Friday, August 30, 2013

Cách diệt trừ tham, sân, si trong đời sống hằng ngày


Cách diệt trừ tham, sân, si trong đời sống hằng ngày

*******************
Có vị nêu câu hỏi: Làm sao giữ được cho tâm ý luôn luôn thiện lành trong sạch? Làm sao giữ cho tâm ý không còn nghĩ ác, nghĩ bất thiện? Làm sao đừng có tham sân si, bớt tham sân si, mặc dù vẫn biết tham sân si là sai trái, đau khổ?

Đó là một câu hỏi rất chính đáng, Đức Phật đã từng nói: "Rối ren thay loài người!" (Kinh Kandakara, Trung bộ II Kinh 51) . Có người biết hút thuốc là có hại những vẫn hút, biết uống rượu là có hại nhưng vẫn uống. Đó là sức mạnh cuả thói quen, một sức mạnh đáng sợ. Cũng như một người đi mãi trong sương mai, thế nào áo cũng thấm sương. Muốn cho áo mình đươc khô, phải phơi phóng bao nhiêu ngày! Đối với tâm người cũng vậy. Tâm người nghĩ ác hay nghĩ thiện cũng thành thói quen. Mà đã thành thói quen, nhất là thói quen xấu thì cũng phải có công phu, mất thời gian mới trừ bỏ được.

Trước hết phải tự tạo cho mình một môi trường tốt với những môi trường tốt, những thiện trí thức, như sách Phật thường nói. Trong kinh Tiểu Kinh Mãn Nguyên (Kinh Trung Bộ số 110), Đức Phật giới thiệu cho chúng ta rõ thế nào là nếp sống của một người bất thiện. Một người bất thiện, là một người đầy những tánh bất thiện, như không có lòng tin, không biết xấu hổ, không biết sợ hãi, nghe ít, biếng nhác, thất niệm, kém trí tuệ. Người bất tiện suy tư như người bất chánh, suy tư tự làm hại mình, suy tư làm hại người khác, suy tư làm hại cả hai. Người bất thiện nói năng như người bất chánh: Nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm. Người bất thiện hành động như người bất chánh, sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục. Như vậy, với những định nghĩa trên chúng ta biết ngay thế nào là người bất thiện và giúp chúng ta tự tránh không trở thành người bất thiện.

Phật tử thường xuyên đến đây Lễ Phật, nghe giảng kinh đọc sách Phâạt, cùng nhau nói chuyện đạo lý, làm các việc Phật sự và thiện sự, đó chính là tự tạo cho mình một môi trường tốt bài trừ niệm ác, nẩy sinh niệm lành, niệm thiện. Một người làm thì khó, hay là mới bắt đầu làm thì khó. Nhưng nếu có tổ chức, nhiều người cùng làm và làm nhiều lần, thành quen, thành nếp thì công việc khó khăn mấy cũng sẽ hoàn thành tốt đẹp.

Có môi trường tốt rồi, có bạn bè tốt rồi, chúng ta còn phải nổ lực bản thân nữa.

Kinh An Trú Tầm (Kinh thứ 20, Trung Bộ Kinh 1), dạy chúng ta phương pháp nổ lực đúng đắn để nuôi dưỡng niệm lành, loại trừ niệm ác. Kinh An Trú Tầm nói có năm biện pháp tất cả:

-- Biện pháp thứ nhất: là lấy niệm lành xua đuổi niệm ác. Thí dụ, lấy niệm từ bi xua đuổi niệm sân giận Đức Phật dùng ví dụ người thợ mộc khéo, dùng một cái nêm hay (Ý nghĩ lành) đánh bật một cái nêm khác (ý nghĩ ác).

-- Biện pháp thứ hai: Là ngẫm nghĩ về hậu quả tai hại của niệm ác sẽ dẫn tới tội ác và sự trừng phạt. Cũng như một người quan sát thấy mình đang đeo xung quanh cổ một cái xác chó chết, sợ quá, liền vứt bỏ đi. Cũng như hiện nay, người nghiện thuốc lá suy nghĩ thấy hút thuốc có thể gây cho mình và con cái mình (ngửi khói thuốc) mắc bệnh ung thư, phát sợ bèn bỏ thuốc hút.

-- Biện pháp thứ ba: là cố gắng, quên niệm ác đi, đừng nghĩ tới nó nữa. Phật lấy ví dụ một người nhắm mắt để khỏi phải thấy một vật gì đó có thể thúc đẩy mình làm ác.

-- Biện pháp thứ tư: là hãy chận giòng niệm ác lại, để cho nó giảm bớt sức mạnh. Đức Phật dùng ví dụ một người đang chạy, chuyển sang đi, rồi chuyển sang đứng, rồi ngồi, rồi nằm. Tôi có thể lấy ví dụ hút thuốc để minh họa lời Phật. Một người nghiện, thấy bao thuốc lá cầm ngay lấy, rút thuốc đánh diêm châm, hít hai ba hơi luôn. Bây giờ thấy bao thuốc, khoan cầm lấy bao, và khi đã cầm lấy bao rồi, thì khoan rút điếu thuốc rqa, khoan châm diêm, hay là đã châm diêm rồi, thì khoan hít một hơi v.v... Bởi vì, mỗi khi dừng lại như vậy, chúng ta đều có thể phản tỉnh, nhớ đến lời dặn của thầy thuốc về thuốc lá gây bệnh ung thư như thế nào, lời nhắn của vợ hút thuốc tốn tiền như thế nào v.v... nhờ vậy, có thể ngăn không hút thuốc nữa.

-- Biện pháp thứ năm: là dùng ý chí, nghị lực khống chế niệm ác, không cho nó sanh khởi, Phật ví dụ một người khoẻ vật ngã một người yếu.

Trên đây là năm biện pháp khống chế và loại trừ niệm ác, được Đức Phật giảng trong Kinh "An Trú tầm". Đó là những lời dạy thiết thực và cụ thể, mọi người đều có thể áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Một điều chúng ta cần ghi nhớ là tất cả các niệm đều vô thường, dù ác hay thiện, nếu nó không được nuôi dưỡng bằng những niệm tương ứng và nhất là việc làm tương ứng. Tôi lấy ví dụ niệm hút thuốc của người hút thuốc lá. Niệm hút thuốc đó được nuôi dưỡng bằng những niệm như là hút thuốc là vô hại, hút thuốc thêm sáng kiến, hút một điếu có thể giảm thọ vài ba giây nhưg cười một tiếng lại tăng thọ bảy giây v.v.. Nếu chúng ta không nuôi dưõng niệm hút thuốc bằng những niệm như vậy, trái lại chống đối nó, bài trừ nó bằng những niệm như hút thuốc gây bệnh ung thư, hút thuốc hại phổi, hút thuốc tốn tiền v.v.. thì niệm hút thuốc có thể dần dần không còn chi phối chúng ta như trước nữa. Và chúng ta có thể tiến tới bỏ thuốc lá mà không gặp khó khăn gì.

Một điều nữa, chúng ta cũng cần ghi nhớ là niệm thiện nói chung mạnh hơn niệm ác, cũng như ánh sáng mạnh hơn bóng tối vậy. Niệm ác sỡ dĩ chi phối chúng ta được là vì chúng ta không biết nó là ac. Nếu nhận mặt nó được là ác, thì tự nhiên nó sẽ tan biến đi. Chính vì vậy, mà Kinh sách Phật khuyên chúng ta nên luôn luôn chánh niệm tỉnh giác, biết rõ mình đang nghĩ gì, nói gì, làm gì và ý nghĩ đó, lời nói đó, việc làm đó là thiện hay bất thiện, đem lại an lạc hay đau khổ cho mình và cho người. Có người nghĩ ác mà không biết mình là ác. Con người như thế rất khó tu tập bỏ ác làm lành. Cũng như có người làm điều thiện mà không biết mình làm điều thiện thì cũng rất khó tăng trưởng điều thiện.

Cuộc sống của người Phật tử phải là một cuộc sống tỉnh táo, biết thiện là thiện để phát huy điều thiện vốn có, học những điều thiện mình chưa có. Đồng thời cũng phải biết ác là ác thì mới loại bỏ điều ác mình đã phạm và phòng hộ những điều ác chưa sanh khởi. Nói tóm lại, tăng điều thiện vốn có, học những điều thiện chưa có, bỏ điều ác vốn có, tránh điều ác chưa có: đó phải là nếp sống tinh tấn của mọi Phật tử chúng ta.

(HT. Thích Minh Châu)

Thursday, August 29, 2013

6. THIẾU NIÊN ĐẮM MÊ TRANG WEB SẮC TÌNH PHƯỚC THỌ GIẢM HẾT, LÚC CHẾT CHỈ 20 TUỔI!

6. THIẾU NIÊN ĐẮM MÊ TRANG WEB SẮC TÌNH PHƯỚC THỌ GIẢM HẾT, LÚC CHẾT CHỈ 20 TUỔI!


[Giới thiệu (XIN ĐỌC TRƯỚC KHI XEM): Nam Mô A Di Đà Phật. Bài này trích từ quyển sách "ÂM LUẬT VÔ TÌNH" nói về những cảnh trừng phạt tại địa ngục do bà Thượng Quan Ngọc Hoa nương nhờ Phật lực nhiều lần đi xuống địa ngục xem mà viết lại. Những ai không tin tưởng tôi tha thiết xin quý vị cũng đừng buông lời phỉ báng, chê cười, bởi vì đây là vấn đề Nhân Quả rất thâm trọng, hiểu biết bình thường của chúng ta không biết hết được. Quý vị không thích có thể không xem, nhưng xin đừng phỉ báng, cũng là để tránh tổn hại cho các vị vậy. Thành tâm mong cầu quý vị hoan hỉ! Nam Mô A Di Đà Phật]

Cảm ân chư Phật Bồ Tát! A Ngọc ngồi hoa sen trắng xuất phát.

Phán Quan, A Di Đà Phật! A Ngọc hợp chưởng hành lễ!

Hôm nay Phán Quan dẫn tôi đi tham quan tà dâm điện quang nhãn địa ngục. Địa ngục này là dành cho người lúc sống thích xem sách truyện hay trang web sex, mạng chung vào địa ngục thọ báo. Chúng sinh đến địa ngục này sẽ căn cứ vào mức tuổi và mức độ xem mà định phán hình, ít nhất là 50 năm, số tuổi càng trẻ phán tội càng nặng.

Đa số người sau khi xem trang web sex đều sẽ tiếp tục phạm nhiều loại tà dâm khác, như thủ dâm hoặc phi thời, phi địa, phi khí tà hạnh, thậm chí dùng công cụ trợ dâm. Xem loại sách sắc tình này sẽ nghiêm trọng phá hoại bản tánh tốt lành của con người, đặc biệt là thiên tính thuần tịnh thuần dương của trẻ nhỏ, người trưởng thành cũng không được xem huống chi là trẻ vị thành niên.

Hiện tại nhân gian có rất nhiều thanh thiếu niên đều lên mạng xem những trang web sex. Bất cứ người nào đắm mê sắc dục đều sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển tốt lành của tâm linh. Con người mỗi ngày đều phải nhờ vào ý niệm tư duy để sống. Ý niệm tư duy sẽ thúc đẩy hành vi, hành vi tạo thiện ác nghiệp, thiện ác nghiệp quyết định vận mạng, vận mạng tạo thành nghiệp lực, nghiệp lực sản sanh phải thọ báo.

Thường xuyên xem trang web sắc tình, tư duy của con người sẽ hôn trầm, xử lý mọi việc không tinh tế; đặc biệt là trẻ nhỏ bị ảnh hưởng rất nhiều, đoạn mất cơ hội tu hành giải thoát. Trên đầu chữ sắc là một con dao, cổ kim đã có biết bao danh nhân tướng sĩ không qua nổi cửa ải này.

Phán Quan nói: “Mỗi lần xem sách hay trang web sex sẽ bị giảm phước thọ, sau đó phạm tội tà dâm khác lại cũng giảm phước thọ, cũng như là mãn tính tự sát.”

“Hiện tại nhân gian khoa học phát đạt, trẻ nhỏ đều dùng máy vi tính, có rất nhiều đứa trẻ nhỏ xem trang web sex. Có một vài phụ huynh không biết, vì bản thân phụ huynh không biết sử dụng máy vi tính, mặc cho con em tự học vi tính mà không quan sát, mỗi ngày làm việc lại rất bận rộn, căn bổn là không có thời gian quan tâm đến con em. Hoặc là kinh tế tốt một chút thì thuê người giữ con, người làm thì không nhất định sẽ chăm sóc chu đáo, do đó những phụ huynh này sẽ bị giảm phước, không thể nói không biết mà không quan tâm, nuôi mà không dạy là lỗi của cha mẹ. Cha mẹ cần phải quan tâm nhiều đến việc giáo dục con cái lành mạnh trưởng thành. Cho đến có một số cha mẹ rõ ràng biết như vậy nhưng không ngăn cản hoặc xem như là giáo dục giới tính mà buông thả cho trẻ nhỏ xem. Có người lại nói thời đại không như trước rồi, hiện tại là thời đại mở thoáng, tại trường học cũng có khóa trình học giáo dục giới tính cho trẻ nhỏ, đó là quan điểm sai lầm nghiêm trọng. Minh phủ hy vọng lần này mượn cơ hội A Ngọc tham quan địa ngục, sau khi về nhân gian kêu gọi chúng hữu tình cải tà qui chánh, quí trọng nhân gian mấy chục năm sinh sống, cố làm nhiều việc lợi lạc thế đạo nhân tâm, đừng làm những việc hại người hại mình; nếu không một khi nhắm mắt sẽ đến đây gặp ta đấy!”

Đã nghe thấy tiếng thảm kêu, thì ra là chúng sinh trong điện quang nhãn địa ngục đang thọ cực hình. Trong địa ngục này thiết lập rất nhiều máy vi tính lớn có nhiều cơ quan, mỗi hồn một cái máy vi tính; trong máy tính có hình để xem, mỗi hồn đều đang xem máy tính của mình; không xem thì thôi, một khi xem thì lớn tiếng thảm kêu.

Có hồn nam rất trẻ, chỉ 20 tuổi; máy tính của nó phóng ra móc câu điện quang màu đỏ móc vào 2 mắt của nó, kéo xé hai con ngươi ra ngoài, máu đỏ đầy đất, nam hồn có vẻ cực kỳ đau khổ bi ai! Đây là quả báo của việc xem phim sách hay tiểu thuyết sex trên mạng.

Phán Quan nói, nam hồn này đã xem những trang web sắc tình từ nhỏ, không những thế mà còn thủ dâm; vì phạm ở mức độ cao nên phước báo cả đời gần như giảm hết mà đọa vào địa ngục này, cha mẹ của nó tại nhân gian còn đang kêu khóc con mình.

Bên cạnh có tội hồn ngồi trên một cái ghế xem sách sắc tình, giống như trường hợp móc mắt lúc nãy nhưng tốc độ thọ hình chậm hơn. Tôi xin thỉnh giáo Phán Quan vì sao thọ hình tốc độ lại có sai khác vậy?
Phán Quan nói: “Nhân vì khi xem trang web sex, thường xem được số lượng nhiều trong thời gian ngắn, thời gian xem cũng tương đối dài, còn xem sách hình hay tiểu thuyết sắc tình, chỉ giới hạn trong vài quyển thôi. Nếu như chúng sanh lúc còn sống có xem mà sau này giác ngộ sám hối không tái phạm nữa, đồng thời cố gắng tuyên truyền sách thiện này, khuyên bảo chúng sinh không được xem những trang web, đĩa, sách sex nữa, dùng tiền của mình tận lực mua sách đĩa sex đem thiêu hủy hết, lấy công chuộc tội thì miễn chịu địa ngục khổ báo.”

Phán Quan nghiêm khắc nói: “Những chúng sinh thọ báo tại địa ngục điện nhãn quang, thường thì phải tiếp tục thọ hình tại những địa ngục khác. Phạm thủ dâm, phạm phi thời, phi địa, phi khí đẳng tội, sau khi chết quyết định sẽ bị đánh vào các ngục nuốt viên đồng, ôm trụ đồng, khói hoa lăn lộn và nhiều đủ loại địa ngục khác nữa thọ hình.”

Hôm nay tạm thời đến đây, bái biệt Phán Quan!

A Ngọc hợp chưởng hướng Phán Quan hành lễ, cảm ân Phán Quan! Ngồi hoa sen trắng quay về.

Trang web sắc tình và đĩa phim sex đúng là hại người không ít, mùi máu tanh trong các loại đại địa ngục làm A Ngọc khó lòng chịu đựng. Tham quan các loại đại địa ngục thấy nhiều tội hồn bị quỷ tốt chặt đầu chặt tay, xẻo thịt cắt chân, rên la thảm thiết trong máu tanh thật kinh hoàng, A Ngọc sau khi về nhà, trong lòng cũng phải điều chỉnh một phen mới hồi phục bình thường lại được!

7. THỦ DÂM TRỪNG PHẠT THẢM THIẾT - ĐỊA NGỤC ĐIỆN NHÃN THIẾT HOÀN

Cảm ân chư Phật Bồ Tát! Ngồi hoa sen trắng xuất phát.

Phán Quan, A Di Đà Phật! A Ngọc hợp chưởng hành lễ!

Hôm nay Phán Quan dẫn tôi đi tham quan tà dâm địa ngục, điện quang thiết hoàn địa ngục.

Điện quang thiết hoàn địa ngục là dành cho những người đắm mê những trang web sex, hình ảnh sắc tình, sách báo sex và vừa xem vừa thủ dâm, mạng chung vào địa ngục này thọ phạt, thời gian là 800 năm; sau đó xem xét linh thức chuyển hóa như thế nào để quyết định có thọ phạt tại đây nữa không.

Lúc trước có nói, mỗi lần xem sách báo sắc tình thì bị giảm phước thọ 1 tháng; trừ lần đầu giảm phước thọ nửa tháng ra, những lần sau đều giảm 1 tháng. Nếu như xem thường xuyên lại thủ dâm thì chắc chắn phước báo một đời mau chóng hết sạch rồi.

Địa ngục này bên cạnh điện quang nhãn địa ngục, so với điện quang nhãn địa ngục khổ hơn ngàn vạn lần. Ở đây hầu như đa số đều là thanh thiếu niên. Oa! Thật tội nghiệp, đứa nào cũng rất nhỏ tuổi. Nhớ lại bản thân mình vào độ tuổi này còn đi học ở trường ngu khờ biết mấy, cái gì cũng không biết, tại sao chúng nó có trường không học mà chạy tới đây thọ hình vậy, chỉ một chữ, thật đau lòng! Những đứa trẻ nhỏ phải biết giữ mình trong sạch, địa ngục thật khổ lắm khổ lắm vậy, đừng có bao giờ đến đây, ở nhân gian cố gắng đi học tu hành, quí trọng cuộc đời tươi đẹp này.

Ở đây phát hiện có một nam sinh trung học thật quen mặt, gặp qua ở đâu vậy? Ah, nghĩ ra rồi, đại khái là nửa năm trước nhìn thấy di ảnh của nó tại tang đường. Nửa năm trước tôi xử lý tang sự của người thân, linh đường của nó ở kế bên, lúc đó linh đường bên chúng tôi vì nhiều người, trẻ con nhiều, cảm giác rất náo nhiệt; còn bên linh đường của nó thì thật lạnh lẽo, chỉ có cha mẹ và hai, ba người thân. Lúc đó, thân thuộc chúng tôi bên đây nghị luận đứa trẻ này nhỏ như vậy, không biết xảy ra chuyện gì. Cha mẹ rất thảm sầu, mẹ của nó rất đau lòng, tôi chỉ có thể hướng về di ảnh của nó niệm vài câu A Di Đà Phật hồi hướng, không ngờ lại gặp nó tại địa ngục, mạng người thật vô thường!

Nghe Phán Quan nói, cha mẹ đứa trai nhỏ này chỉ có một mình nó, lúc sống nó mê đắm những trang web sex, sách báo sắc tình, lại còn nhiễm thói ác thủ dâm, lại dùng công cụ tự mình sáng tạo ra trợ dâm. 6 tuổi bắt đầu thủ dâm, 10 tuổi đã hư thận; mẹ của nó dẫn nó đi khắp nơi trị bệnh, uống rất nhiều thuốc đông y, đi đường giống như ông già dùng gậy chống; vì nó không biết quí trọng sinh mạng, quí trọng sức khoẻ, trong thời kỳ uống thuốc lại tiếp tục thủ dâm, do đó 12 tuổi phước báo mất hết bị đánh vào địa ngục điện nhãn thiết hoàn thọ phạt 800 năm.

Tôi thấy bên cạnh nó có hình cụ máy tính và rắn lửa bám vào thân nó. Trong máy tính phóng ra móc câu hồng quang móc mắt nó, máu huyết bay tung; rắn lửa bám vào, hình như là sờ mó bộ phận sinh dục của nó rồi lập tức cắn đứt, lại là máu phun đầy đất. Trong khi nó chưa kịp phản ứng thì có hai con sói dữ đến cắn xé nó, cắn đứt hai tay nó, thật là thê thảm quá! Đúng là cực hình trong cực hình, rất đau khổ khó chịu.

Tôi hỏi Phán Quan, tại sao trong một lúc chịu nhiều loại hình phạt như vậy? Sao không để nó lành đôi mắt rồi mới thọ hình rắn lửa và chó sói.

Phán Quan nói: “Đây tuyệt đối không thể phân ra thọ chịu, nhân vì lúc còn sống hắn vừa xem vi tính vừa thủ dâm, sau đó lại dùng công cụ tự chế phạm tà dâm lần nữa, do đó mà hắn rất mau đến địa ngục thọ báo vậy. Sau khi thọ báo ở đây xong, hắn còn phải đến đại địa ngục kêu la tiếp tục chấp hành hình phạt. Do hắn phạm phải thủ dâm sớm ngày tiêu trừ hết phước báo, làm cha mẹ đau buồn thương tâm, người tóc bạc đưa người tóc đen, là mang tội bất hiếu mà chịu hình phạt này. Hiện tại người ở nhân gian, tuổi đời nhỏ nhỏ, đã không giữ lễ nghĩa; đối với song thân ngỗ nghịch trả treo, mở lời nhục mạ, càng tay đấm chân đá, hành vi còn thua loài cầm thú hạ đẳng. Ở giữa trời đất là kẻ đại bất hiếu, sau khi chết phải đến đây thọ phạt, tẩy rửa linh thức, tịnh hóa nguyên thần, đến khi thật lòng sám hối sửa lỗi.”

“Hôm nay đến đây chấm dứt, bổn quan còn công vụ tại thân, ngày khác lại đến.”

“A Ngọc bái biệt Phán Quan, đa tạ Phán Quan!”

8. DƯƠNG THỌ CHƯA HẾT ĐÃ CÂU BA HỒN!

Cảm ân Phật lực gia bị! Ngồi hoa sen trắng xuất phát.

A Di Đà Phật! A Ngọc hướng Phán Quan hành lễ.

Hôm nay Phán Quan dẫn tôi đi tham quan địa ngục tội tà dâm, địa ngục roi trượng. Sao gọi là địa ngục roi trượng? Tức là chúng sinh phạm tội tà dâm mà dương thọ chưa hết, một bộ phận thần thức của họ bị quỉ sai nơi địa phủ bắt đến địa phủ chịu trừng phạt. Người có ba hồn bảy vía, quỉ sai bắt ba hồn của tội linh hành hình. Chúng sinh nhân gian cảm thấy đau đầu chóng mặt rất hôn hôn trầm trầm, có người cảm thấy bị đánh trong lúc mơ hồ; nhưng đa số bọn họ đều nghĩ rằng mình bị ác mộng, nghiêm trọng thì bị sốt nằm trên giường thiếp đi. Đến khi thọ hết hình phạt về đến dương gian, có người thấy toàn thân đau đớn, cảm giác đau đến thấu xương.

Cái địa ngục roi trượng này, thật là quá lớn! Có thể nói nhìn không thấy nơi tận cùng; giống nhân gian nhìn biển lớn vậy, không thấy nơi chấm dứt ở đâu, là địa ngục lớn nhất tôi nhìn thấy từ trước đến giờ. Trong roi trượng địa ngục này có rất nhiều người không cùng một quốc gia, như Trung Quốc, Anh, Mỹ, Pháp, Nhật Bổn, Thái Lan, còn có Ấn Độ, Phi Châu, Pakistan v.v... rất nhiều quốc tịch khác nhau. Có một điều thật không may là lại có rất nhiều vô số thanh thiếu niên và trẻ nhỏ trong ngục chịu trừng phạt.

Tôi xin hỏi Phán Quan sao lại có nhiều người như vậy? Cái địa ngục này sao lớn đến kinh dị như vậy?

Phán Quan nói: “Chính vì khoa học phát đạt, nhân gian phát minh máy vi tính, số lượng trang web sex kinh người đã đầu độc ô nhiễm thanh thiếu niên và trẻ nhỏ, bọn họ đều đang phạm tà dâm tạo nhân địa ngục, con số những chúng sanh bất thiện này không gián đoạn vượt thăng lên, do đó Phật đặc biệt phái ngươi đến địa ngục tham quan, quay về hãy cáo giới chúng sanh cần giữ ngũ thường bát đức; đặc biệt là người trẻ tuổi, đừng nghĩ là những thứ này đã cũ rích rồi mà phải giữ mình trong sạch, cải tà qui chánh, bỏ ác tòng thiện, nếu không sau này khó thoát khổ hình địa ngục, đến lúc đó hối tiếc cũng quá muộn rồi!”

Lúc này, tôi thấy chúng sanh tại địa ngục roi trượng, toàn bộ bị quỉ sai lấy roi trượng đánh đập. Quỉ sai ở đây một mực cầm roi trượng đánh tội hồn, tội hồn đau quá kêu oa oa, tiếng kêu lớn cứ như sóng lan từ chỗ này đến chỗ khác. Bị đánh là để tội hồn phản tỉnh lỗi lầm của bản thân, số ít tội hồn sau khi tỉnh dậy sẽ thay đổi lỗi cũ, nhưng đa số tội hồn sau khi về nhân gian lại tiếp tục phạm lỗi.

A Ngọc xin thỉnh giáo Phán Quan, làm sao để chúng sinh dương gian tin tưởng “Âm Luật Vô Tình”, bộ sách trước tác muôn nghìn lần chân thật về tình trạng địa ngục hiện nay? Nhân vì có một vài người có thể nói A ngọc tự mình hoang tưởng hoặc hư cấu viết ra, giống tiểu thuyết vậy, thật khó làm người ta tin vậy.
Phán Quan nói: “Trong âm thầm tất cả đều có nhân quả, không phải nhìn không thấy thì cho là giả. Chúng ta mỗi một người đều không thể thấy mẹ mình sinh ra mình nhưng đây là sự thật chắc chắn, không nhìn thấy không có nghĩa là không tồn tại. Trên đầu ba tấc có thần linh, trong đại thiên thế giới này có quá nhiều sự vật mà chúng ta nhìn không thấy, nhưng chúng và cuộc sống của chúng ta có quan hệ mật thiết, tương quan từng chút, chỉ có điều chúng ta không phát hiện ra sự tồn tại của Phật Bồ Tát và quỉ thần thôi. Cơ duyên và phước báo của mỗi người không giống nhau, sở cảm thọ và kinh nghiệm qua cũng không giống; thiện ác nhân quả như bóng theo hình, không phải không báo, thời gian chưa đến thôi, lưới trời lồng lộng tuy thưa mà khó thoát. Lần này A Ngọc con đến tham quan tình hình các đại địa ngục, cũng phải qua sự chọn lựa an bày của Phật; con có đủ tư cách gánh vác sứ mệnh này như một đệ tử Phật giữ giới, cố gắng hoàn thành tốt thiện hạnh lợi lạc chúng sanh này.”

Đa tạ Phán Quan khích lệ, A Ngọc nhất định tận dụng hết khả năng hoàn thành nhiệm vụ thần thánh này.
Lúc này, tôi nhìn thấy có vài quan viên địa phủ hướng về roi trượng địa ngục đi đến. Oa! Thì ra là Diêm Vương đến rồi, A Ngọc hợp chưởng hướng Diêm Vương hành lễ! Thì ra địa phủ phải xây lớn thêm địa ngục roi trượng, Diêm Vương đến để xem xét thực tế. Diêm Vương đang mật thiết quan tâm đến thanh thiếu niên tại nhân gian phạm tội tà dâm, một vấn đề lớn của xã hội, hiện tại phát hiện không chỉ đơn giản là vấn đề của nhân gian mà địa phủ cũng bị liên lụy, càng phải xây lớn thêm. Tôi kinh ngạc nói: “Hiện tại tầng địa ngục này đã lớn đến không biên giới rồi mà còn phải xây thêm à?”

Diêm Vương nói: “Nhân vì dương gian không ngừng có thanh thiếu niên mới gia nhập vào hàng ngũ phạm giới tà dâm, bọn họ xem trang web sex, đĩa phim sex, sách báo sex, thủ dâm v.v...; nhưng dương thọ bọn chúng chưa hết, mà vấn đề này lại làm tổn thân bại đức, như thế nên trừng phạt nghiêm khắc. Nhân gian không có pháp luật nào trừng phạt vấn đề nghiêm trọng này, chỉ có bổn vương phải xây thêm địa ngục, bắt hồn sống đến liễu trừ nhân quả. Địa phủ chúng tôi luôn phải xây thêm trong mấy năm nay, lượng công việc một mực gia tăng; trước mắt cái địa ngục roi trượng này tương đối là quá nhỏ vậy, làm sao có thể chứa đựng đủ số lượng tội hồn đổ vào mỗi ngày. Bổn vương nói cho ngươi biết, tại dương gian tuân thủ pháp luật, giữ Phật giới luật hay người đại thiện, địa phủ câu hồn họ không được; chỉ có kẻ phạm qua giới luật và phạm pháp thì nhất định không thoát khỏi quyển sổ ghi lại thiện ác sinh tử của bổn vương. Pháp luật dương gian dễ chạy thoát nhưng âm luật thì không cách gì thoát được; nhân như vậy quả như vậy, cho dù chân trời gốc bể, âm phủ quỉ sai đều sẽ moi tìm ra, trừ khi ngươi không phạm giới, phạm tội. A Ngọc con nên làm tốt công việc truyền pháp, lần này luật địa phủ mở một đường, tiết lộ tận thiên cơ, cho người đời biết được chân tướng địa ngục, mục đích là hy vọng chúng sinh có thể từ mê lầm mà quay đầu, hành thiện tích đức, nhờ thế mà giảm trừ dương thế các loại đại tai nạn do nghiệp ác lớn, để miễn sinh linh đồ thán. Con về phải khuyến cáo đại chúng cần giữ ngũ thường bát đức, đừng phạm quốc pháp, hiếu thuận cha mẹ, tôn kính sư trưởng, giữ gìn lễ tiết, đừng tạo nhân quả địa ngục. Được rồi, bổn vương còn công sự tại thân, con mau về dương gian đi.”

Cảm ân Diêm Vương! Cảm ân Phán Quan! A Di Đà Phật!

9. PHÁN QUAN NGHIÊM TÚC TRẢ LỜI: “MINH VƯƠNG ÂM TY THẤY DƯƠNG GIAN ĐÃ PHÓNG RA TÀ KHÍ KHÔNG CÒN CHỊU ĐỰNG ĐƯỢC NỮA RỒI!”

Cảm ân chư Phật gia trì! Xém một chút là hôm nay không viết được rồi. Mấy ngày nay có rất nhiều chướng ngại đến cản trở A Ngọc đi địa ngục, đúng là đợt này chưa dứt lại đến lượt khác. Đầu tiên là máy tính xảy ra sự cố đánh chữ không được, sau đó lại có phi nhân nhân dịp tôi ngủ đến quấy nhiễu để tiêu hao nguyên khí của tôi, A Ngọc lúc này bắt đầu cảm thấy sốt và đau đầu, rất mệt mỏi. Sáng hôm nay là đã thuộc vào trạng thái cảm mạo rồi, mỗi khi bị cảm tôi đều tinh tấn niệm chú thì ít nhất 7 ngày mới khoẻ, nếu không cũng nửa tháng mới được.

Lúc nãy tôi dùng niệm lực nói với bản thân hôm nay nhất định không được ngã bệnh, địa ngục nhất định cần phải đi, văn chương nhất định phải viết, tin rằng bản thân nhất định được. Vì thế ngồi xuống bắt đầu niệm chú Khổng Tước, đại khái qua 30 phút sau, hết sốt rồi, không còn chảy nước mũi nữa, cổ họng bắt đầu không còn đau nữa, đầu cũng không nhức nữa, cảm mạo đã bắt đầu chuyển sang nhẹ dần, vô hạn cảm ân sự gia trì của Khổng Tước minh vương và thập phương chư Phật. A Ngọc nhất định tận lực làm tốt phần công việc thần thánh này để báo đáp ân Phật! Nếu không sẽ phụ lòng chư Phật gia bị!

Ngồi hoa sen trắng xuất phát. Phán Quan, A Di Đà Phật!

Hôm nay Phán Quan dẫn con đi tham quan một địa ngục tà dâm - địa ngục âm hồn kiếm hoa.

Xin hỏi Phán Quan: “Tại sao gọi là địa ngục âm hồn kiếm hoa?”

Phán Quan nghiêm túc trả lời: “Địa ngục này là dành cho chúng sinh dương thọ chưa hết, tại dương gian đắm mê thủ dâm, tà dâm; nam thì mỗi ngày hoặc thường xuyên cố ý thay đổi bạn gái hay người tình mà còn dương dương tự đắc, nữ thì mỗi ngày hay thường xuyên cố ý thay đổi bạn trai hay người tình mà còn cho là rất hay. Loại phạm giới tà dâm này, đắm chìm trong tà dục, nghiêm trọng phá hoại sự quân bình chánh khí âm dương của trời đất. Tại vì mỗi khi hành dâm, tư tưởng của chúng sinh sẽ phát tỏa ra rất nhiều khí tà dâm dục vọng, loại tà khí này sẽ hấp dẫn các loại quỉ và tinh linh v.v... đến, âm thầm làm tổn thương người hành dâm mà không biết; khi loại tà khí này quá nhiều quá thịnh, làm hình thành một luồng cực độ lớn mạnh thế lực rồi thì nhân gian tất sẽ xuất hiện vô số các loại tai nạn để làm quân bình.

Nhân loại nghiêm trọng phá hoại pháp tắc tự nhiên của vũ trụ, dương gian vì không pháp luật xử lý, có vài quốc gia phương tây pháp luật lại tán thành sống chung hợp pháp v.v...; người quy định loại pháp luật như vậy phải chịu vô lượng vô biên quả báo địa ngục, đợi khi loại pháp luật này hoàn toàn chấm dứt tại nhân gian mới kết thúc nghiệp quả địa ngục. Đúng như câu nói Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả; chúng ta cần phải làm mọi việc phù hợp với nhân quả mỗi ngày, cẩn thận gieo nhân một chút để khỏi trả ác báo kiếp sau. Âm ty minh vương thấy dương gian đã phóng ra tà khí hết chịu được rồi, đa số là do những thanh thiếu niên vị thành niên tạo ra ác nghiệp. Do đó minh vương ta lại phải cho xây thêm rất nhiều địa ngục mới để trừng phạt loại chúng sinh phạm giới mà chưa hết dương thọ này, hy vọng mượn việc bắt hồn sống của người dương vào địa ngục trừng phạt để cảnh cáo người đời, tiêu đi tội nghiệp của chúng, lại có thể giảm ít đi thời gian thọ hình tại địa ngục sau khi chết.”

Đa tạ Phán Quan vì A Ngọc giải thích tường tận, lại học hỏi được rất nhiều, đúng là phải cám ơn Phán Quan!
Khi tôi đi đến địa ngục âm hồn kiếm hoa, nhìn thấy ngục này rất rộng lớn, thì ra trong ngục có rất nhiều trẻ nhỏ, đặc biệt là các nước phương tây đều cùng nhau thọ hình, thật là rất nhiều vậy! Như nước Anh, Mỹ, Pháp, Trung Quốc cũng có, nói chung là tất cả loại người khác quốc tịch đều có đủ.

Đúng ngay lúc này, tôi thấy rất nhiều linh thể đứa trai nhỏ bị quỉ sai lôi ra ngoài, bị một loại hình cụ như hoa sắt đánh vào bộ phận sinh dục, đánh làm chúng nó đau khổ kêu to, máu tươi tuông ra, xem có vẻ kinh tâm động phách; còn nữ thì dùng hoa sắt đã nung đỏ đút vào phần dưới, đau đến nỗi lăn lộn trên đất, kêu gào khóc than. Ở đây quá nhiều phạm nhân, tiếng khóc kêu vang trời, tôi nghe thấy rất khó chịu, xem một chốc liền rút lui, trong lòng rất khó chịu; nếu không phải vì khuyên đạo người đời mà tận sức, A Ngọc tuyệt đối không muốn đến đây!

Chúng sinh tại dương gian chịu hình phạt này, bọn họ cảm thấy như phát sốt, nằm trên giường mơ mơ hồ hồ trong hôn mê, nhân vì ba hồn trên người bị bắt đi vào địa ngục, do đó loại người này không cách nào có cuộc sống bình thường. Có một số người cho rằng mình đang gặp ác mộng nhưng đau khổ hơn gặp ác mộng; đa số có thể cảm giác sự đau khổ trên nhục thể, đặc biệt là phần dưới rất đau, cảm giác khó chịu đau mãnh liệt; số ít người sau khi thọ hình phạt địa ngục sẽ bị sự đau đớn của nhục thể cảnh tỉnh mà thay đổi. Phán Quan nói, Diêm Vương địa phủ rất coi trọng vấn đề xã hội này, thọ hình là để ngăn cản phong khí bất lương tiếp tục lan tỏa hòng tránh khỏi tai nạn nghiêm trọng tại dương gian.

A Ngọc xin thỉnh giáo Phán Quan: “Tại sao hình phạt trong các loại địa ngục tà dâm lại hiện đại hóa như vậy, vừa có hình cụ máy vi tính, gương phóng băng v.v...?” Phán Quan nói: “Địa ngục là nơi phản ảnh của nhân gian, chỉ cần chúng sanh tại nhân gian phạm giới với các vật hiện đại thì địa ngục lập tức xây thêm hình cụ như vậy để trừng phạt chúng. Hiện tại kỹ thuật chỉnh hình tại dương gian rất tiên tiến, chỉ cần tốn một ít tiền bạc thì lúc nào cũng có thể thay đổi từ đầu tới chân mà không ai biết được, tại dương gian có thể che đậy chốn chạy, nhưng đối với âm luật thì đừng nói là thay đầu đổi mặt, dù cho đầu thai chuyển kiếp bao nhiêu lần cũng sẽ bị minh vương ta lập tức áp giải về thọ hình. A Ngọc con quay về cố gắng khuyên bảo chúng sanh nhân gian, cần phải tuân thủ pháp luật, hiếu thảo cha mẹ, tuân hành nhân nghĩa lễ trí tín, đừng nói đây là đồ cổ không có ý nghĩa gì mà là điều rất quan trọng để cân bằng pháp tắc cho trời đất thường vận hóa, ai không tuân thủ thì sẽ bị tự nhiên đào thải và nhân quả trừng phạt. Được rồi! Hôm nay đến đây là đủ, con hãy ra về, lần sau tiếp tục.”

A Ngọc đảnh lễ bái biệt Phán Quan!

10. TỀ LUÂN LANG XÀ ĐỊA NGỤC

Cảm ân Phật lực gia bị! Nói đến cảm ân thì thật là nhiều vậy!

Cảm ân Phật! Cảm ân Phật đã để lại vô thượng đại pháp kinh điển!

A Ngọc rất thích kinh Phật, đặc biệt rất thích trực tiếp nghiên cứu kinh điển gốc; cứ như là tận mặt tham dự pháp hội nghe Phật khai thị vô thượng thậm thâm bồ đề pháp âm ở 2500 năm trước tại núi Linh Thứu Ấn Độ, loại cảm giác đó, văn tự không diễn tả được. Mọi người tốt nhất nên nghiên cứu kinh điển gốc, có quá nhiều đạo lý nhân sinh thâm diệu đều có đáp án trong kinh điển.

Phật trong tất cả kinh điển đều dạy chúng ta làm cách nào làm tốt bản thân. Giữ giới là gieo nhân bồ đề, tu lục độ vạn hạnh, những chi tiết tinh tấn tu hành cho đến khi chứng được vô thượng chánh đẳng bồ đề đều được nói rất kỹ càng. Lúc ban đầu có thể có một vài vị sư huynh không hiểu ý nghĩa kinh điển, thật ra không sao, chỉ cần mỗi ngày kiên trì đọc kỹ, nhất định sẽ từ từ bắt đầu hiểu, quan trọng nhất là mỗi ngày đều phải đọc. A Ngọc lúc ban đầu đọc kinh, mỗi lần đọc thì cảm thấy rất thù thắng; nhưng sau đó lại quên sạch sẽ, trong đầu chỉ cảm thấy rất thù thắng, còn nội dung nói gì thì diễn tả không được, nghiệp chướng nặng quá! Nhưng vì tôi yêu thích kinh điển, cho dù quên đi cũng phải đọc mỗi ngày. Cứ như thế, thời gian qua vài năm sau, phát hiện bản thân bắt đầu nhớ được một ít hay trong thời kỳ không gian khác nhau tự nhiên có thể lãnh ngộ một số đạo lý, do đó kiên trì rất quan trọng; nguyện đại chúng quí trọng thân người lúc khỏe mạnh cần nên đọc tụng kinh điển cho nhiều. Đời người vô thường, một hơi thở chấm dứt thì thành kiếp sau rồi. Nếu như muốn báo Phật ân thì cần phải tu hành giữ giới, mới là đệ tử Phật chân chính! Mọi người cùng nhau nỗ lực tinh tấn giữ giới!

Ngồi hoa sen trắng xuất phát! A Di Đà Phật! A Ngọc hướng về Phán Quan hành lễ!

Phán Quan hôm nay dắt tôi đi tham quan địa ngục tề luân lang xà. Những chúng sinh đến địa ngục này thọ hình là do lúc còn sống thích, nam thì cùng hai người nữ hành dâm trong một lúc, nữ thì cùng hai ngươì nam hành dâm trong một lúc. Đến rồi, lại nghe tiếng thảm kêu kịch liệt!

Xem thấy một vị nam tử, hắn lõa lồ bị trói buộc trong một cái bánh xe biết chuyển động. Hai bên bánh xe là hai con rắn mềm uốn bám vào hắn; một con màu đỏ, con kia màu xanh đậm. Một con rắn bám chặc không buông, đầu rắn cắn vào mặt, tai, một miếng lại một miếng cắn xé, máu tươi đầy đất; con còn lại cắn vào hạ bộ của hắn, người nam này có vẻ đau khổ cực độ mà rên la. Lại xem người nữ bên cạnh, cô ta cũng lõa lồ bị trói buộc trên một cái bánh xe biết quay, hai bên bánh xe là hai con sói sắt cực kỳ hung dữ cắn xé cô ta. Một con cắn xé bộ ngực của cô ta, con còn lại cắn vào bên dưới. Người nữ lớn tiếng kêu cứu nhưng không ai quan tâm, nói chung cảnh tượng rất máu lạnh. Hai người nam nữ lúc nãy tuổi đời mới khoảng 30 tuổi mà lại đọa địa ngục thọ báo, thật là thê thảm!

Phán Quan nghiêm khắc nói với tôi: “Loại chúng sanh này không những phá hoại linh tánh tự thân mà còn nghiêm trọng phá hoại phong khí xã hội, do đó địa ngục nhất định nghiêm trị; bọn họ cần phải thọ hình ở đây 500 năm, sau đó đưa vào các địa ngục khác chịu xét xử. Loại chúng sanh này càng ngày càng nhiều nên địa ngục này gần đây phải xây thêm, sau này con nên tới tham quan nhiều hơn. Ngoại trừ địa ngục tà dâm ra, còn phải tham quan ghi lại tình hình các địa ngục khác, mau chóng in ra sách đọc, lợi ích dương gian chúng sinh, làm mọi người có thể mau chóng bỏ ác sám hối, hành thiện tích phước, giảm thấp cơ hội vào địa ngục và tai nạn tại dương gian.”

Được rồi, Phán Quan, A Ngọc tuân mệnh! A Ngọc nhất định dốc hết sức hoàn thành.

Ngồi hoa sen trắng quay về.

(Trích "ÂM LUẬT VÔ TÌNH", Thượng Quan Ngọc Hoa)
(Link tải sách: http://www.mediafire.com/folder/klc5wxtl4lkj5/AM_LUAT_VO_TINH )
(Lưu ý: Nếu cần in ấn bạn nên tải thêm file ảnh Bia.jpg và Fonts.rar)

(Phần 1 đã đăng tại đây: https://www.facebook.com/photo.php?fbid=447109198741212&set=a.236962716422529.49544.236701986448602&type=1&theater )

Những ai đọc mà tin hiểu được thì nên vui mừng vì thiện căn phước đức của quý vị rất sâu dày. Quý vị nên cố gắng đọc lại nhiều lần để ghi nhớ, sửa đổi bản thân và phổ biến đến mọi người, nhất định được công đức vô lượng không thể nói hết!

Chư Phật, Bồ Tát thường âm thầm gia hộ, cứu độ tất thảy mà chúng sanh không hay biết!

Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô A Di Đà Phật

Học Phật cần thực hành Tụng Kinh, Trì Chú, Niệm Phật


Học Phật cần thực hành Tụng Kinh, Trì Chú, Niệm Phật

***********************
Người Phật tử, nếu chỉ thờ, lạy và cúng Phật, thì cũng chưa có thể gọi là thuần thành. Người Phật tử thuần thành còn phải tụng kinh, trì chú và niệm Phật. Vả lại nếu bỏ qua ba phần sau này, thì ba phần trước là thờ, lạy và cúng khó có thể viên dung cả Sự và Lý được. Vì phần Lý là phần cao siêu khó thực hành, mà nếu chúng ta không tụng kinh, niệm Phật để cho tâm hồn được sáng suốt, tỏ ngộ các lý lẽ sâu xa huyền diệu trong kinh đìển, thì chúng ta không làm thế nào để đạt được 4 phép lạy thuộc về Lý là: Phát trí thanh tịnh lễ, biến nhập pháp giới lễ, chánh quán lễ, thật tướng bình đẳng lễ và 5 món diệu hương để cúng Phật là: Giới hương, Ðịnh hương, Huệ hương, Giải thoát hương, Giải thoát tri kiến hương. Và nếu không thực hành được 4 phép lạy về Lý và cúng dường được 5 món diệu hương, thì sự lạy và cúng chỉ là phần "Sự" là phần hình thức, và vì thế, kẻ tín đồ khó có thể tiến được trên đường Ðạo. Bỡi vậy, cùng một lần với thờ, lạy và cúng Phật, chúng ta phải tụng kinh, trì chú và niệm Phật. Ðó là những điểm căn bản tối thiểu mà một Phật tử thuần thành không thể bỏ qua được.

1) Tụng kinh: Tụng là đọc thành tiếng một cách có âm diệu và thành kính. Tụng kinh là đọc một cách thành kính những lời Ðức Phật đã dạy trong kinh điển, hợp với chân lý và căn cơ của chúng sanh.

2) Trì chú: Trì là nắm giữ một cách chắc chắn. Chú là lời bí mật của Chư Phật mà chỉ có Chư Phật mới hiểu được, chứ các hàng Bồtát cũng không hiểu thấu. Các bài chú đều có oai thần và công đức không thể nghĩ bàn, dứt trừ được nghiệp chướng, tiêu tai giải nạn và tăng trưởng phước huệ, nên cũng gọi là thần chú.

3) Niệm Phật: Niệm là tưởng nhớ. Niêm Phật là tưởng nhớ danh hiệu Phật, hình dung
Phật và đức hạnh của Phật, để luôn luôn cố gắng noi theo bước chân Ngài.

II.- Lý Do Phải Tụng Kinh - Trì Chú - Niệm Phật

1) Vì sao phải tụng kinh? Chúng ta sống trong cõi dục, cho nên lòng dục vọng của chúng ta không bao giờ ngừng nghỉ, cho đến trong giấc ngủ, cũng còn chiêm bao cãi lẩy, cười khóc, vui buồn như lúc thức. Trong cảnh mê mờ đầy dục vọng ấy, may thay, Ðức Phật vì đã thương xót chúng sanh mà truyền dạy những lời vàng ngọc, có thể phá tan màng mây u ám của vô minh và tội lỗi. Nhưng những lời lẽ cao siêu ấy, chúng ta nghe qua một lần , hai lần cũng không thể hiểu thấu và nhớ hết được. Cho nên chúng ta cần phải đọc đi đọc lại mãi, để cho lý nghĩa thâm huyền được tỏa ra, và ghi khắc trong thâm tâm chúng ta, không bao giờ quên được. Ðó là lý do khiến chúng ta phải tụng kinh.

2) Vì sao phải trì chú? Chú có công năng phi thường, nếu người thành tâm trì chú, thì được nhiều hiệu lực không thể tưởng tượng. Chẳng hạn thần chú "Bạc nhứt thế nghiệp chướng căn bổn đắc sinh Tịnh độ Ðà la ni" có hiệu lực tiêu trừ được hết gốc
rễ nghiệp chướng, làm cho người được vãng sanh về Tịnh độ. Thần chú "Tiêu tai kiết tường" có hiệu lực làm cho tiêu trừ các hoạn nạn, tai chướng, được gặp những điều lành. Thầ chú "Lăng Nghiêm" thì phá trừ được những ma chướng và nghiệp báo nặng nềv.v... Thần chú "Chuẩn Ðề" trừ tà, diệt quỷ. Thần chú "Thất Phật diệt tội" có công năng tiêu trừ tội chướng của chúng ta từ nhiều đời nhiều kiếp v.v... Vì thế nên chúng ta phải trì chú.

3) Vì sao phải niệm Phật? Tâm chúng ta bị vô minh làm mờ đục, chẳng khác gì nước bị bùn nhơ làm ngầu đục. Muốn cho nước đục kia hóa ra trong, không có phương pháp nào hay hơn là gia một chút phèn vào, thì các chất dơ bẩn ngầu đục kia dần
dần lắng xuống, bấy giờ nước đục trở nên trong sạch. Phương pháp niệm Phật cũng vậy, có công năng trừ phá các vọng niệm đen tối ở nơi tâm của chúng ta, làm cho tâm mê muội, mờ ám trở nên sáng suốt, chẳng khác gì chất phèn làm cho nước trở nên trong vậy.

Vì sao niệm Phật lại làm cho tâm mê muội trở nên trong sáng ? Vì lý do rất dễ hiểu sau đây:

Tâm chúng ta rất điên đảo, không bao giờ dừng nghỉ. Kinh thường nói: "Tâm viên, ý mã", nghĩa là "tâm" lăng xăng như con vượn nhảy từ cành nầy qua cành khác, và "ý" như con ngựa chạy lung tung luôn ngày suốt buổi. Làm sao cho tâm ý chúng ta đừng nghĩ xằng bậy? Chỉ có một cách là bắt nó nghĩ những điều tốt lành, hay đẹp. Niệm Phật chính là nhớ nghĩ đến những Vị hoàn toàn tốt đẹp, những hành động trong sáng, những đức tánh thuần lương. Càng niệm Phật nhiều chừng nào, thì ít niệm ma
chừng ấy. Ma ở đây là tất cả những gì xấu xa đen tối, làm hại mình hại người. Vì thế chúng ta nên luôn luôn niệm Phật.

III.- Phải Thường Tụng Những Bộ kinh Nào, Trì Chú Gì Và Niệm Danh Hiệu Phật Nào ?

1.- Các kinh thường tụng. Phàm là kinh Phật thì bộ nào tụng cũng được cả, vì kinh nào cũng có công năng thù thắng là phá trừ mê mờ, khai mở tâm trí sáng suốt cho chúng sanh, nếu chúng ta chí thành đọc tụng. Nhưng vì căn cơ của chúng ta không đến, nên chúng ta phải lựa những bộ kinh nào thích hợp với căn cơ và sở nguyện của chúng ta mà đọc tụng.

Thông thường, các Phật tử Việt Nam, từ xuất gia cho đến tại gia đều trì tụng những kinh như: Di-Ðà, Hồng Danh, Vu-Lan, Phổ Môn, Dược Sư, Ðịa Tạng, Kim Cang, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa v.v...

Nhiều người có quan niệm, chọn bộ kinh cho thích hợp với mỗi hoàn cảnh, mỗi trường hợp để tụng, như lúc:

- Cầu siêu thì tụng kinh Di-Ðà, Ðịa Tạng, Vu Lan v.v...; - Cầu an thì tụng kinh Phổ Môn, Dược Sư v.v...; - Cầu tiêu tai giải bịnh thì tụng kinh Kim-Cang, Lăng-Nghiêm v.v...; - Cầu sám hối thì tụng kinh Hồng-Danh.

Cái quan niệm lựa chọn như thế cũng có phần hay là làm cho tâm chuyên nhất sẽ được hiệu nghiệm hơn. Nhưng chúng ta không nên quên rằng về mặt giáo lý cũng như về mặt công đức, bất luận một bộ kinh nào, nếu chí tâm trì tụng, thì kết qủa cũng đều mỹ mãn như nhau cả.

2.- Các chú thường trì. Ở chùa, chư Tăng hằng ngày, trong thời khóa trụng khuya, trì chú Lăng Nghiêm, Ð5i Bi, Thập chú hay Ngũ Bộ chú v.v... còn ở nhà, phần nhiều cư sĩ trì chú Ðại Bi và Thập chú, bỡi hai lẽ: một là thời giờ ít ỏi, vì còn phải lo sinh sống cho gia đình; hai là chú Lăng Nghiêm đã dài, lại thêm chữ âm vận, trắc trở khó đọc, khó thuộc. Nhưng nếu cư sĩ nào có thể học hết các thần chú, trì tụng được như chư Tăng thì càng tốt.

3.- Các hiệu Phật thường niệm. Ðúc Phật nào cũng đủ cả 10 hiệu, đồng một tâm toàn giác, từ bi vô lượng, phước trí vô biên, thương chúng sanh vô cùng vô tận, nên chỉ niệm danh hiệu một Ðức Phật nào cũng đều được cảm ứng đến tất cả Chư Phật, công đức cũng đều vô lượng vô biên.

Nhưng đứng về phương diện trìng độ và hoàn cảnh mà luận, thì hiện nay, chúng ta là người ở thế giới Ta Bà, nhằm quốc độ của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa, lẽ cố nhiên chúnng ta phải niệm danh hiệu của Ngài. Dụ như dân chúng ở trong nước nào, phải nhớ nghĩ đến ơn nhà cầm quyền chính trị sáng suốt ở trong nước đó.

Nếu Tín đồ nào tu theo pháp môn Tịnh Ðộ, thì thường ngày phải niệm danh hiệu Ðức Phật A-Di-Ðà. Pháp môn này được thành lập do lời dạy sau đây của Ðức Phật Thích Ca: "Ở cõi thế giới Ta Bà này, đến thời kỳ mạc pháp, cách Phật lâu xa, chỉ
có pháp "Trì danh niệm Phật", cầu vãng sanh về Tây phương cực lạc là quốc độ của Ðức Phật A-Di-Ðà, thì dễ tu dễ chứng hơn hết". Ngoài ra, cũng có người niệm danh hiệu Ðức Phật Di-Lặc, để cầu sanh về cõi trời Ðâu Xuất; hoặc niệm danh hiệu Ðức Phật Dược Sư, để cầu cho khỏi tật bịnh.

Tóm lại, tín đồ phải niệm đủ Tam thế Phật:

a) Niệm Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, là niệm Ðức Phật hiện tại, cũng là Ðức Phật Giáo chủ của chúng ta.

b) Niệm Ðức Phật A-Di-Ðà, là niệm Ðức Phật đã thành từ quá khứ xa xưa, mà cũng là Ðức Phật tiếp dẫn chúng ta về Cực Lạc.

c) Niệm Ðức Phật Di-Lặc, là niệm Ðức Phật vị lai.

IV.- Lợi Ích Của Sự Tụng Kinh - Trì Chú - Niệm Phật

1.- Lợi ích của sự tụng kinh. Những lời giáo hóa trong ba tạng kinh điển của Phật, đều toàn là những lời hiền lành, sáng suốt do lòng từ bi và trí tuệ siêu phàm của Phật nói ra. Kinh Phật, vì thế, có phần siêu việt hơn tất cả những lời lẽ của thế gian. Nếu chúng ta chí tâm trì tụng, chắc chắn sẽ được nhiều lợi ích cho mình, cho gia đình và những người chung quanh:

a) CHO MÌNH: Lúc tụng niệm, hành gỉa đem hết tâm trí chí thành đặt vào văn kinh để khỏi sơ xuất, nên sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý không còn móng lên mười điều ác nữa, mà chỉ ghi nhớ những lời hay, lễ phải.

b)CHO GIA ÐÌNH: Trước khi sắp sửa tụng kinh, những người trong nhà đều dứt các câu chuyện ngoài đời và khách hàng xóm đến ngồi lê đôi mách cũng tự giải tán. Trong gia đình nhờ thế được thanh tịnh, trang nghiêm, hòa thuận.

c)CHO NGƯỜI CHUNG QUANH: Trong những lúc đêm thanh canh vắng, lời tụng kinh trầm bỗng theo với tiềng mõ nhịp đều, tiếng chuông ngân nga, có thể đánh thức người đời ra khỏi giấc mê, đưa lọt vào tai kẻ lạc lối những ý nghĩa thâm huyền, những lời khuyên dạy bổ ích, chứa đựng trong kinh mà hành giả đang tụng.

Như vậy rõ ràng tụng kinh chẳng những có lợi ích cho mình, cho gia đình, mà còn cho những người chung quanh nữa. Ðó là mới nói những điều ích lợi thông thường có thể thấy được, ngoài ra tụng kinh còn có những điều lợi ích, linh nghiệm lạ thường,
không thể giải thích được, ai tụng sẽ tự chứng nghiệm mà thôi.

2.- Lợi ích của sự trì chú. Các thần chú tuy không thể giải nghĩa ra được, nhưng người chí tâm thọ trì, sẽ được công hiệu thật là kỳ diệu, khó có thể nghĩ bàn, như người uống nước ấm, lạnh thì tự biết lấy. có thể nói: một câu thần chú, thâu gồm hết
một bộ kinh, vì vậy, hiệu lực của các thần chú rất phi thường. Khi gặp tai nạn, nếu thực tâm trì chú, thì mau được giải nguy. Như thuở xưa, Ngài A-Nan mắc nạn, Ðức Phật liền nói thần chú Lăng Nghiêm, sai ngài Văn Thù Sư Lợi đến cứu, thì Ngài A-Nan liền được thoát nguy.

Ngày nay có nhiều trường hợp mà người thành tâm niệm chú thấy được hiệu nghiệm rõ ràng. Theo lời Bác sĩ Thiện Thành nói lại, thì vào năm 1946, giữa lúc loạn ly, BS ở trong một vùng rừng sâu, núi hiểm tại Trung việt. Một lần Bs bị một chứng bịnh
nan y, mặc dù lương dược Ðông, Tây sẵn có trong tay, cũng không làm sao trị được. Bác sĩ tưởng sẽ bỏ mình trong xóm người Sơn cước, không ngờ lúc còn ở dưới mái nhà cha mẹ, thường đêm nghe thân phụ trì chú "Công Ðức Bảo Sơn", BS liền đem
thần chú ấy ra áp dụng. Trong lúc ấy, các người nuôi bịnh cũng xúm lại hộ niệm cho BS suốt đêm. Sáng hôm sau, quả thật BS lành mạnh trở lại một cách dễ dàng, làm cho tất cả các bạn đồng nghiệp đều ngạc nhiên.

3.- Lợi ích của sự niệm Phật. Niệm Phật công đức lại còn to lớn hơn nữa, vì một câu niệm Phật có thể gồm thâu cả 3 tạng kinh điển, hết thảy thần chú, cùng là các pháp viên đốn, như tham thiền, quán tưởng v.v...

Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni có dạy rằng: "Sau khi Phật nhập diệt , về thời kỳ mạt pháp, đến kiếp hoại, các kinh sẽ bị tiêu diệt hết, chỉ còn kinh Di-Ðà lưu truyền lại độ trăm năm rồi cũng diệt luôn. Lúc bấy giờ chỉ còn một câu niệm Phật gồm 6 chữ
"Nam mô A-Di-Ðà Phật", mà đủ năng lực đưa chúng sanh về cõi "Cực-Lạc".

Lời Phật nói không sai, bằng chứng là có nhiều nhân vật chuyên trì một câu niệm Phật, mà biết được ngày giờ và thấy được điềm lành trước khi vãng sanh. Như Tổ Huệ Viễn, trong 10 năm niệm Phật, 3 lần thấy Ðức Di-Ðà rờ đầu; trong hội Liên xã, có 123 người chuyên tu phép "Trì danh niệm Phật", đều lần lược được Phật rước về cõi Tịnh Ðộ. Gần đây ở Nam phần VN, vào năm 1940, có 3 vị sĩ quan Pháp là Ðại úy Touffan, Trung úy Retourna, Thiếu úy Brillant đồng lái một chiếc thuỷ ohi cơ bay từ đảo Côn Lôn về Sài gòn. Giữa đường, chiếc phi cơ hư, , rơi xuống biển. Thiếu úy Brillant (người Pháp lai Việt) niệm Phật cầu cứu. Chiếc thủy Phi cơ lửng thửng trên mặt biển suốt 3 giờ , mới gặp một chiếc tàu đánh cá của người Nhật đến cứu. Khi 3 vị vừa bước sang tàu, thì chiếc phi cơ chìm ngay xuống biển. Ai nấy đều lấy làm lạ, hỏi nhau: Tai sao khi nãy có 3 người ngồi nặng, phi cơ lại nổi, mà bây giờ không có người nó lại chìm ngấm? Chỉ có thiếu úy Brillant mới giải thích được sự lạ lùng ấy. Ông kể lại cho mọi người nghe sự linh ứng của pháp niệm Phật mà ông thường áp dụng, và lần nầy là lần thứ hai ông được thoát nạn nhờ phép niệm Phật ấy. Ðại úy Touffan và trung úy Retourna hết lòng tin tưởng, nên khi về đến Saigon, hai vị sĩ
quan ấy chung nhau một số tiền, cất một cái am đẹp đẽ ở Cát lái, làng Thạnh Mỹ Lợi, tỉnh Gia Ðịnh để thờ Phật gọi là tỏ lòng tri ân. Ðây chỉ là một câu chuyện trong muôn ngàn câu chuyện về sự lợi ích của phép niệm Phật.

C.- Kết Luận

Khuyên Phật Tử Tụng kinh Niệm Phật Và Trì Chú Cả Sự Lẫn Lý Cho D(ược Viên Dung . Tụng kinh, trì chú, niệm Phật là 3 phương pháp tu hành gồm đủ cả Sự và Lý. Dù tại gia hay xuất gia, dù tiểu thừa hay Ðại thừa, tiêu cực hay tích cực, không ai
có thể rời 3 phương pháp nầy được. Bỡi thế, Phật tử cần phải học tụng kinh, niệm Phật và trì chú choSự,Lý đi đôi, lời nói và việc làm phù hợp, mới có được kết quả tốt đẹp.

Ba pháp môn tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tuy không đồng mà kết qủa đều thù thắng. Phật tử có thể tùy theo trình độ, hoàn cảnh của mình mà tu một, hai hay cả ba pháp ấy. Thí dụ như người biết chữ và mạnh khoẻ, công ăn việc làm hằng ngày không bận rộn lắm, thì nên tụng kinh, trì chú, niệm Phật đủ cả ba pháp môn. Còn người tuổi gìa, sức yếu, mắt mờ, răng rụng, miệng lưỡi phều phào, thân thể mỏi mệt, nếu tụng kinh , trì chú không nổi, thì phải chuyên tâm niệm Phật, đi đứng nằm nồi,
túc nào cũng phải niệm Phật. Nhưng các Phật tử nên nhớ, khi miệng tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tay gõ mõ, đánh chuông, lần chuỗi, thì tâm trí phải gột rửa hết bao ý nghĩ bất chính, những ham muốn đê hèn, và đạc vào dấy hình ảnh của Ðấng Từ Bi.
Rồi phải noi gương Ngài, mở lòng thương rộng lớn, nghĩ đến nỗi thống khổ của muôn loài và phát nguyện đem sức mình ra, ban vui cứu khổ cho tất cả. Ðến khi thôi tụng niệm, trở lại tiếp xúc việc đời, thì phải làm thế nào cho những hành động của mình cũng được từ bi như tư tưởng và lời nói của mình vậy.

Người tụng kinh trì chú và niệm Phật, làm đúng như thế, thì chắc chắn sẽ được chứng qủa Thánh không sai.

(HT. Thích Thiện Hoa)

Biết sống tùy duyên thì thường an vui, không lo lắng

Biết sống tùy duyên thì thường an vui, không lo lắng

********************
Tôi đã tập sống với hai chữ tùy duyên. Tôi cũng không thật sự chắc chắn rằng quan điểm, nhận thức của mình về hai chữ này có đúng hay không. Nhưng một điều rất may mắn với tôi, từ khi biết, hiểu và thực hành hai chữ tùy duyên, một thời gian dài, tôi nhìn lại, so sánh và nhận ra tôi đã thích nghi, đã hòa nhập, và quan trọng hơn hết là cách nhìn nhận cuộc sống tốt hơn rất nhiều. Cái tôi của tôi đã giảm đi thật nhiều, những cảm giác vui buồn lẫn lộn, những cái đắn đo, nghi ngờ đi đến khó xử, rồi những cái tức giận, hờn ghen…, tôi đã dần thôi là nạn nhân của chúng nó.

Khi mới bắt đầu tiếp xúc với đạo từ bi, tôi đã tình cờ một cách thú vị được tiếp xúc với tùy duyên; tùy duyên, một người tình dễ chịu. Tôi đã tiếp xúc một cách giấy mực về những diệu dụng của tùy duyên từ những bậc cao nhân đi trước. Từ đó tôi tìm tòi về những nguyên nhân, những cách thức, những lý do trong cuộc sống, và một cách kỳ diệu của nhân duyên, tôi đã thích nghi, thoải mái áp dụng, nhận ra ngày càng rõ ràng hơn ý nghĩa của cuộc sống.

Tùy, tức tùy thuận, như khúc gỗ trôi theo dòng nước, như bụi trần xuôi theo cơn gió thoảng, mọi thứ đều tự nhiên, hết sức tự nhiên. Những cái đến, cái đi đều có nguyên nhân của nó. Ta đều tùy thuận nhằm thấy được đâu đó sự thoải mái chẳng gò bó, sự êm đềm chẳng lăng xăng. Duyên, tức những điều kiện. Để thấy rõ hơn chữ duyên, ta phải nhận thức được về nhân quả. Nhân quả là thuyết nền tảng trong Phật giáo, là định luật tồn tại của vũ trụ, vạn vật nói chung, và mỗi chúng ta nói riêng đều thuộc vòng biến chuyển của nhân quả. Có thể nói đơn giản, với chúng ta, nhân là những gì ta làm, quả là những gì ta nhận được. Cũng như khi gieo một hạt xoài, đó là nhân, và quả là ta có cây xoài, trái xoài. Trong đó chất lượng cái quả mà ta nhận được còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố của tự nhiên, của con người. Nhân quả với ta cũng thế, khi đã có nhân, tức sẽ có quả, nhân nào quả đó, nhân là một điều kiện cần, để có quả thì cần thêm điều kiện đủ, đó chính là duyên.

Trong kinh có nói: “Giả sử bách thiên kiếp sở tác nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời quả báo hoàn tự thọ”, tức những việc ta đã làm dù trải qua trăm ngàn kiếp cũng không mất đi, chỉ chờ đủ nhân duyên, cái quả ta sẽ tự nhận lấy. Biết được như thế, đối với cái nhân, ta phải thật sự rất cẩn trọng về từng việc mình làm, dù là những việc nhỏ nhất, ta tự làm rồi ta sẽ tự nhận, đó là chân lý, là quy luật sinh tồn của vũ trụ, muốn tốt hơn, hay xấu đi là tự do ta quyết định lấy, ngay từ bây giờ chính ta là người quyết định cho ta. Còn đối với cái quả, những gì ta có đều là tất yếu của những gì ta đã làm hoặc tại kiếp này, hoặc ở kiếp quá khứ. Do đó ta hãy thoải mái mà đón lấy nó, chấp nhận nó dù đó là quả tốt hay đó là quả xấu. Nhưng xét kỹ hơn, tốt hay xấu đều do cách nhìn của mỗi người. Nếu đó là quả tốt, thì ta dễ tiếp nhận, còn là quả xấu, ta phải thực tập cho mình chấp nhận, bởi có chấp nhận hay không thì đó cũng là một điều tất yếu sẽ đến với ta. Biết chấp nhận thì thật là sung sướng, bằng ngược lại, là ta tự trói buộc, tự đày đọa chính ta.

Như đã đề cập, quả báo hình thành là do nhân duyên hội tụ, vì thế, tùy thuận nhân duyên là tùy thuận quả báo. Quả tốt ta sẽ nhận quả tốt, còn quả xấu ta cũng sẽ vượt qua. Ta chẳng quá mong ước, chẳng nhiều tìm cầu mọi sự tùy duyên theo nghiệp hiện, sẽ ung dung nhàn hạ tháng ngày. Xét ra, dù là quả tốt hay xấu, ta cũng đều nhọc công giải quyết, và cũng đều có kết thúc theo thời gian, mọi thứ đều sẽ qua. Điều quan trọng là ta hiểu và tập cách để nhận thức, để thực hành, để an ổn. Thực hành như thế, dần quen, ta sẽ chẳng còn sự phân biệt tốt xấu, ta hòa nhập tốt hơn với con đường trung đạo, và kết quả ta sẽ chẳng còn nhiều mệt nhọc để đối phó với các dục vọng trong ta.

Một điều cần lưu ý, tùy duyên khác với sự buông xuôi tiêu cực. Bởi lẽ tùy duyên là thái độ tích cực của ta đối với mọi vui buồn, sướng khổ trong cuộc sống, ta vẫn giải quyết chúng, nhưng giải quyết mọi việc trong một tinh thần thoải mái, thanh thản. Không như buông xuôi, là bỏ mặc tất cả, không phấn đấu, không tự mình vượt qua và vươn lên trong cuộc sống. Tùy duyên, với tôi chỉ đơn giản như thế, tôi đã biết, đã tìm hiểu và đang thực hành. Dù chưa đi đến đâu trên con đường tu tập dài xa, nhưng với tùy duyên tôi đã tìm cho riêng tôi những an lạc nhất định. Và giờ đây, tôi lấy những trải nghiệm đơn sơ của mình, hầu có thể giúp ích cho những người như tôi ngày xưa, vẫn hay than trời trách đất, vẫn hay chạy Đông, rảo Tây để tìm kiếm một điều mơ hồ của ước vọng. Một ngày nữa lại về, mặt trời vẫn ló dạng đằng Đông, tôi khẽ vươn vai chào đón ánh nắng mới, và nhắc thầm cho mình hai chữ tùy duyên.

(Viên Đạt)

NGUỒN GỐC CỦA TAI NẠN, KIẾT HUNG HỌA PHƯỚC

NGUỒN GỐC CỦA TAI NẠN, KIẾT HUNG HỌA PHƯỚC


Mục đích cao nhất của người học Phật chính là chuyển phàm thành thánh. Nhà Phật thường nói, giáo dục của Phật Đà dạy người ba cái chuyển biến. Thứ nhất là chuyển ác thành thiện, thứ hai là chuyển mê thành ngộ, thứ ba là chuyển phàm thành thánh. Bạn phải biết bắt đầu chuyển từ đâu. Tâm của chúng ta vốn dĩ là chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, giác ngộ, từ bi, nhưng hiện nay năm điều này thảy đều không còn nữa, biến thành hư ngụy, nhiễm ô, kiêu mạn, ngu si, tự tư tự lợi. Chúng ta thử nghĩ có phải như vậy không? Bản thân ta như vậy, thử nhìn lại xung quanh, người khác cũng như vậy, cho nên thế gian này mới có kiếp nạn, mới có thiên tai nhân họa. Chúng ta hiện nay sống trên bờ vực của cái tai nạn lớn này, có thể sẽ rất nhanh chóng gặp phải. Làm thế nào cứu vãn? Làm thế nào có thể tránh khỏi đây?

Tránh hung tìm kiết, quan niệm này cổ kim, trong ngoài, tất cả mọi người đều biết, nhưng cách tránh hung tìm kiết như thế nào thì không biết. Ở nơi này có tai nạn, không tốt, chúng ta tìm một nơi khác để di dân, có được không? Không chắc! Ngạn ngữ nói: “Tại kiếp nan đào”, có số kiếp này, bạn trốn đến nơi nào cũng đều vô ích, bạn vẫn phải chịu kiếp nạn này. Đây là chân lý, là đạo lý nhất định.

Phải làm thế nào mới có thể tránh khỏi vậy? Nhất định phải làm cuộc chuyển đổi từ trong tâm địa, đây là chính xác. Khu vực này gặp nạn, bạn vẫn có thể tránh khỏi. Nhà Phật nói trong cộng nghiệp có biệt nghiệp (biệt nghiệp là không cộng nghiệp). Cho nên, chúng ta làm sao hồi phục tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng của chúng ta. Tôi nói năm câu này, chỉ cần hồi phục một câu thì bốn câu khác thảy đều hồi phục; có một điều là có đầy đủ bốn điều khác, bất kỳ một điều nào cũng đầy đủ viên mãn bốn điều khác. Trong kinh Lăng Nghiêm nói: “Một tức là nhiều, nhiều tức là một”. Chúng ta làm một cuộc chuyển đổi từ chỗ này, nhất định phải đoạn, phải buông bỏ, phải bắt tay làm từ căn bản, đem ái dục buông bỏ, đem thị dục buông bỏ (thị dục là thị hiếu, những thứ mà trong tâm ưa thích), xa lìa danh vọng lợi dưỡng, xa lìa ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy), làm như vậy mới có thể tiêu tai miễn nạn. Nếu như ái dục, thị hiếu của bạn không buông bỏ được, thì trong thế gian này bất luận bạn lẫn trốn đến nơi nào, bạn cũng không tránh khỏi kiếp nạn. Chúng ta phải biết đạo lý này.

(trích Phật Thái Thượng Cảm Ứng Thiên - tập 9)
Pháp Sư Tịnh Không
www.phapsutinhkhong.com

Làm ác thì sẽ bị điều ác ám ảnh, khủng bố


Làm ác thì sẽ bị điều ác ám ảnh, khủng bố

* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
Trên đường đi Tokyo, kiếm sĩ Tama gặp một vị sư già mình hạc sương mai, khuôn mặt xanh gầy nhưng luôn luôn tươi cười. Sau mấy ngày đồng hành, họ trở nên thân thiết. Đạo sĩ cho biết, đã nhiều năm, đi khắp nước Nhật khuyến hóa, dành dụm được 200 lạng vàng để trong cái bị vải này, nay đi Tokyo tìm thợ lành nghề về làm chùa. Ban đầu, Tama cố xua đuổi những ý nghĩ bất chính. Lần hồi, lòng tham làm mờ lý trí: “Ta đã hơn 40 tuổi. Kiếm sĩ đến tuổi này bắt đầu trở về già, vô dụng. Suốt một đời vào sinh ra tử mà vẫn nghèo khổ. Với số vàng kếch sù này, chắc chắn ta sẽ được nếm mùi sung sướng”.

Đạo sĩ đi bên cạnh một tay anh hùng, cho rằng mình đã gặp một hộ pháp đắc lực nên yên tâm, tay mang vàng mà đi, không lo ngại chi cả. Đường đi bị gián đoạn bởi một eo biển, phải dùng thuyền mới qua được. Tama dìu nhà sư vào phía sau, một chỗ vắng khuất. Túi vải để ở giữa hai người. Vờ trỏ một con cá nhảy lên khỏi mặt nước, thừa lúc nhà sư nghiêng hẳn mình cúi xem, Tama đẩy nhẹ một cái. Nhà sư té xuống biển chìm nghỉm. Để thuyền đi một quãng thật xa, Tama la lớn: “Ông bạn té xuống biển rồi! Xin ngừng thuyền lại!”.
Gió đang thổi mạnh. Buồm căng đưa thuyền đi vùn vụt. Lái thuyền cố gắng neo thuyền lại, nhảy xuống nước tìm quanh nhưng chẳng thấy dấu vết nhà sư.
Đến Tokyo, Tama tự xưng là Tô Cự Bi, một nhà buôn gạo. Thanh kiếm cất kỹ đáy rương. Ông buôn bán rất phát đạt, tậu nhà, lấy vợ, có con v.v… nhưng không sao quên được hình ảnh nhà sư. Một thấp thoáng buồn rầu cứ lảng vảng trên vầng trán. Ông nguyền rủa sự nghèo đói. Chính nghèo đói là động cơ làm bậy, tạo tội ác.

Bao nhiêu năm trôi qua. Một đêm, Tô Cự Bi dạo trong hoa viên, bỗng để ý đến một cây tùng. Hình như một bóng người mờ ảo, dần dần hiện rõ. Mồ hôi Tô Cự Bi vã ra như tắm. Ông hốt hoảng hét lên: “Kìa nhà sư! Kìa nhà sư!”.
Đêm đêm, Tô Cự Bi để thanh kiếm ở đầu giường. Hễ thấy ma là cứ chém tới tấp. Cựu kiếm sĩ chém rất trúng. Song, cái thân như sương như khói kia cứ tan lại tụ. Bóng ma cứ xán lại muốn ôm choàng lấy người ông.

Cuộc chiến đấu giữa người và ma cứ thế kéo dài suốt đêm. Cây tùng đã đốn. Cửa phòng cứ tắt mặt trời là đóng chặt. Nhà Cự phú hoảng hốt lo sợ, đêm này sang đêm khác. Thế là phát bệnh nặng. Thuốc men bao nhiêu cũng không thuyên giảm. Vợ con đi lễ Phật lễ trời, cầu thần Thánh khắp nơi. Nghe đồn có một Hòa thượng đại đức, ai gặp khó khăn Ngài cũng hết lòng giúp đỡ. Vợ Tô Cự Bi vội vàng cung thỉnh.

Vừa trông thấy Ngài, Tô Cự Bi la hoảng: “Đó… đó… nhà sư! Nhà sư về báo thù! Trời ơi! Ai cứu tôi với!”. Ông run cầm cập, vơ vội chăn mền, trùm đầu để trốn hình ảnh người đối diện. Hòa thượng yêu cầu gia quyến lui hết, Ngài ở lại một mình, ngồi bên giường:
- Phải, tôi là nhà sư! Tôi chính là người đã bị ông xô xuống biển.
Cái chăn trùm trên người Tô Cự Bi run mạnh.

- Nhưng này Tama, tôi không phải là hồn oan! Tôi còn sống. Hôm đó rơi xuống biển, tôi đã bơi thẳng vào bờ thoát chết. Vì tôi vốn giỏi bơi lặn từ nhỏ. Chẳng biết ông ở đâu mà tìm, tôi lại đi khắp nơi khuyến hóa. Chùa đã làm xong. Sự tình cờ đưa tôi đến đây. Có lẽ vì vợ con ông đã thành tâm cầu nguyện. Ông yên tâm. Tôi là kẻ tu hành. Tôi vâng lời Phật tha thứ cho ông!
Tô Cự Bi mở chăn lấm loét nhìn. Nhà sư đang mỉm cười nói với ông. Ôi! Nụ cười đầy khoan dung, hiền hòa! Ông khóc nấc lên, vùng dậy quỳ xuống: “Xin Ngài tha tội cho con, chỉ vì con quá khốn khổ!…”.

- Phải, nghèo khổ đẩy con người vào tội lỗi, nhưng biết sám hối tội sẽ nhẹ đi…
- Thưa, lương tâm con dày vò, con hối hận vô cùng!…
- Phải rồi… Nhà sư và cựu kiếm sĩ nói chuyện với nhau thân mật y như năm xưa họ gặp nhau trên con đường đi đến Tokyo. Tô Cự Bi khẩn khoản xin trả lại 200 lạng vàng và cúng thêm 200 lạng nữa.
- Tôi đã làm xong Phật sự rồi!
- Không nhận tức là chưa tha thứ!
- Vậy tôi xin nhận để chia cho dân nghèo. Tôi xin cáo từ và gửi lại ông bạn một lời của Phật tổ:
“Lấy oán báo oán, oán oán chập chồng,
Lấy đức báo oán, oán sẽ tiêu tan!”.

Nhà phú thương Tô Cự Bi hết bệnh, tâm hồn thư thái. Ông trở thành một con người rất nhân đức, cứu giúp những ai cần. Đối với người dưới, ông rất rộng lượng. Đối với bạn buôn, ông rất khoan hòa. Bàn tay ông rất rộng rãi đối với tất cả người khốn nghèo. Ông dùng nửa đời về sau chuyên để làm những việc lợi ích, gặp ai, ông cũng khuyên niệm Nam mô A Di Đà Phật.

(TT. Thích Chân Tính biên soạn)

Monday, August 26, 2013

Kham nhẫn là những phép lạ

Kham nhẫn là những phép lạ

**************
Phép lạ của con người không phải là đi gió về mây, vì đi gió về mây, thì ta sẽ thua mây và gió; phép lạ của con người không phải nhảy cao, đá lẹ, vì nhảy cao đá lẹ, ta không bằng sư tử và mèo; phép lạ của con người không phải là lặn sâu dưới nước, vì lặn sâu dưới nước ta không bằng cá; và phép lạ của con người không phải bay cao trên trời, vì bay cao trên trời, ta không thể bằng chim.
Sống kham nhẫn giữa những người ăn nói bận rộn, để nói cho họ những lợi ích do ăn nói không bận rộn đem lại là một phép lạ.

Sống kham nhẫn giữa những người ăn nói thô lỗ, để nói lợi ích của những lời nói dễ thương cho họ là một phép lạ.

Sống kham nhẫn giữa những người ăn nói dối trá, để nói lợi ích của những lời nói chân thực cho họ là một phép lạ.

Sống kham nhẫn giữa những người ăn nói chia rẽ, để nói lợi ích cho họ của những lời nói hòa hợp là một phép lạ.

Sống kham nhẫn giữa những người ưa tranh cãi, để nóí cho họ những lợi ích của ít nói và im lặng là một phép lạ.

Sống kham nhẫn giữa những người ưa giết hại, mà nói cho họ lợi ích và giá trị của sự sống ở nơi mọi người và mọi loài cần phải được tôn trọng và bảo vệ là một phép lạ.

Sống kham nhẫn giữa những người trộm cắp, mà nói cho họ lợi ích về sự tôn trọng và bảo vệ tài sản của những kẻ khác là một phép lạ.

Sống kham nhẫn giữa những người không thủ tiết mà nói lợi ích của tiết hạnh cho họ là một phép lạ.

Sống kham nhẫn giữa những người tham lam, ích kỷ mà nói cho họ về lợi ích của hạnh thí xả là một phép lạ.

Sống kham nhẫn giữa những người đầy thù hận mà nói lợi ích của hạnh từ bi là một phép lạ.

Sống kham nhẫn giữa những người cố chấp vô trí mà nói lợi ích của hạnh trí tuệ cho họ là một phép lạ.

Phép lạ của con người không phải là đi gió về mây, vì đi gió về mây, thì ta sẽ thua mây và gió; phép lạ của con người không phải nhảy cao, đá lẹ, vì nhảy cao đá lẹ, ta không bằng sư tử và mèo; phép lạ của con người không phải là lặn sâu dưới nước, vì lặn sâu dưới nước ta không bằng cá; và phép lạ của con người không phải bay cao trên trời, vì bay cao trên trời, ta không thể bằng chim.

Phép lạ của con người là sống giữa những may mắn mà không sanh tâm kiêu ngạo, sống giữa những khó khăn mà không nản lòng và sống với những người bất hạnh mà kham nhẫn giúp họ với tâm hạnh không mong cầu. Và phép lạ cao nhất, mầu nhiệm nhất là sống giữa những sự sanh của cuộc đời, mà tâm không hề sanh sự.

(Thích Thái Hòa)

KHÔNG NÊN CHỈ BIẾT NHÌN BẢN THÂN

KHÔNG NÊN CHỈ BIẾT NHÌN BẢN THÂN


Có 1 người có rất nhiều tài sản , nhưng ông ta rất keo kiệt , chưa bao giờ hành thiện .
Ông ta cảm thấy mình rất đau khổ , ko có ngày nào là vui cả , nên đã đi cầu đạo 1 vị thiền sư .
Thiền sư bảo rằng , trước khi trả lời câu hỏi của ông , phú ông nhất định phải trả lời mấy câu hỏi sau .
Phú ông đồng ý .
Thiền sư để phú ông đứng trước cửa sổ , cách bởi tấm cửa kính , chỉ ra mặt đường bên ngoài , hỏi : " ông nhìn thấy đc những gì ? "
Phú ông nói : 1 đám người bận rộn ."
Thiền sư lại đem đến 1 tấm gương , để ông ta nhìn và hỏi: " bây giờ ông lại thấy gì ? "
Phú ông nói : " tôi thấy đc chính mình . "
Thiền sư lại hỏi : cửa sổ và gương là làm bằng gì ? "
Phú ông nói : " đều làm bằng thủy tinh cả . "
Thiền sư hỏi tiếp : " chúng khác nhau chỗ nào ? "
Phú ông trả lời : " gương thì đc tráng 1 lớp bạc , còn cửa kính thì ko . "
Thiền sư bèn nói : " đây chính là câu hõi mà ông cần tìm . thuỷ tinh đơn thuần có thể cho ta nhìn thấy mọi người , trong khi tráng 1 lớp bạc lên thuỷ tinh thì chỉ có thể thấy đc chính mình . Mắt của ông bị tiền tài che mắt , chỉ nhìn thấy mình mà ko nhìn thấy người khác . Vậy làm sao mà ông có niềm vui đc ? "

LÃNH NGỘ PHẬT TÂM
Những người hay cho mình là trọng tâm , là quan trọng , đồng thời quá xem trọng tiền tài , nhất định là người tự tư tự lợi . Loại người như vậy trong mắt chỉ có mình , chứ ko có người khác . Điều này ko chỉ đem đến niềm vui , trái lại còn làm tăng thêm vô số phiền não cho họ .

( trích trong sách Lãnh Ngộ Phật Tâm )

Thiền tông và Tịnh độ tông - chỗ gặp gỡ và không gặp gỡ

Thiền tông và Tịnh độ tông - chỗ gặp gỡ và không gặp gỡ


Thế thì dù niệm Phật, hay tu Thiền quán mà tâm chuyên chú an định từ một ngày cho đến bảy ngày thì nhất định người đó đạt được đạo quả. Tu Tịnh thì được thấy Phật, còn tu Thiền thì chứng từ sơ quả đến tứ quả. Chúng ta thấy tu có khó không? Phật hạn chỉ bảy ngày thôi. Cả đời chúng ta bao nhiêu ngày mà chỉ cần 7 ngày chuyên nhất không tạp cho đến dù một ngày thôi, tinh chuyên như vậy thì sẽ đạt được đạo quả. Nhưng sao không ai chịu hy sinh một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày, hoặc niệm Phật nhất tâm bất loạn, hoặc chuyên tâm, không di chuyển khỏi Tứ niệm xứ thì sẽ được Phật đón về Cực Lạc hay chứng Tứ quả Thanh văn?

Hòa thượng Thích Thanh Từ

1- Chỗ Không Gặp Gỡ Giữa Thiền và Tịnh

Ðiểm thứ nhất: Như chúng ta biết, tu Tịnh Ðộ thì luôn luôn lấy niềm tin làm trên, nên người tu Tịnh Ðộ phải có đủ Tín-Hạnh-Nguyện. Tín là lòng tin; tin chắc có cõi Cực Lạc, tin chắc mình niệm Phật sẽ được Phật rước về Cực Lạc. Từ tin chắc, mới khởi hành, tức cố gắng Niệm Phật, gọi là Hạnh. Niệm Phật rồi phải phát nguyện sanh về cõi Cực Lạc. Như vậy mới đủ Tín-Hạnh-Nguyện, trong đó lòng tin là bước đầu trên đường tu.

Ngược lại, Thiền tông không lấy lòng tin, mà lấy Trí huệ làm bước đầu. Trí tuệ thì giản trạch, phân biệt; còn lòng tin thì khẳng định như vậy, cứ tin rồi làm thôi, thành ra hai bên khác n hau. Tu theo Thiền tông, muốn bước vào cửa Thiền phải đi từ cửa Không. Cửa Không chính là trí tuệ Bát Nhã. Từ trí tuệ Bát Nhã, nhận định hiểu thấu được sự thật của muôn pháp trên thế gian, không bị lầm mê cho giả là thật. Các pháp chỉ là tướng duyên hợp tạm bợ hư dối, biết như vậy, chúng ta không còn gặp khó khăn trong sự tu hành, tâm yên lặng thanh tịnh. Rõ ràng người tu Thiền muốn cho tâm thanh tịnh phải dùng trí tuệ quán chiếu thấu suốt, hiểu rõ không bị nhầm lẫn, nhờ thế không cố chấp, không vướng kẹt, cho nên tâm rỗng rang nhẹ nhàng. Ðó là bước đầu của người đi vào đạo.

Ðiểm thứ hai: Tịnh Ðộ tông tu nguyện sanh về cõi Cực lạc. Có vị nào tu Tịnh Ðộ mà không cầu sanh về Cực Lạc đâu? Ai cũng niệm Phật để khi lâm chung được Phật đón về Cực Lạc. Trong kinh nói Cực Lạc ở phương Tây, cách cõi Ta Bà mười muôn ức thế giới. Thật là xa. Bởi vậy, nếu Phật không đón thì không biết đường đâu mà đi. Như chúng ta hiện giờ muốn qua Nhật, qua Pháp hay qua Mỹ, nếu người chưa từng đi thì phải có thân nhân ở bên đó đón rước mới dám đi. Huống là cõi Cực lạc cách cõi Ta bà này tới mười muôn ức thế giới thì làm sao mà chúng ta dám đi? Do đó, phải niệm Phật và nguyện Phật đón tiếp chúng ta, khi nhắm mắt được về cõi Cực lạc. Như vậy, tu Tịnh Ðộ tức là chúng ta phóng ra ngoài, nhắm hướng Tây phương, nhắm cõi Cực Lạc để được sanh qua đó.

Còn Thiền tông dạy chúng ta tu quán sát lại nội tâm của chính mình. Về phần nội tâm, nhà Phật phân nhiều loại. Theo Duy thức học, chúng ta có những tâm vương, tâm sở. Trong tâm sở lại có tâm sở thiện, tâm sở ác v.v... nhưng người tu Thiền không phân biệt như vậy, chỉ thấy trong tâm niệm của chúng ta, có những tâm mà lâu nay chúng ta ngỡ là tâm mình, nhưng thật ra không phải. Như quý Phật tử suy nghĩ, tính toán việc gì thường cho tâm suy nghĩ tính toán đó là tâm của tôi. Nếu nó là "tâm của tôi" thì những phút giây không suy nghĩ, không tính toán, tôi còn hay tôi mất? Nếu nó là tôi, thì khi nó không hiện, tôi cũng phải mất luôn. Nhưng thật ra, không suy nghĩ, không tính toán, tôi cũng hiện tiền. Do đó, nếu cho tâm suy nghĩ tính toán là tôi là một lầm lẫn rất lớn. Song tất cả chúng ta đa số đều lầm như vậy. Người tu Thiền biết rõ tâm suy nghĩ tính toán đó không phải thật mình nên để nó lặng xuống, tìm cho ra cái mình chân thật. Ðể nó yên lặng tức là dùng phương pháp định tâm. Vì vậy gọi là Thiền Ðịnh. Lặng vọng tâm rồi, chúng ta nhận ra được tâm chân thật của chính mình, đó là mục đích của người tu Thiền. Như vậy, người tu Thiền nhìn lại nội tâm mình chớ không cần hướng ra ngoài, còn người tu Tịnh Ðộ thì trông về cõi Cực Lạc bên ngoài, do đó không giống nhau.

Ðiểm thứ ba: người tu Thiền cốt làm sao cho hiện đời, bao nhiêu thứ phiền não nghiệp chướng sạch, tâm phiền não nghiệp chướng sạch rồi thì thể chân thật sẵn có hiện ra, đó là Niết Bàn, đó là Phật Tánh. Còn Tịnh Ðộ, gần đây có nhiều vị cho rằng tu Tịnh Ðộ rất dễ, chỉ cần niệm Phật mười câu thì Phật đón về Cực lạc liền. Dù kẻ tạo nghiệp ác, trộm cắp nhưng niệm 10 câu cũng được Phật đón về Cực Lạc; bởi vì họ nghĩ "đới nghiệp vãng sanh", tức là mang nghiệp vẫn sanh về bên đó, không cần đợi thanh tịnh mới được vãng sanh. Người tu Thiền không chấp nhận như vậy. Cực lạc là cõi thanh tịnh của Phật mà mang nghiệp xấu ác ô uế thì ai mà chấp nhận cho vào. Như vậy nói "đới nghiệp vãng sanh" là chuyện không thể chấp nhận được.

Thí dụ chúng ta nuôi con chó, nó bị ghẻ lở, ta nghĩ tại ta nuôi dưới đất nên nó bị ghẻ; bây giờ đem lên lầu chắc nó hết ghẻ nhưng không phải. Ở dưới đất hay trên lầu, chưa trị được hết ghẻ thì nó cũng bệnh như nhau. Ghẻ lở ngứa ngáy là dụ cho nghiệp, nếu chưa lành, thì dù có đem đi đâu ở chỗ nào, đẹp hơn, tốt hơn cũng không tránh khỏi. Muốn cho nó khỏi phải làm sao? Chúng ta nuôi nó ở dưới đất mà biết tìm thuốc trị cho nó hết, nó lành thì ở dưới đất hay trên lầu gì cũng mạnh cả.

Cũng như vậy, nếu cho rằng ở Ta bà, chúng sanh mê muội tạo nghiệp, về Cực lạc hết tạo nghiệp thì chuyện ấy chưa chắc. Một bên dạy muốn nhập chỗ thanh tịnh thì phải hết nghiệp chướng, còn một bên nói mang nghiệp chướng đến cõi thanh tịnh rồi sẽ sạch sau. Như vậy, hai chủ trương không giống nhau. Ðó là những điểm Thiền tông và Tịnh Ðộ tông không gặp gỡ nhau được.

2- Chỗ Thiền Tông và Tịnh Ðộ Tông Gặp Ðược Nhau.

Ðiểm thứ nhất: Về Tịnh Ðộ, trong Kinh A Di Ðà có một đoạn nói rằng người thiện nam tín nữ nào niệm Phật từ một ngày, hai ngày, ba ngày... cho đến bảy ngày "nhất tâm bất loạn" thì khi lâm chung thấy được Phật và Thánh chúng hiện trước mắt. Như vậy niệm Phật được nhất tâm bất loạn tối đa là bảy ngày, hoặc sáu ngày, hoặc năm ngày, hoặc bốn ngày, hoặc ba ngày cho đến cuối cùng là một ngày thôi thì nhắm mắt cũng thấy Phật và Bồ Tát hiện ở trước. Chúng ta nghe dễ quá phải không?

Tôi đọc trong A Hàm (Kinh A Hàm dạy tu Thiền theo Nguyên thủy), bài kinh Tứ Niệm Xứ, Phật dạy: nếu người nào tu quán Tứ niệm xứ từ một ngày, hai ngày, ba ngày, cho đến bảy ngày tâm không rời Tứ niệm xứ thì người đó khi nhắm mắt chứng tối thiểu là sơ quả Tu đà hoàn, nhị quả Tư đà hàm, tam quả A na hàm, tứ quả A La hán. Như vậy, chỉ quán Tứ niệm xứ trọn vẹn bảy ngày, không di chuyển, không di đổi, người đó nhắm mắt chứng được quả A La hán. Nếu kém hơn hoặc sáu, hoặc năm ngày thì chứng quả A na hàm, bốn ngày hoặc ba ngày thì có thể chứng quả Tư đà hàm. Nếu kém nữa, chỉ một ngày tâm không di đổi thì chứng quả Tu đà hoàn. Tu đà hoàn là quả bất thối chuyển, còn bảy đời sanh tử nhưng chỉ đi lên chứ không đi xuống. Vậy Kinh A Di Ðà và Kinh Tứ niệm xứ trong A Hàm nói không khác.

Thế thì dù niệm Phật, hay tu Thiền quán mà tâm chuyên chú an định từ một ngày cho đến bảy ngày thì nhất định người đó đạt được đạo quả. Tu Tịnh thì được thấy Phật, còn tu Thiền thì chứng từ sơ quả đến tứ quả. Chúng ta thấy tu có khó không? Phật hạn chỉ bảy ngày thôi. Cả đời chúng ta bao nhiêu ngày mà chỉ cần 7 ngày chuyên nhất không tạp cho đến dù một ngày thôi, tinh chuyên như vậy thì sẽ đạt được đạo quả. Nhưng sao không ai chịu hy sinh một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày, hoặc niệm Phật nhất tâm bất loạn, hoặc chuyên tâm, không di chuyển khỏi Tứ niệm xứ thì sẽ được Phật đón về Cực Lạc hay chứng Tứ quả Thanh văn?

Bây giờ quý vị thử niệm Phật từ sáu giờ sáng hôm nay cho đến sáu giờ sáng ngày mai, không có một niệm thứ hai chen vô thì nhất định được Phật đón về Tây phương. Người tu Thiền, quán thân bất tịnh, thọ thì khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã; luôn luôn di chuyển trong bốn phép quán đó, không để niệm nào chen vô, trong bảy ngày hoặc ít nhất một ngày đêm thì chứng Tu đà hoàn, nhất định tiến lên Thánh quả, chớ không lùi trở lại.

Như vậy sự tu hành dễ hay khó, có thể làm được không? Nhưng tại sao lâu nay chúng ta cứ trật vuột hoài, leo lên tụt xuống? Là vì sức định tâm của chúng ta yếu, nên đang nghĩ việc này thì không bao lâu thứ khác chen vô mất. Như quý vị đang lần chuỗi niệm Phật được dăm ba câu, bỗng có niệm khác chen vô. Cứ thế lặp đi lặp lại , không biết chừng nào xong. Nhớ người thì bóng người hiện, nhớ chùa thì bóng chùa hiện, nhớ huynh đệ thì bóng huynh đệ hiện. Phật bảo chỉ có bảy ngày mà không ai làm được dù một ngày, như vậy có dở không? Rõ ràng tu Tịnh Ðộ hay tu Thiền gì cũng vậy, nếu chúng ta quyết tâm xem như chết trong câu niệm Phật, chết trong quán Tứ niệm xứ thì đều thành công như nhau. Như vậy mới thấy sự tu rất dễ mà cũng rất khó. Rất dễ vì thời gian không cần nhiều. Rất khó vì tán tâm không làm được. Ðể thấy rằng trên đường tu, việc làm chủ tâm mình là vấn đề rất hệ trọng. Làm chủ mười người, hai mươi người dễ hơn làm chủ tâm mình. Ví như ông chủ sở, hay chủ xí nghiệp quản lý mấy chục nhân viên, bảo họ làm việc này, việc kia thì dễ mà bảo nhìn lại tâm mình thì làm không được. Nếu làm đúng như lời Phật dạy thì có lẽ chúng sanh thành Phật nhiều lắm rồi. Nhưng vì kẻ trộm lẻn vào phá hoài làm cho ta rối rắm mất hết công phu, nên Phật bảo điều khiển được mình là một việc làm rất khó. Tu chính là phải điều khiển được mình.

Ðối với người khác, vì thế lực của mình, vì quyền lợi của người, nên người ta phải nghe lời mình, tuân theo mình. Còn đối với chính mình, không có quyền lợi, không có thế lực gì cả, niệm trước bảo phải làm cái này, nhưng niệm sau nảy ra cái khác, chạy tán loạn hết. Vì vậy nói đến việc tu tưởng như dễ, cầm xâu chuỗi lần có gì khó? Nhưng nếu lần chuỗi để lần chuỗi thì ai làm cũng được, còn lần chuỗi niệm Phật để nhất tâm thì thật khó làm. Ngồi Thiền nửa giờ, một giờ thì ai cũng ngồi được, mà ngồi một giờ không có vọng tưởng dấy động, thì chuyện đó khó có người làm được.

Trên phương diện hình tướng cụ thể của thân, của cảnh sắp đặt rất dễ. Còn tâm không hình tướng, không chỗ nơi, cứ bỏ hở là vọng tưởng nó nhảy ra phá công phu của chúng ta. Vì vậy người tu năm này tháng nọ dồn hết công phu cố gắng gìn giữ tâm không để trống hở, như canh chừng mấy đứa trộm không cho nó chen vào, như vậy mười năm, hai mươi năm còn chưa thể được, huống là xem thường. Tu là canh chừng vọng tưởng. Nhiều người nói: vọng tưởng thì cứ cho nó nghĩ chớ việc gì phải canh chừng? Nó là tâm mình thì cứ để nó nghĩ đã rồi thôi.

Quý vị chưa tu nên nói vậy, chớ có tu sẽ thấy. Lâu nay chúng ta cứ lầm lẫn ngỡ vọng tưởng là tâm mình. Vì ngỡ là tâm mình, nên đuổi theo dục lạc thế gian rồi tạo nghiệp đi trong sanh tử luân hồi, đi này kiếp nọ liên miên. Do nó là chủ tạo nghiệp nên nó có sức mạnh dẫn chúng ta đi trong sanh tử. Dẹp được nó, tức là chúng sanh làm chủ được mình, không tạo nghiệp, hết sự ràng buộc, tự do tự tại, thì sanh tử làm gì lôi kéo được! Phật gọi người này đã giải thoát khỏi sanh tử.

Tôi thường hỏi: - Chúng ta tu để làm gì?
- Ðể giải thoát sanh tử
- Cái gì dẫn mình đi trong sanh tử?
- Nghiệp dẫn chúng ta di trong sanh tử.
- Cái gì tạo nghiệp?
- Thân, miệng, ý là ba chỗ tạo nghiệp.

Rõ ràng mục tiêu của chúng ta là giải thoát sanh tử. Vậy phải làm sao hết nghiệp? Thân nằm dài, miệng ngậm câm phải không? Không phải vậy. Thân hoạt động, miệng nói năng gốc từ ý. Tuy nói thân, khẩu, ý , nhưng thật ra ý nghĩ tốt thì miệng nói tốt, thân làm tốt; ý nghĩ xấu thì miệng nói xấu, thân làm xấu. Nói ba nhưng ý là gốc chủ động. Muốn hết nghiệp, chúng ta phải dứt niệm của của ý. Muốn dứt ý niệm thì đầu tiên chúng ta phải biết ý niệm là cái hư giả không thật. Lâu nay chúng ta khẳng định, "tôi nghĩ như vậy" tức ngầm cho cái ý là thật. Bây giờ biết nó hư ảo không thật, tìm cách dừng lặng để không bị nó tác oai tác quái nữa. Người tu Thiền hay niệm Phật cũng vậy, niệm đến nhất tâm thì ý không còn loạn động. Tu Thiền được định thì ý cũng lặng yên. Nhân tạo nghiệp không còn thì cái gì dẫn chúng ta đi trong sanh tử?

Thân này do tứ đại hợp, khi chết trả về cho tứ đại. Chúng ta biết thân sẽ hư hoại, ý nghĩ cũng huyền ảo. Khi dừng được ý hư ảo rồi thì còn gì nữa không? Tu là để nhận ra cái gì giải thoát, chớ thân hoại ý lặng rồi, chẳng lẽ mất hết sao? Cho nên tu là luyện lọc thân tâm, ngay nơi tâm thức của chúng ta cái gì thật, cái gì hư. Biết cái hư, bỏ không theo nó thì cái thật hiện ra, đó gọi là giải thoát sanh tử.

Cái chân thật ấy có nhiều tên gọi như Phật tánh, Chân như, Bồ đề, Niết Bàn... luôn sẵn trong ta. Song lâu nay chúng ta bị chú "Ý" này che phủ đi. Quý vị thử ngồi chơi trong năm phút mà không có ý niệm nào dấy lên xem. Nói ngồi chơi, chớ nhớ chuyện hôm qua, hôm kia, không bao giờ tâm rỗng rang nên chúng ta cứ bị ý thức che phủ mãi, vì cái ảo giác đó cứ làm quay cuồng nên chúng ta không nhận ra được cái chân thật của mình. Vì vậy ngồi thiền để định tâm hư ảo, định những thứ quay cuồng đó lại. Ðịnh được rồi thì cái thật sẽ hiện ra.

Tu Thiền cốt để dừng những niệm hư ảo của ý thức. Niệm Phật nhất tâm cũng để dừng niệm hư ảo của ý thức. Một bên thấy Bồ đề, Niết Bàn, một bên thấy Ðức Phật A Di Ðà tới đón. Vì ý nghĩa sâu kín mầu nhiệm như vậy, chúng ta mới dụng công tu hành, chớ nếu tầm thường thì tu làm gì? Có thông hiểu thấu suốt chúng ta mới thấy việc làm của người tu không phải là hình thức cúng kính bên ngoài; nó sâu thẳm ở bên trong. Khi làm chủ được ý niệm lăng xăng cuả mình rồi, những vọng tưởng lặng xuống thì cái chân thật hiện tiền. Sống được với cái chân thật đó là giải thoát sanh tử, đời đời không bao giờ mất. Còn mang nghiệp do ý tạo thì mất thân này chụp thân kia, mất thân kia chụp thân nọ, sanh tử biết bao giờ cùng?

Vì vậy trong kinh Ðức Phật nói, con người sanh ra rồi chết đi, đời này qua đời nọ, mỗi một đời khóc bao nhiêu nước mắt. Nếu gom hết nước mắt của chúng sanh trong nhiều đời nhiều kiếp còn hơn nước của biển cả. Cái khổ luân hồi sanh tử thật không cùng. Mấy chục năm hết một đời. Trong một đời khóc bao nhiêu lần. Hồi lọt lòng mẹ đã khóc rồi, cho tới già sắp chết cũng khóc nữa, thành một chuỗi dài cứ khóc và khóc. Ðến khi mất thân này, tìm lại thân khác tiếp tục khóc nữa, thành một chuỗi dài cứ khóc và khóc. Còn nghiệp dẫn là còn khổ đau. Vì vậy muốn giải thoát sanh tử phải dừng hết nghiệp. Muốn hết nghiệp phải dừng từ trong ý, vì nó là động cơ chủ yếu tạo nghiệp.

Tại sao chúng ta phải ngồi thiền hai ba tiếng đồng hồ, chân tay đau tê cóng mà cũng ráng ngồi? Ngồi là trước để hàng phục thân, làm chủ thân rồi kế đó hàng phục ý. Muốn làm chủ ý phải có thời gian dài, vì nếu ngồi năm ba phút hay nửa giờ, tâm mới vừa hơi yên thì hết giờ, nên ngồi một hai tiếng để có thời gian dài chúng ta mới thấy rõ ý thức còn sức mạnh hay đã yếu rồi. Trong các thiền viện tôi bắt ngồi thiền hai ba tiếng đồng hồ. Có nhiều người lúc đầu hăng hái đến xin tập tu, được vài hôm rồi xin rút lui vì theo không nổi. Tôi chủ trương như vậy không phải để hành hạ thân một cách vô ích. Bởi vì có hai lý do:

a. Một, nếu chúng ta không làm chủ được thân này thì chúng ta dễ bị lệ thuộc nó, nên đau thì chịu đau, phải thắng nó mới có thể vượt qua. Chúng ta ai cũng biết giờ phút tắt thở là giờ phút đau khổ nhất, nếu không có sức làm chủ thân thì không sao an ổn lúc lâm chung. Làm chủ được thân thì giờ phút đó chúng ta mới định tĩnh ra đi. Bằng không thì lúc đó rối loạn, thấy cái gì chụp cái ấy, thật nguy khốn. Nên trứơc phải làm chủ cái thân.

b. Hai, là phải làm chủ được ý. Ý thức rất linh hoạt, dễ phóng ra bên ngoài. Nếu không dùng phương tiện để điều phục thì sẽ khó định tâm lặng ý. Do đó từ thời Phật cho đến bây giờ, phương pháp tọa thiền được xem như tối thắng nhất để định tâm. Vì vậy tôi chủ trương Tăng Ni tu muốn tiến lên phải siêng năng tọa thiền. Làm chủ được thân tâm rồi mới đi tới giải thoát sanh tử.

Chúng ta nhìn lại đạo Phật, dù cho tông này hay phái kia khác biệt nhưng rốt lại đều cùng một mục đích là dừng ý niệm lăng xăng, để cái chân thật được hiện bày, đó là chỗ gặp nhau. Vì vậy người tu Tịnh Ðộ hay nói "Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương" nghĩa là ba nghiệp hằng trong sạch thì đồng với Phật đi về cõi Phật không nghi ngờ. Tu Tịnh Ðộ thì cầu về Cực Lạc, còn tu Thiền là nhận được bản lai diện mục hay nhận được Pháp thân v.v... Ðó là điểm tương đồng thứ nhất giữa Tịnh Ðộ và Thiền.

Ðiểm thứ hai: nói về lý và sự Tịnh Ðộ. Sự Tịnh Ðộ là chúng ta tin cách đây mười muôn ức cõi có thế giới tên là Cực lạc. Do tin chắc không nghi ngờ nên cố gắng niệm Phật, đến khi nào nhất tâm, chừng đó nhắm mắt thấy Phật rước về Tây phương, sung sướng không còn khổ sở như ở cõi Ta bà này nữa. Ðó là Sự Tịnh Ðộ. Về Lý Tịnh Ðộ thì trong kinh Duy Ma Cật nói: "Tâm tịnh thì Ðộ tịnh". Nếu muốn cõi nước thanh tịnh trước hết phải tịnh tâm của mình. Tâm thanh tịnh thì cõi nước thanh tịnh. Hoặc có chỗ nói "tự tánh Di Ðà, duy tâm Tịnh Ðộ"; tức tánh của mình là Phật Di Ðà, tâm của mình là cõi Tịnh Ðộ. Như vậy Tịnh Ðộ và Ðức Phật Di Ðà ở ngay nơi mình chớ không phải ở bên trời Tây. Lý Tịnh Ðộ này rất phù hợp với Thiền.

Tại sao phù hợp? Vì người tu thiền cốt xoay trở lại nội tâm của mình. Khi dẹp sạch vọng tưởng lăng xăng rồi thì tâm thanh tịnh hiện ra gọi là pháp thân bất sanh bất diệt hằng giác, hằng tri. Nghĩa là chúng ta tu để nhận ra tâm thanh tịnh không còn vọng tưởng, thể nhập được pháp thân bất sanh bất diệt, hằng giác hằng tri. Thì Tịnh Ðộ nói Phật Di Ðà là tự tánh, còn tự tâm thanh tịnh là cõi Tịnh Ðộ. Ðức Phật A Di Ðà tiếng Phạn đọc là Amitabha Buddha. Trung Hoa dịch là Vô lượng thọ, Vô lượng quang. Vô lượng thọ là sống lâu vô lượng, đồng nghĩa với pháp thân bất sanh bất diệt. Vô lượng quang là luôn luôn sáng suốt, đồng nghĩa với Phật tánh hằng tri hằng giác. Ðức Phật A Di Ðà là biểu trưng cho Phật Tánh. Lý Tịnh Ðộ là lý Thiền, không có gì khác nhau hết.

Ðối chiếu như vậy để chúng ta thấy ý nghĩa của người tu Thiền và người tu Tịnh Ðộ không hai, không khác. Do đó Phật Tử chúng ta khi tu Phật đừng quan niệm rằng mình làm thế này, thế nọ, Phật sẽ ban ơn ban phúc. Quan niệm như thế là sai lầm. Tu để chủ động lấy mình. Ý nghiệp lặng xuống thì được giải thoát chớ thật tình Phật không ban ơn ban phúc cho chúng ta. Phật dạy nhân quả là gốc của sự tu. Nhân tốt thì hưởng quả tốt, chớ không phải Phật ban cho ta được. Song Phật tử chúng ta chỉ muốn xin Phật thôi. Tu coi bộ phiền mất thì giờ. Cứ cúng một ít rồi Phật ban cho con cái này cái nọ là xong. Chỉ cần mỗi tháng đi chùa hai lần, để dành ít tiền ngày 30 hay Rằm, sắm hương hoa, trái cây... quý thầy đánh chuông, lạy ba lạy, cúng đĩa quả là đủ rồi. Phật tử đi chùa như vậy so với lý thật của đạo thật là cách xa muôn dặm! Chúng ta phải ý thức rằng tu Phật là cốt làm sao để mình trở thành con người giác ngộ, không còn bị nghiệp lôi dẫn trên đường sanh tử nữa. Ðó là mục đích tối thượng của chúng ta. Dù đời này chúng ta tu không xong, còn phải tới lui cõi này nhưng mục đích tối thượng đó phải giữ vững, đừng để lệch hướng. Cũng như người đi biển cần có la bàn vậy, phải khẳng định không nhầm lẫn. Nhắm đúng rồi, đời này tu được bao nhiêu, đời sau tu tiếp nữa, cứ như vậy tu tiếp mãi, chừng nào xong việc mới thôi.

Trong kinh nói Ðức Phật tu vô số kiếp, hay là ba a tăng kỳ kiếp, tức là ba vô số kiếp. Nghe ba vô số kiếp quý vị có ngán không? Chữ kiếp không phải một đời của mình đâu. Kiếp là trải qua bao triệu năm. Vậy ba vô số kiếp là bao nhiêu triệu năm, qúi vị nghĩ mà ngán phải không?

Phật vì sợ chúng ta ngán nên nói: Không sao! Nếu khéo tu thì mê là chúng sanh, giác là Phật. Nhanh như trở bàn tay, đang úp lật lại thành ngửa. Ðang mê mà giác thì thành Phật ngay thôi. Nói như vậy có gạt chúng ta không? Không gạt, nhưng thành Phật có nhiều cách. Bởi vì Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.

Ðối với chúng ta, phần tự giác là muốn hết sức rồi lại phải giác tha nữa. Tức là khi nào mình và người khác giác hết mới thành Phật. Nên nhận ra được tánh Phật gọi là thành Phật. Thành Phật đây chỉ là lóe thấy Phật của mình thôi. Còn biết bao nhiêu phiền não, tập khí muôn đời phải trừ bỏ nữa. Tôi thường ví dụ chúng ta tu như đi trong đêm ba mươi trời chuyển mưa. Lâu lâu có chớp lóe lên, nhờ đó ta thấy được một đoạn. Trời tối lại, rồi chớp lên thấy được đoạn nữa. Cứ thế tu dần dần. Hiện người tu bây giờ sức tỉnh giác cũng như ánh chớp ấy thôi. Giờ này đang nghe kinh hoặc ngồi thiền thấy tỉnh lắm, nhưng giờ khác tiếp xúc với mọi người liền quên mất, rồi cũng buồn cũng giận. Khi ngồi lại tu thấy tỉnh, thấy giác nhưng đụng việc cũng phiền não như ai . Cứ thế từ năm này sang năm khác, rốt cuộc nhắm mắt cũng chưa xong xuôi. Ðó là bệnh chung của mọi người. Chúng ta cần biết không phải một lần giác là xong ngay.

Phật tử lúc nào cũng tin tưởng lời Phật dạy, tin tưởng lời quý thầy giảng, biết nóng giận là tật xấu, là tiêu mòn công đức. Nhưng vừa gặp người nói trái tai liền nổi giận đùng đùng. Ai gan lắm thì kềm giữ không cho hiện ra ngoài nhưng vẫn ấm ức trong lòng không an. Chúng ta biết đó là tật xấu, biết rõ 100% như vậy mà muốn bỏ không phải là dễ. Chúng ta thấy trải qua bao nhiêu kiếp mê lầm giờ đây tỉnh lại nhưng bỏ vẫn không được. Giống như mấy chú ghiền thuốc, ghiền rượu vậy. Biết rượu, thuốc là hại, ngồi một mình, thì nhịn mà có bạn tới đưa thuốc thì lấy liền. Như vậy mới thấy tập khí kéo lôi thế nào. Người chưa từng ghiền thuốc dù có mời họ cũng không thèm lấy, cho nên khi đã huân chủng tử lâu đi thì bây giờ bỏ hết sức là khó.

Lâu nay chúng ta thừơng nghĩ người lớn tuổi rảnh rang công việc dễ tu, còn mấy đứa bé 15, 17 tuổi khó tu. Ðiều này chỉ đúng phần nào thôi. Già thì rảnh rang có thì giờ, nhưng tập khí đầy ắp bên trong, nên ngồi lại là nhớ chuyện năm trên năm dưới, không làm sao tu được. Mấy đứa nhỏ tuy lăng xăng công việc học hành thấy như khó tu, nhưng tâm nó trong trắng chứa ít chủng tử. Như người không ghiền rượu nghe Phật cấm rượu liền cười , dễ quá. Còn người ghiền rượu nghe Phật cấm rượu liền thấy khổ ngay. Người không ghiền, bảo bỏ rượu là chuyện thừa; còn người ghiền, bảo bỏ rượu là việc cay đắng. Các thứ khác cũng vậy. Cho nên, trẻ mà ham tu thì mau tiến. Còn người già tuy có thì giờ rộng rãi nhưng tu lâu tiến, vì chủng tử nhiều quá. Nó cứ quay lại, muốn bỏ, bỏ không được. Hơn nữa người già tinh thần suy yếu không đủ sức mạnh gạt bỏ những thói quen cũ nên khó bỏ. Do đó mỗi thế hệ có cái khó riêng, mà cũng có cái dễ riêng. Hiểu vậy rồi chúng ta mới thấy việc tu tập không dành riêng cho giới nào hết, ai quyết tâm thì người đó tu được.

Chúng ta tu là làm sao tiêu diệt được nhân tạo nghiệp. Nhân tạo nghiệp lặng thì quả nghiệp không còn. Quả nghiệp không còn thì chúng ta tự tại, không bị lăn lộn trong sanh tử, đó gọi là giải thoát. Giải thoát sanh tử nhưng vẫn còn cái chân thật hiện hữu nơi mình. Khi còn tại thế, có người hỏi Phật: Thân này chết rồi còn hay hết? Phật không trả lời. Bởi vì còn nghiệp thì còn sanh trở lại. Nếu nói hết, người ta tưởng không còn gì cả. Chỉ người tu khi sạch nghiệp rồi thì tự tại không bị nghiệp lưu chuyển trong sáu nẻo. Phật dạy: Khi mất thân này, diệt được tâm niệm sanh diệt rồi thì thể thanh tịnh sáng suốt của mình trùm khắp. Thể ấy không có tướng mạo, không có gì chi phối cả nên gọi là giải thoát sanh tử.

Hiện tại lúc nào chúng ta cũng sẵn thể chân thật đó. Khi ý niệm dấy khởi tính toán so đo, phân biệt hơn thua, lăng xăng, đó là cái gốc tạo nghiệp. Nhưng khi ý nghiệp không dấy động thì tâm có không? Tâm là cái "Biết" đó. Ý niệm tuy không dấy động nhưng chúng ta vẫn biết. Mắt biết, mũi biết, tai biết, lưỡi biết, thân biết, như vậy là hằng biết. Cái biết ấy thênh thang, không chỗ nơi để chúng ta dò tìm, nhưng luôn hiện hữu. Vì vậy khi các thứ che đậy, mê mờ lặng rồi thì nó hiện rõ ràng, còn bây giờ vì vô minh che lấp nên chúng ta không nhận ra nó. Khi nghĩ suy chúng ta nói tôi nghĩ, tôi suy. Khi không nghĩ suy thì ta vẫn hằng tri hằng giác. Có biết nhưng vì tánh biết bàng bạc nên chúng ta không thể chỉ ra được.

Chỉ khi ý thức dấy nghĩ mới có bóng dáng kèm theo. Như vừa nhớ người thì bóng người hiện, nhớ chùa thì bóng chùa hiện, nhớ huynh đệ thì bóng huynh đệ hiện. Nhớ là dấy niệm. Nhà Phật gọi đây là pháp trần. Phần này rất phù hợp với khoa tâm lý học. Như hôm rồi xuống bắc Mỹ Thuận, tôi thấy chú thanh niên một chân bị hư máng trên vai, còn một chân, chống cây gậy. Trước khi thấy chú, trong tâm tôi không có bóng dáng đó; nhưng thấy rồi thì đến nay nhớ lại, hình ảnh ấy hiện ra rõ ràng. Bóng dáng mà tôi nhớ ở trong lòng đó, nhà Phật gọi là "pháp trần". Chữ "trần" là những hình dáng tế nhị chớ không phải thô phù; hình dáng ấy lưu lại trong tâm ta nên khi nhớ đến thì chúng hiện ra ngay. Như vậy từ nhỏ đến già những bóng dáng đó ghi vào tâm thức của chúng ta nhiều hay ít? Nếu phân ra không biết mấy trăm, mấy ngàn lớp? Do đó, khi ngồi yên, lớp này nhẩy ra tới lớp khác liên miên chập chồng. Vì vậy, khi tu là chúng ta cố gắng gạt nó qua một bên để cái chân thật được hiện bày. Bởi vì chỉ khi bóng dáng đó lặng hết thì ông chủ xưa nay mới hiển lộ. Do đó dụng công tu là việc hết sức tế nhị chớ không phải thường.

Người ta thấy ở chùa quá đơn giản, gõ mõ tụng kinh, đi tới đi lui có gì là quan trọng. Nhưng thật ra người tu phải quan sát nội tâm, luôn luôn chiếu soi để làm chủ trọn vẹn được mình, không còn lệ thuộc với pháp trần là điều rất khó. Tóm lại, tất cả pháp của Phật dạy tuy có chia ra nhiều môn, nhiều phái, song các phái đều y cứ theo những gì Phật dạy mà tu hành. Tuy phương tiện có khác nhưng cứu kính đều gặp nhau. Người tu Tịnh Ðộ thì niệm Phật cho tới Nhất tâm. Người tu Thiền thì phải được Ðịnh.

Có người nói Thiền-Tịnh song tu, tức là tu một lượt cả hai pháp. Như vậy làm sao tu? Bởi vì Tịnh Ðộ đặt lòng tin lên trên. Tin có cõi Cực Lạc, tin có Ðức Phật Di Ðà chuẩn bị đón tiếp nên cố lòng niệm Phật, niệm chí tâm đến chỗ nhất tâm, thì thành công. Nhờ niềm tin mạnh cho nên quyết tâm tu, mà quyết tâm thì thành công. Còn tu Thiền là biết rõ các pháp duyên hợp, như huyễn không thật nên không tham trước, không dính mắc, cố gắng dẹp những bóng dáng che phủ nội tâm khiến cho nó lặng sạch nên tâm được định. Như vậy, một pháp tu suốt đời chưa rồi mà dồn hai pháp lại làm sao kham? Lại Ngài Bạch Ẩn, một Thiền Sư Nhật Bản nói thí dụ này: Người sợ tu Thiền không đủ, phải tu thêm Tịnh Ðộ giống như người muốn qua sông gấp, sợ đi một chiếc đò chậm, nên kêu hai chiếc rồi đứng một chân chiếc này, một chân chiếc kia. Như vậy đi được tới bờ không, hay nửa đường đò sẽ bị rơi? Chúng ta phải hiểu thật kỹ. Nếu không chín chắn, muốn cho mau chóng và dễ tu, không ngờ chính chúng ta làm trở ngại sự tu của mình.

Tu các pháp môn của Phật giống như người leo núi. Một ngọn núi cao, người ở hướng Tây có lối lên của hướng Tây, người ở hướng Ðông có lối lên của hướng Ðông, hướng Nam, hướng Bắc cũng vậy. Trong bốn lối đó chúng ta thích lối nào thì đi lối đó. Ðã chọn rồi phải quyết chí đi. Dù leo lên thấy khó, cũng ráng mà leo lên đến đỉnh. Ðường đi từ bốn hướng khác biệt, nhưng tới đỉnh rồi thì đều gặp nhau. Cũng vậy, pháp môn Tịnh Ðộ, pháp môn Thiền v.v... tên có khác, hướng tu có khác, nhưng cứu kính đều gặp nhau.

Hiểu như vậy rồi, chúng ta tu không còn chê bên này, khen bên kia, mà chỉ nên tự trách mình chưa cố gắng, chưa quyết tâm. Mong rằng tất cả chúng ta cố gắng thực hiện công phu tu hành của mình đạt đến kết quả viên mãn, theo nhân duyên riêng của mỗi người trong tinh thần hòa hợp và đúng với tinh thần của Phật dạy.

Hòa thượng Thích Thanh Từ

Sunday, August 25, 2013

Con sóng nhận thức

****************

Nhìn thấy một con sóng cao lớn bên cạnh, con sóng nhỏ tỏ ra bực mình:
- Bực ghê. Sóng kia lớn quá, sao ta bé tí. Chúng mạnh mẽ xiết bao sao ta yếu đuối thế này.
Con sóng to cười đáp:
- Đó là vì không nhận ra gốc gác của mình mà bạn buồn bực thế.
- Tôi không là sóng thế là gì?
- Sóng chỉ là hình thức tạm thời trong bản chất của bạn. Kỳ thực bạn là nước. Một khi nhận ra bản chất của chính mình là nước, bạn sẽ không còn ấm ức với cái vỏ sóng này và không còn buồn bực gì nữa.
Con sóng nhỏ hiểu ra, cười vui vẻ:
- À, bây giờ thì tôi hiểu. Bạn và tôi tuy hai mà một.


Lời bình
---------
Con người cho rằng "ngã" là ta nên xảy ra phân biệt ta và người mà buồn khổ. Thực ra loài người được cấu tạo cùng một bản chất trong thiên nhiên bao la

( Sưu Tầm )

8 - TÍNH TRONG SÁNG CỦA TÂM

8 - TÍNH TRONG SÁNG CỦA TÂM




CHUẨN BỊ KHOẢNG TRỐNG NHỜ "KHÔNG THẤY"

Như ta đã nói, ba điều kiện tiên quyết của sự thực hành mật tông là từ bỏ, bồ đề tâm và chính kiến về Tính không. Tuy nhiên điều này không có nghĩa cần phải thực chứng ba điều ấy một cách viên mãn ta mới có thể khởi sự tu mật tông. Một hiểu biết chính xác cũng đã đủ để khởi hành.

Ví dụ thực chứng Tính không -bản chất tối hậu của các pháp- là một thành tựu sâu xa. Nếu phải đợi đến khi ấy mới có thể tu mật tông, thì bao giờ ta mới tu được? Có lẽ không bao giờ. Nhưng may thay không phải vậy. Muốn tu tập các loại chuyển hóa của mật tông, ta chỉ cần có khả năng nới lỏng phần nào ngã chấp là đủ. Ta không cần phải thực chứng toàn vẹn tính phi thực của cái tôi, song quả thực ta cần có khả năng dành một ít khoảng trống trong cái tâm phàm tình của ta.

Những lạt ma Tây tạng thường nói: "Không thấy là cái thấy toàn vẹn." Có lẽ đây là một lời nói lạ lùng, nhưng có một ý nghĩa thâm thúy. Nó diễn đạt kinh nghiệm của thiền giả cao thâm về thực tại khoáng đạt, phổ quát, kinh nghiệm vượt ngoài nhị nguyên.

Trong kinh nghiệm phàm tình, chúng ta thường bị tràn ngập bởi vô số nhận thức và quan niệm đối đãi. Hàng ngày ta bị lôi cuốn bởi những đối tượng ta khoái và chán ghét những đối tượng làm ta khó chịu. Mang nặng một ý thức hẹp hòi về bản ngã, ta để hết thì giờ chạy theo cái này, tránh xa cái khác. Như đã nói, ta có thói quen thâm căn cố đế là nhìn sự vật theo kiểu nhị nguyên đối đãi hoặc xấu hoặc tốt, và tin vào sự phân biệt so đo của mình. Thói ấy chỉ tổ đưa ta đến rối ren bất mãn không ngừng tái diễn. Nhưng ta có thể đào luyện một lối nhìn khác hẳn. Khi đã chán chường cuộc chạy lòng vòng hụt hơi trong sinh tử bất tận, ta có thể luyện tập một sự tỉnh giác sắc bén để nhìn thẳng vào cái cách hiện hữu thực thụ của mọi sự vật.

Sự luyện tập này tiến hành qua nhiều giai đoạn, có giai đoạn cần nhiều phân tích và khái niệm, có giai đoạn phải kinh nghiệm trực tiếp. Cuối cùng, khi ta đã an trú kinh nghiệm về tính khoáng đạt, thì những tướng trước kia có vẻ chắc thực bắt đầu tan biến. Như những đám mây tan biến trong bầu trời mùa hạ, những cái thấy nhị nguyên của ta chấm dứt, chỉ còn lại không gian trong sáng của bất nhị. Trong khoảng không ấy không có những phân biệt rõ rệt đây và kia, tâm ta cảm thấy an tịnh, vô biên, thoát ngoài mọi giới hạn. Không còn bận tâm tới sự "thấy" chấp tướng thường ngày, chúng ta thâm nhập vào cái thấy toàn vẹn của kinh nghiệm bất nhị.

Đừng tưởng tâm ta khi ấy rơi vào một trạng thái trống rỗng như giấc ngủ, trái lại nó hoàn toàn tỉnh thức và bén nhạy- không chối bỏ gì hay xác quyết gì, mà chấp nhận mọi sự. Thay vì cảm thấy bị vướng bẫy, bị hạn cuộc, bị bắt buộc tái diễn mãi những tấn tuồng vô vị của bản ngã, chúng ta khởi sự nếm vị giải thoát chân thực của tâm thức không còn vướng mắc. Sự giải thoát này có thể đạt được, chính vì cái tâm nông cạn, ước lệ, bốc đồng, nhị nguyên không phải là bản chất thực thụ của ta. Bản chất căn để của ta vốn sáng sạch như pha lê, không có chỗ cho ý tưởng tự thương thân trách phận; ý tưởng này tự động tan biến, và cùng với nó, tất cả những giới hạn giam giữ ta cũng tan mất.

Khi an trú trong trạng thái tâm trong sáng tự nhiên, ta sẽ có thì giờ và khoảng trống để nhìn sự vật không mê lầm. Ta lại còn có thể làm công việc hàng ngày của ta một cách tốt đẹp hơn. Nhiều người ngạc nhiên về điều này, họ bảo: "Nếu tôi để cho tâm mình trở về trạng thái tự nhiên đơn thuần của nó, làm sao tôi có thể sống trong cuộc đời phức tạp này? Làm sao tôi có thể đi chỗ này chỗ kia? Làm sao tôi có thể duy trì công việc? Làm sao tôi có thể nấu một bữa ăn? Làm sao tôi có thể làm bất cứ gì?" Nhưng lo sợ như thế là vô lối. Vì sự thực là, tâm trạng có sáng suốt trong lặng, ta mới có thể đặt hết chú ý vào công việc, và làm việc một cách tốt đẹp. Rắc rối phát sinh là khi ta không sống trong trạng thái tâm tự nhiên. Khi ấy bất cứ đang làm gì, tâm bạn cũng hướng về một cái gì khác. Đáng lẽ để ý vào công việc trong khi lau nhà, tâm bạn lại nghĩ đến chuyện đi biển và ăn kem. Chính lúc ấy bạn mới gặp rắc rối.

TÍNH TRONG SÁNG KHÔNG HAI

Khi quán sát dòng tâm thức trong thiền định, ta có thể có được kinh nghiệm khoáng đạt về tính bất nhị. Theo dõi những ý tưởng, ta sẽ thấy chúng tự động sinh khởi, ở lại rồi biến mất. Ta không cần cưỡng bức xua đuổi ý nghĩ ra khỏi tâm. Mỗi ý nghĩ tự nhiên sinh khởi từ bản chất trong sáng của tâm, rồi cũng tự nhiên tan vào đấy. Khi những ý tưởng cuối cùng tan biến, hãy tập trung không xao lãng vào bản chất trong sáng còn lại của tâm, càng lâu càng tốt.

Ta nên tập đừng quá chú ý vào bất cứ một ý tưởng nào liên tục khởi lên trong tâm ta. Tâm ta như một đại dương rộng lớn có đầy đủ không gian cho đủ loại tư tưởng và cảm xúc bơi lội. Đừng xao lãng sự chú ý của ta vào bất cứ một tư tưởng hay cảm xúc nào. Không hề gì nếu một "con cá" đặc biệt nào trong đó trông đẹp đẽ hay gớm ghiếc. Ta phải luôn tập trung vào sự trong sáng nguyên ủy của tâm. Cho dù một cảnh tượng tráng lệ hiện ra - cảnh mà bao lâu nay ta mong được thấy - cũng đừng chú ý. Nhưng dĩ nhiên ta phải biết những gì đang xảy ra. Vấn đề là đừng trở nên quá cùn nhụt tâm trí đến độ không để ý gì nữa. Hãy theo dõi sự sinh khởi các ý tưởng, mà không vướng vào một ý nào. Thay vì thế, ta nên để ý đến sự trong sáng nguyên ủy, nền tảng từ đấy những ý tưởng khởi sinh.

Tại sao cần phải quán tính trong sáng của tâm? Vì nguồn gốc mọi vui khổ của ta, cội rễ nỗi đau sinh tử cũng như phúc lạc niết bàn, đều do tâm. Và trong tâm, chính thói quen thấy biết sai lầm của ta - ngã chấp ngu si bất ổn - đã bám lấy ảo tưởng về một cái tôi xem như thực có. Cách đánh tan bùa lực của ảo tưởng này là phải thấy được bản chất huyễn ảo của các pháp, và nhận ra mọi hiện tượng chỉ là những tướng phù du chợt hiện lên trong khoảng không gian trong sáng của tâm thức. Như thế, càng quán tưởng tính trong sáng ấy bao nhiêu ta càng ít bám víu và ít đau khổ bấy nhiêu.

Nhờ ngắm những ý tưởng ta đến rồi đi như thế mà ta càng lúc càng tiếp cận với cái nhìn đúng (chính kiến) về Tính không. Những tướng có vẻ như thật sẽ sinh khởi, ở lại một lúc rồi tan biến vào trong bản chất trong sáng của tâm ta. Khi mỗi ý tưởng biến mất theo cách ấy, ta nên tập luyện để thấy rằng sự tan biến này còn thực hơn cả cái tướng cụ thể xuất hiện trong tâm thức. Càng luyện tập để "không thấy", thì ta càng quen thuộc với không gian khoáng đạt trong sáng của tâm ta. Khi ấy, cho dù những ý tưởng và cảm xúc hết sức "phá đám" như giận dữ, ganh tị khởi lên, ta vẫn tiếp xúc được với tính trong sáng căn để của tâm thức. Sự thanh tịnh ấy luôn luôn ở với ta, cho dù ta có kinh quá những mê vọng nào đi nữa, thì những kinh nghiệm ấy cũng chỉ là những chướng ngại bên ngoài cuối cùng sẽ qua đi, để lại chúng ta với bản tính thanh tịnh sơ nguyên của tâm thức.

Khi bạn ngắm nhìn tâm mình với sự tỉnh giác cao độ, gạt ngoài mọi ý tưởng thiện ác, tự nhiên bạn được đưa đến kinh nghiệm về tính không hai (bất nhị). Như thế nào? Hãy nghĩ về điều này như sau: bầu trời trong xanh ví như tâm thức, còn khói và những ô nhiễm phà vào đó là tất cả những khái niệm thiếu tự nhiên, giả tạo mà vô minh ngã chấp đã chế biến ra. Dù hiện tại chúng ta bảo những chất ô nhiễm đang nhiễm độc bầu khí, song chính bầu trời không bao giờ thực sự bị ô nhiễm bởi những thứ làm ô nhiễm. Bầu trời và ô nhiễm, mỗi cái giữ bản chất của riêng nó. Nói cách khác, từ căn để, bầu trời vẫn không bị ảnh hưởng dù có bao nhiêu năng lượng độc tố đi vào trong nó. Bằng chứng là khi điều kiện thay đổi, bầu trời lại trở thành trong sáng như trước. Cũng vậy, cho dù những ý tưởng do ngã chấp có gây rắc rối đến đâu, chúng cũng không bao giờ ảnh hưởng đến bản chất sáng sạch của tâm ta. Trên phương diện tương đối, tâm ta vẫn thanh tịnh vì tính trong sáng của nó không bao giờ lẫn lộn với tính rối ren mờ mịt.

Cả trên phương diện tuyệt đối, tâm ta cũng luôn luôn trong sáng thuần tịnh. Tính bất nhị của tâm thức không bao giờ bị tổn hại vì những khái niệm đối đãi nhị nguyên khởi lên trong tâm. Về phương diện này, tâm hiện tại thanh tịnh, tâm quá khứ đã thanh tịnh, và tâm tương lai vẫn còn thanh tịnh.

Bạn có thể hỏi, thế thì bản chất của những tâm mê muội như ganh tị, giận dữ cũng trong sáng luôn sao? Phải, tất cả tâm đều có cái bản chất trong sáng phi thực như thế. Dù là tâm xấu hay tốt, không lỗi hay mê lầm, tất cả tâm đều phản chiếu rõ rệt đối tượng riêng. Cũng như một tấm gương phải sáng không được mờ, mới phản chiếu được hình ảnh của cái mặt, dù cái mặt ấy xấu hay đẹp. Cũng vậy, tâm phải trong sáng (mới có những ý tưởng thiện ác khởi lên - DG ). Nếu một tâm không trong sáng, thì nó sẽ không phản chiếu được bất cứ gì, dù xấu hay tốt.

Ta có thể ví những trạng thái tâm tích cực như nước trong lặng đứng yên, còn những trạng thái tâm mê muội như nước sôi hay nước đục. Nếu quan sát bản chất nước sôi ta sẽ thấy mặc dù bị quấy động, mỗi giọt nước vẫn trong sáng. Tâm ta cũng vậy: dù nó yên tịnh hay sôi sục do những cái thấy đối đãi rắc rối, thì bản chất căn để của nó vẫn trong sáng, và có ý thức. Kết luận là, tất cả chúng ta đều có khả năng di chuyển từ trạng thái tâm mê muội ô nhiễm của ngã chấp đến trạng thái trong sáng của tâm thanh tịnh.

Ta không bao giờ nên nghĩ tâm mình đã quá ô nhiễm không cách gì cứu chữa. Chuyện này vô lý. Nếu luyện tập để nhận diện và đi vào trạng thái tự nhiên của tâm, cuối cùng ta sẽ kinh nghiệm được sự giải thoát của tuệ giác bất nhị.

NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA TÂM THỨC

Theo quan điểm Phật giáo, tất cả những hoàn cảnh ta gặp trong đời đều là những biểu hiện của tâm ta. Đây là tri kiến cốt tủy của đạo Phật. Cảnh ngộ khổ đau rắc rối xuất phát từ một tâm rắc rối khổ đau, và bất cứ hạnh phúc nào ta nếm trải- từ lạc thú tầm thường cho đến tịnh lạc của giác ngộ- đều có gốc rễ nơi tâm.

Khi nhìn lại đời mình, ta có thể dễ dàng thấy nó toàn do tâm ta điều khiển, nhất là cái tâm bám víu. Chúng ta không ngừng nghĩ đến chuyện đi đây đi đó, có được cái này cái khác, rồi hành động theo những ước muốn này để theo đuổi sự thỏa mãn.

Không những cái tâm lăng xăng của ta luôn nảy sinh những ý tưởng mới, mà ta còn có khuynh hướng đi theo sự dẫn đạo của chúng, bất kỳ chúng đưa ta đến đâu. Hậu quả là ta cứ bị cám dỗ chuyển từ cảnh ngộ này đến cảnh ngộ khác với hi vọng được hạnh phúc, thế nhưng cuối cùng ta chỉ có rước lấy mệt mỏi thất vọng. Giải pháp không phải là ức chế những ý tưởng và ham muốn của mình, vì điều này không thể, chẳng khác nào đè nén cái nắp nồi nước sôi sục để ngăn nó đừng sôi. Phương pháp có lý duy nhất là tập quan sát những ý nghĩ của ta, nhưng không làm theo chúng. Điều này làm cho chúng hết năng lực cưỡng bức ta, cũng như đem nồi nước sôi ra khỏi lò lửa. Cuối cùng sự yên tĩnh trong sáng sẽ trở lại.

Con người chúng ta thường rất hãnh diện về khả năng suy tư của mình, thế nhưng có lắm sự suy nghĩ của ta đã làm cho sự thể trở nên rắc rối một cách không thể tưởng tượng. Thử nhìn chỉ một mảnh giấy gói sô cô la cũng đầy ắp thông tin và quảng cáo. Ta cứ nghĩ là cái khả năng đẻ ra thật nhiều tư tưởng từ một vật đơn giản duy nhất đó là một dấu hiệu của trí thông minh, song phần lớn những gì ta làm với trí thông minh ấy quả thực thiếu tự nhiên, và hoàn toàn không cần thiết.

Dĩ nhiên óc duy lý của chúng ta- cái tâm thô động vướng mắc vào những giá trị xã hội- luôn tin tưởng mọi việc ta làm đều quan trọng. Nhưng ta không nên khờ dại tin đấy là chân lý. Có thể ta phải chấp nhận nhiều điều để sống hàng ngày, nhưng không cần phải tin tưởng vào chúng. Và khi tâm đang rối ren, ta cũng không nên tin chính mình.

Điều ấy có nghĩa mọi sự ta làm và nghĩ đều sai chăng? Không, vẫn có một vài sự thực nơi những gì đang xảy đến. Ví dụ, dù bầu trời bản chất vốn sạch sẽ trong suốt, song bầu khí ô nhiễm phảng phất trong đó cũng có thực. Điều tôi muốn nói là ta không nên tin những ý nghĩ của mình tuyệt đối đúng. Sự ô nhiễm không khí có thể có, song nó không phải thực hữu biệt lập. Tương tự, những ý nghĩ của ta có thể đúng phần nào, nhưng nếu ta tin chúng tuyệt đối đúng, thì sai.

Vậy ta nên tập duy trì ý thức sáng suốt đồng thời cắt đứt thói quen chấp nhận hoặc bác bỏ. Thông thường, ta ưa có phản ứng nhị nguyên. Chẳng hạn khi thấy ai cho bạn ta một thỏi sô cô la, ta tự hỏi: "Tại sao cô ấy không cho tôi? Bạn tôi thực may mắn, tôi không may." Tâm ta không ngừng nghiền ngẫm đủ thứ tư tưởng nhị nguyên bá láp như thế, và cuộc đời ta cũng phản ảnh sự rắc rối này. Một hậu quả là những tương giao của ta với mọi người và vật đều mong manh bất ổn. Mới đầu hôm ta khoái người bạn mới, mà ngay hôm sau ta đã cho bạn ra rìa. Hôm nay ta thích một món đồ, hôm sau ta đã chán không muốn nhìn đến nó. Sự thay đổi không ngừng những ưa và chán ấy nơi ta cũng là một dấu hiệu chứng tỏ thông thường cái gì ta nghĩ là tuyệt đối hay, đúng, thực ra đều lầm, chỉ là những phóng chiếu từ một tâm thức mê tín rối ren.

Thế nhưng, cũng có lúc tính rắc rối nhị nguyên này lắng xuống, khi ấy ta cảm được tính trong sáng tĩnh lặng của tâm. Sự an bình nội tâm mà ta cảm được vào những lúc ấy thực khôn tả, vượt xa những loại lạc phù du mà giác quan ta theo đuổi. Nhưng có được hỉ lạc nội tâm này một hai lần chưa đủ, nó không đưa đến thực chứng bền bỉ nào. Trái lại, ta phải luyện tập liên tục để có thể cắt đứt những khái niệm nhị nguyên mê muội và an trú không xao lãng trong nền tảng trong sáng của tâm. Nếu ta theo một phương pháp đã được thực nghiệm như phương pháp mật tông, thì tính giác về bản tâm trong sáng của ta sẽ trở nên bất khả hoại, và ta sẽ không còn bị những mê tín nhị nguyên khống chế.

TÍNH TRONG SÁNG,TÌNH YÊU VÀ AN LẠC

Tính trong sáng an bình sâu xa của bản tâm ta vốn có bản chất yêu thương; trong bầu không khí an tịnh ấy, thù ghét và tức giận không còn chỗ đứng. Khi an trú trong trạng thái tỉnh giác sâu xa này, thì ác ý không có cơ hội giao động tâm ta. Bấy giờ ta không cần lập nguyện sống trong sạch hay thề không giận dữ, vì từ thẳm sâu bản thể, tình yêu và thiện tính khởi lên một cách tự nhiên không cần nỗ lực.

Khi cảm thức khoáng đạt này tăng dần, khi ta đã thấy đúng tính phi thực, vô tự tính của vạn pháp, thì cảm giác "ta và vạn vật nhất thể" sẽ khởi lên trong tâm. Thay vì cảm thấy ngột ngạt, bị áp bức bởi hoàn cảnh xung quanh, do thấy cái ta đối lập với chúng nó, ta cảm thấy dường như có đủ chỗ cho mọi sự trên đời. Có khoảng trống dành cho tất cả. Trong không gian trong suốt của bất nhị, mọi sự tuôn chảy thoải mái trong một tiến trình đến và đi, tăng trưởng và chết, sinh và diệt. Trong cái không gian lớn rộng của thực tại vô tự tính, vạn pháp vận hành tự do thoải mái không chướng ngại gì nhau. Không có mâu thuẫn, không có rối ren, tách biệt. Thay vì cảm thấy xa lạ với hoàn cảnh xung quanh, với người khác, với cả chính mình, ta lại có kinh nghiệm đại đồng, hòa điệu.

Khi trực nhận bản tính con người chúng ta vốn trong sáng thuần tịnh, ta có thể cắt đứt mọi khái niệm cục bộ, hạn cuộc, tự giam hãm mình. Trong không gian trong sáng của tâm thức hoàn toàn buông thư, không có phân biệt giữa tự và tha. Cái này không tốt hơn cũng không xấu hơn cái khác. Cuối cùng, không có tốt và xấu, tịnh và bất tịnh. Toàn bộ mục đích tu thiền hay cầu nguyện hay bất cứ pháp môn nào, chính là để đi sâu vào bản chất con người, chạm đến cốt lõi là nguyên lý toàn diện, bất nhị. Đạt đến kinh nghiệm ấy thì không có chỗ cho khái niệm, cảm xúc, tình cảm nặng nề. Chỉ là như vậy, sự an bình lớn lao, thỏa mãn lớn lao.



SỰ TRONG SÁNG, MÀU SẮC VÀ HỈ LẠC

Mật tông đưa ra nhiều phương pháp để đánh động cái tầng tâm thức rất vi tế ấy, và để hướng tâm thức đầy phúc lạc này đến tri kiến sâu xa khoáng đạt về bất nhị. Nhưng dù chưa phải hành giả thượng thừa, ta cũng có thể tiếp xúc với trạng thái tâm trong sáng và nếm được vị giải thoát của kinh nghiệm bất nhị. Một kỷ thuật dễ xài trong những lúc rối ren là nhìn trời xanh. Đừng tập trung vào một vật gì, chỉ nhìn vào khoảng không trung với sự tỉnh giác cao độ, buông xả mọi ý nghĩ về bản thân. Bạn đang ở đấy, khoảng không bao la đang ở đấy, không có gì khác xuất hiện. Khi tâm ta tràn ngập tính trong sáng của không gian, tự nhiên ta sẽ khởi sự ngắm nhìn sự trong sáng của tâm ta.

Khi quán tưởng ánh sáng xanh bao la ấy, tư tưởng khái niệm khởi sự tan rã. Đấy là lý do trong nghệ thuật mật tông, màu xanh tiêu biểu tính bất nhị, trạng thái không còn những khái niệm đối đãi phàm tình, hoặc ta không còn bám víu chúng xem như thực hữu. Nhiều người giải thoát được tư tưởng phân biệt mỗi khi nhìn khoảng không bao la của trời xanh hay biển cả. Xin bạn đừng cho là tôi đang nói về một khái niệm triết học phức tạp nào, hay về một cái gì bạn phải chấp nhận bằng đức tin. Tôi chỉ nói đến một kinh nghiệm thực mà nhiều người đã có, và bạn cũng có thể gặp.

Trên phương diện mật tông, mỗi khi tâm ta và các giác quan ta mở ra trước ngoại giới, thì nhận thức của ta luôn luôn liên hệ đến một màu sắc đặc biệt, và mỗi màu sắc ta thấy được, - chẳng hạn xanh, đỏ, hay lục - có liên quan trực tiếp đến những gì xảy ra trong thế giới nội tâm ta. Đấy là lý do trong mật tông, với các phép quán chư thần, màu sắc và ánh sáng chiếm vai trò quan trọng.

Để bạn có một ý niệm về điều tôi muốn nói, ta hãy xét màu xanh. Như tôi đã nói, tính đặc biệt nội tại của ánh sáng xanh là thoát khỏi những phóng chiếu tưởng tượng. Nếu những phóng chiếu ấy rất mãnh liệt- chẳng hạn khi ngã chấp quá nặng đến nỗi suy sụp tinh thần- thì ngay cả lúc đẹp trời ta cũng không thấy được màu xanh của bầu trời. Ta chỉ có thấy thuần một màu xám. Điều này dĩ nhiên có xảy ra, cũng như cái kinh nghiệm thấy màu đỏ lúc tức giận và màu lục lúc ghen tuông, chứng tỏ mối quan hệ mật thiết giữa màu sắc và trạng thái nội tâm.

Trở lại vấn đề, ta có thể tạm giải thoát khỏi tư duy phân biệt khi nhìn tia nắng sớm hay nhìn mặt hồ lặng. Ta chỉ việc ngắm nhìn đừng phân biệt gì cả thì vào một lúc, tâm ta chỉ còn một kinh nghiệm duy nhất là tính trong sáng của chính nó. Nếu ta lợi dụng những dịp thực nghiệm tính trong sáng bên ngoài rồi hòa nhập nó vào tâm thức, thì đấy là một cách trực tiếp và hữu hiệu để cắt đứt tâm trạng rối ren và có được niềm an tĩnh.

Khi ngắm sự trong sáng của tâm thức, ngoài cảm giác bình an, ta còn thấy hỉ lạc. Thông thường, tâm nhị nguyên của ta với những lải nhải rối ren không ngừng phê phán của nó làm cho ta chán mệt. Bởi vậy ta thực nhẹ nhõm khi những tư tưởng cảm xúc chống nhau khởi sự dịu bớt và cuối cùng biến mất. Ta cảm được sự trong sáng an bình hỉ lạc và vô cùng sảng khoái. Nhưng khác với những khoái lạc giác quan thông thường, hỉ lạc này đem lại thỏa mãn thực thụ. Trong khi khoái lạc giác quan làm ta động tâm, niềm hỉ lạc này lại làm định lực ta thêm mãnh liệt.

LẠC TRÚ TRONG CHÂN CẢNH

Ai đã nỗ lực thiền định đều biết một trong những chướng ngại lớn nhất cho sự tập trung là tư tưởng tán loạn, chuyển hướng sự chú ý của ta. Ta cố tập trung vào đối tượng quán, nhưng chẳng bao lâu đã thấy tâm phiêu lưu một chỗ nào khác. Mức tập trung của tâm ta như đứa trẻ khó mà đi sâu vào vấn đề gì. Kết quả ta thấy mình không thể nào đạt ngộ. Do đâu có sự lang thang này của tâm thức? Đó là vì tâm ta luôn ngập tràn một cảm giác chưa thỏa lòng. Chúng ta mãi tìm kiếm một cái gì để thỏa mãn nỗi niềm khát khao không tên tuổi, nhưng sự tìm kiếm ấy không bao giờ thành công. Ngay cả khi ta tìm được một điều gì khả lạc, thì niềm thỏa mãn nó đem lại cũng rất chóng tàn, chẳng mấy chốc ta đã mong ngóng một cái gì khác. Tính lăng xăng không ngừng ấy là một đặc điểm của cái tâm nhị nguyên, nó càng rõ rệt khi ta cố ngồi xuống để tập trung thiền định.

Niềm hỉ lạc khởi lên khi ta ngắm nhìn sự trong sáng của tâm thức là một liều thuốc công hiệu để chữa trị nỗi bất an giao động ấy. Nó có khả năng đem lại một niềm thỏa mãn sâu xa tĩnh lặng mà những lạc thú phàm tình không sánh nổi. Khi cảm nghiệm hỉ lạc này, bạn cảm thấy thỏa mãn đến độ tâm không còn muốn lang thang chỗ nào khác nữa, và năng lực tập trung tăng trưởng không cần nỗ lực.

Ai trong chúng ta cũng đều có kinh nghiệm về trạng thái tâm quá đăm chiêu vào một điều gì đến độ quên bẵng những việc mà thường ngày có thể quấy rầy ta, làm ta giao động. Tương tự, nếu ngắm nhìn liên tục sự trong sáng vô hình dạng của tâm, ta sẽ không thấy nữa những đối tượng sắc, thanh, ... đi vào qua cửa ngõ giác quan. Khi những kinh nghiệm giác quan và ý tưởng phân biệt thô thiển trong ta đã lắng xuống, thì cửa ngõ dẫn đến mê tín phải đóng lại. Ta bỗng thấy từ bên trong bừng dậy một nguồn năng lượng đầy hạnh phúc xuất thần. Nguồn phúc lạc ấy xảy đến một cách tự nhiên, ta không phải chế biến nó bằng bất cứ cách nào cả. Càng kinh nghiệm trạng thái hỉ lạc nội tâm ấy chừng nào, ta càng chìm sâu vào trong đó chừng ấy. Điều này mở lối cho ta cảm nghiệm những tâm trạng tự do khoáng đạt bao trùm tất cả, mà hiện tại ta không biết đến.

LÀM CHÍN MÙI KHẢ NĂNG GIÁC NGỘ

Cái tâm trạng trong sáng thuần tịnh mà chúng ta đã mô tả, vốn có mặt trong tất cả chúng ta ngay bây giờ. Tuy nhiên sự kiện ấy không có nghĩa rằng chúng ta đã giác ngộ. Khi chưa từ bỏ tham lam giận dữ ganh tị và những triệu chứng khác của ngã chấp sai lầm che phủ tâm ta, thì dĩ nhiên chúng ta vẫn chưa giác ngộ. Không có chuyện một vị phật còn mê. Nhưng bên dưới những tầng lớp thô phù ở đấy những mê vọng đang vận hành, vẫn còn có một bản chất căn để vi tế hơn. Và chính khía cạnh cốt tủy này của tâm thức con người mới có tiềm năng trở thành tỉnh thức trọn vẹn và phúc lạc vĩnh cửu.

Như thế, vấn đề là: Làm sao ta có thể liên lạc với tiềm năng giác ngộ sẵn có trong bản chất mình, để thực hiện viên mãn tiềm năng ấy? Những lối hành trì của mật tông đặc biệt cốt để tựu thành sự chuyển hóa kỳ diệu này càng nhanh càng tốt. Nhưng, như đã nói, chúng ta không thể nhảy bổ vào những pháp tu tập này mà không chuẩn bị. Nói cách khác, ta cần làm cho mình thuần thục nhờ những phương pháp chuẩn bị. Ba khía cạnh chính của đạo lộ mà chúng ta đã bàn- từ bỏ, bồ đề tâm và chính kiến về Tính không- là những chuẩn bị thông thường cho mật tông. Ngoài ra, cần phải tu những pháp môn chuẩn bị như thọ pháp nhập môn thích hợp, giữ những lời nguyện trong pháp ấy, tịnh hóa các chướng ngại, tích lũy công đức và thọ pháp đạo sư du già để có được nguồn cảm hứng vi diệu, như sẽ đề cập trong chương kế tiếp.
http://www.lotuspro.net/book/duavao/chuong-8.htm