung không đủ sẽ tụt lại phía sau.

Người coi cuộc đời người như một hành trình, thì sẽ luôn nhìn thấy phong cảnh. Người coi cuộc đời như một chiến trường, thì gặp phải luôn là những tranh đấu.
Cuộc đời chính là như vậy, lựa chọn cái gì thì sẽ gặp cái đấy, không có đúng hay sai, chỉ có chấp nhận hay không.
Học cách quên đi những chuyện làm mình không vui, học cách rời xa những người làm cho mình trở nên hèn mọn. Chỉ cần vẫn có ngày mai, thì ngày hôm nay mãi mãi vẫn là khởi điểm.
Gặp gỡ nhiều người thì biết sự đáng quý của tình bạn
Va vấp nhiều thì biết được sự đáng quý của hiểu biết
Thất bại nhiều mới biết sự đáng quý của tư tưởng
Thành công nhiều thì biết được sự đáng quý của dũng khí
Mâu thuẫn nhiều thì biết sự đáng quý của ý chí
Không thuận mắt nhiều thì biết sự đáng quý của tu dưỡng
Nịnh nọt nhiều mới biết sự đáng quý của chân thành
Danh lợi nhiều mới biết sự đáng quý của xem nhẹ
Xã giao nhiều mới biết sự đáng quý của thanh tịnh!
Kiếp người rất ngắn, hãy cảm ơn vì mình đang được sống, bạn mới có thể cảm nhận được những điều mỹ hảo của cuộc đời này…

Tuesday, February 16, 2016

Nghe lời phật dạy về cách bố thí không tốn một đồng mà lại may mắn cả đời

Bố thí là đem vật chất như của cải tiền bạc của mình hiến dâng chia tặng cho người, hoặc đem trí tuệ như giảng nói các điều hay lẽ phải trong đời sống, đem các chân lý theo lời Phật dạy giải thích lại cho người.

Có một câu chuyện kể về cuộc đối thoại giữa một vị lão hòa thượng và một người dân thường như thế này:

Lão hòa thượng nghe xong lại nói với anh ta rằng: “Cũng không phải là như vậy! Một người cho dù là không có tiền cũng vẫn có thể cho người khác 7 thứ:

1. Bố thí bằng vẻ mặt: Ngươi có thể cho người khác vẻ mặt tươi cười niềm nở.

2. Bố thí bằng lời nói: Ngươi có thể cho người khác những lời cổ vũ khích lệ, lời an ủi, lời khen ngợi, lời khiêm tốn và lời nói ấm áp.

3. Bố thí bằng tấm lòng: Hãy mở rộng tấm lòng và đối xử chân thành với người khác.

4. Bố thí bằng ánh mắt: Hãy dùng ánh mắt thiện ý để nhìn người khác.

5. Bố thí bằng hành động: Dùng hành động để đi giúp đỡ người khác.

6. Bố thí bằng chỗ ngồi: Khi đi xe hay thuyền, có thể đem chỗ ngồi của mình tặng cho người khác.

7. Bố thì bằng nơi ở: Đem phòng ở trống không sử dụng cho người khác nghỉ ngơi.”



Lời phật dạy về bố thí -

Cuối cùng, lão hòa thượng lại nói: “Vô luận là ai, chỉ cần dưỡng thành 7 thói quen này thì vận may sẽ đến với người đó “như hình với bóng!”“

Lão hòa thượng khuyên bảo chúng ta rất nhiều cách để thực hành bố thí chỉ cần dùng tâm là có thể làm được. Ví như trong cuộc sống hàng ngày, mưu sinh kiếm tiền nuôi gia đình, kỳ thực đây cũng là một dạng “bố thí.”

Nếu như bạn đang ở trong mê, cảm thấy mình đang “làm trâu làm ngựa” kiếm tiền trả khoản nợ nào đó cho gia đình. Và vì thế mà trong lòng bạn ôm giữ một nỗi oán giận thì bạn sống sẽ rất khổ! Chỉ cần bạn thay đổi ý niệm, biết rằng nuôi gia đình chính là bạn đang bố thí cho người khác, bạn đang làm việc tốt nuôi dưỡng gia đình. Khi ấy trong lòng bạn sẽ cảm thấy rất nhẹ nhàng và vui vẻ!

Đừng tưởng rằng chỉ có đến chùa bỏ một chút tiền vào đó thì mới là bố thí. Kỳ thực nhiều người không hiểu rằng, trong cuộc sống hàng ngày, hết thảy việc bạn đang làm đều là bố thí, là nuôi dưỡng!

Đơn giản như, bạn sửa sang dọn dẹp lại nhà cửa sạch sẽ khiến cho gia đình sống được thoải mái thì đó cũng là bạn đang bố thí đối với mọi người trong gia đình. Hay bạn tận tâm tận lực làm việc ở sở làm thì cũng là một cách bố thí đối với công ty và nuôi dưỡng xã hội …

Nếu như bạn có thể khởi ý nghĩ này trong tâm thì bạn sẽ sống được tự tại. Hãy tin rằng cho dù những việc làm bố thí của bạn trước mắt không nhận được thù lao đi nữa thì trong tương lai bạn cũng nhận được sự hồi báo kỳ diệu!
Theo SKCĐ - Quà tặng cuộc sống​

Saturday, January 23, 2016

TỪ NHÀ GIÀU ĐẾN BỒ TÁT

TỪ NHÀ GIÀU ĐẾN BỒ TÁT
Nhà Giàu là người sở hữu nhiều cơ sở vật chất và nhiều tài sản có giá trị.
Bồ Tát là người có tâm tỉnh giác, có tâm nguyện rộng lớn, luôn hành trì để giải thoát cho mình không còn tham, sân, si, biếng nhác, kiêu mạn; luôn hành đạo để giúp người thoát khỏi vô minh, phiền não, đói rách, bệnh tật.
Con đường từ Nhà Giàu đến Bồ Tát được đo bằng sáu phẩm hạnh: BỐ THÍ, TRÌ GIỚI, NHẪN NHỤC,TINH TẤN,THIỀN ĐỊNH VÀ TRÍ TUỆ .Tại sao ? Là vì, bố thí là diệt trừ lòng tham, trì giới là diệt trừ thân ô nhiễm, nhẫn nhục là diệt trừ tánh kiêu mạn, tinh tấn là diệt trừ sự biếng lười, thiền định là diệt trừ tâm loạn động.
Bố thí là một trong sáu phẩm hạnh cần có của Bồ Tát. Muốn thực hành bố thí trước hết Bồ Tát phải giàu có. Vì, bố thí là đem của cải, vật chất và nhiều tài sản có giá trị do mình sở hữu chuyển trao lại cho xã hội hoặc cá nhân.
Bố thí, tiếng Phạn Dàna là “sự cho”, tiếng Hán Việt là “bố thí”. Bố là “khắp”, thí là “cho”. Bố thí là cho khắp tất cả. Có ba yếu tố tạo nên bố thí: người cho, vật cho, kẻ nhận. Thiếu một trong ba thì chưa thể gọi là bố thí.
Bồ Tát thực hành bố thí trên tâm nguyện ba không: không có người cho, không có vật cho, không có kẻ nhận. Khi cho, không thấy mình cho thì vượt lên trên sở hữu. Khi cho, không thấy vật (của mình) cho thì thoát khỏi danh lợi. Khi cho, không phân biệt thân quen thì ly ái (thoát ly yêu, thương, nhớ, mến, ưa, ghét, giận, hờn, buồn, lo); không mưu cầu ơn nghĩa thì ly dục (không nhằm thỏa mãn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý).
Phật dạy: “Hết thảy chúng sanh đều tồn tại do thức ăn”. Vì vậy, Bồ Tát hành đạo trước hết là cung cấp thức ăn cho những người đói, khát, nghèo, khó. Theo Kinh Phật, thức ăn có hai loại: vật chất và tinh thần. Thức ăn nuôi sống và phát triển phần thân là lương thực, thực phẩm. Thức ăn trưởng dưỡng phần tâm tưởng, niềm tin, giúp con người sống hướng thượng, gồm: tu viện, học viện, trường học, bảo tàng, thư viện, nhạc viện, nhà hát, công viên, làm đẹp cảnh quan, làm sạch môi trường..
Bồ Tát không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của người nhận. Do vậy, tùy theo căn cơ, hoàn cảnh, phước đức, nhân-duyên của kẻ nhận mà Bồ Tát bố thí vật cho.
Nếu Nhà Giàu thực hành đầy đủ “sáu phẩm hạnh” và bố thí với tâm nguyện “ba không” thì chính là Bồ Tát.
Nếu Nhà Giàu thực hành bố thí với tâm tư lợi, tâm xấu xa, hoặc muốn dụ dỗ, muốn mê hoặc, mua danh lợi, mưu cầu ơn nghĩa,...không quan tâm đến sự an vui, lợi ích của kẻ nhận thì đó là kinh doanh trên sự khổ đau của người./.
ST

Friday, January 22, 2016

THỂ TRƯỢC !

32 THỂ TRƯỢC !
"Lại nữa, này các tỳ kheo,vị tỳ kheo quán thân này từ lòng bàn chân đi lên, từ tóc đổ xuống, bao bọc bởi da và chứa đầy những loại bất tịnh :"Trong thân này có tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân,xương,xương tuỷ, thận, tim, gan, màng ruột, lá lách, phổi, ruột, cơ thành ruột, vật thực trong bao tử, phân, óc, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, dầu da, nước miếng, nước mũi, nước khớp xương, nước tiểu".
----------------------

Trong thế gian nỳ, không có ai là không tham sống. Sự tham sống này vô cùng mãnh liệt, vì nó được di truyền, tiếp nối từ muôn vạn thế kỷ cho đến nay. Vì tham sống nên chúng sinh tìm hết mọi cách để được sống, để trau dồi thân mạng, và để di truyền sự sống. Vì tham sống nên người bất chấp cả sự bất công, phi lý và tàn nhẫn, xấu xa mà mình có thể phạm đến đối với những người và vật khác ở chung quanh. Vì tham sống, người ta đã không từ chối hiếp đáp, giành giựt, cướp bóc, chém giết đồng loại, và có khi cả đến đồng bào thân thích nữa. Tóm lại, sự tham sống là một nguyên nhân chính của khổ đau, tàn phá và chết chóc.
Vả lại, càng tham sống bao nhiêu lại càng sợ chết bấy nhiêu. Mà đã sợ thì không bao giờ có thể vui được.
Hơn nữa, có ai sợ chết mà thoát được chết đâu? Ðã có sống thì tất phải có cái trái lại là chết. Chúng ta thấy đó, lòng tham sống đem lại cho ta biết bao hậu quả tai hại, buồn thảm, xấu xa.
Nhưng cuộc đời, thân mạng, thật có quý báu, thật có xứng đáng cho chúng ta tham lam, mến chuộng đến thế không.
Ðể xét đoán đúng đắn giá trị của thân mạng, đức Phật dạy chúng ta thực hành một pháp quán. Pháp quán đó mệnh danh là "Quán Bất tịnh".
Bất tịnh nghĩa là không sạch sẽ, trong lành. Quán Bất tịnh tức là quán sát một cách tỉ mỉ, cùng tột thân con người để nhận thấy rõ rằng nó là không trong sạch, như hầu hết con người đời đều lầm tưởng.
--------------
Làm sao từ bỏ ái dục?
Để từ bỏ ái dục, các kinh sách thường dạy quán về sự bất tịnh của thân thể, bởi vì đối tượng của ái dục là thân hình sắc đẹp. Đàn ông, đàn bà say mê thân hình và sắc đẹp của nhau, rồi từ đó tâm dục phát sinh, hai căn nam nữ bị kích thích, tinh dịch chảy ra và đưa đến sự hành dục. Khi còn thấy thân thể mình và người kia là đẹp và hấp dẫn thì tâm rất dễ khởi dục. Muốn đối trị tâm dục thì phải quán chiếu thấy được sự nhơ nhớp, tanh hôi, thối tha bên trong và bên ngoài của thân thể, như máu, mủ, đờm, dãi, phân, tiểu, gân, xương, thịt, mỡ, ruột non, ruột già, v.v...
Một người thật đẹp mà nếu không tắm rửa vài ngày thì thân thể sẽ toát ra mùi hôi. Nếu không súc miệng, đánh răng thì mở miệng ra ai nấy đều tránh xa. Mắt, tai, mũi, miệng, đường tiểu và hậu môn là những nơi tiết ra những thứ dơ bẩn, tanh hôi.
Có thấy rõ được sự bất tịnh nơi thân mình và thân người khác phái thì tâm mới nhàm chán, xa lìa sắc dục. Thời xưa các thầy tỳ kheo phải đi vào những bãi tha ma (thi lâm) để quán các xác chết sình thúi và tan rữa. Nhờ mục kích trực tiếp sự bất tịnh nên lòng dục được nguội lạnh dễ dàng. Còn thời nay khó tìm đâu ra những xác chết để quán chiếu, vì thế nên phép quán bất tịnh tương đối khó thành tựu. Nhưng nếu quyết tâm từ bỏ ái dục thì vẫn quán chiếu được.
--------------------
P/s: thay vào nhìn những ảnh đẹp , dễ nhìn , khêu gợi .... thì Sīla Samādhi Paññā thường nhìn những hình ảnh này mà đó là sự thật nhưng ta cứ lầm tưởng , sự tham dục đã được bị kìm nén hay tiêu đi một phần nào khi cứ suy niệm bên trong và bên ngoài . Thật vi diệu .
Thật may mắn khi biết đến Chánh Pháp và thực hành lời dạy của Ngài - Người thắp ánh sáng cho cho chúng sanh - Bậc thầy tôn kính 🙏🙏🙏 !
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa.
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa.
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa.

https://www.facebook.com/photo.php?fbid=1534611876867243&set=pcb.1534618090199955&type=3&theater