Friday, August 23, 2013

SANH VỀ THIỆN ĐẠO NHÂN ĐẠO

SANH VỀ THIỆN ĐẠO


NHÂN ĐẠO


a. Định nghĩa.

Nhân đạo là nẻo người. Nhân có nghĩa là nhẫn, chỉ cho loài người khi gặp cảnh thuận nghịch đều có năng lực nhẫn nại an chịu với duyên phận. Luận Lập Thế nói: “Loài người do tu trung phẩm thập thiện mà được sanh. Trong ngũ thú chỉ có nhân thú là nhiều kiêu mạn, nhưng về phần trấn định tâm ý lại hơn các nẻo kia”. Chúng sanh cảnh này có hình tướng nam nữ, ở rãi rác khắp bốn đại bộ châu.

Chúng sanh ở trong bốn đại bộ châu phần nhiều theo đường dục nhiễm, song cũng có người trọn đời giữ nếp sống tu hành thanh tịnh. Luận về phước báo, người ở ba châu: Tây ngưu hóa châu, Đông thắng thần châu và Bắc câu lô châu thì thù thắng hơn, nhưng về nhân duyên giải thoát thì họ kém thua người Nam thiệm bộ châu.

b. Thân tướng và thọ lượng.

Thân tướng chúng sanh ở nhân thú Nam thiệm bộ châu tùy theo kiếp tăng giảm, lớn nhỏ không nhất định. Người Nam thiệm bộ châu cao ba chẩu rưỡi hoặc bốn chẩu. Người Đông thắng thần châu cao tám chẩu. Người Tây ngưu hóa châu cao mười sáu chẩu. Người Bắc câu lô châu cao ba mươi hai chẩu.

Người Bắc châu mắt có thể thấy suốt tường vách núi non, tai có thể nghe rõ ràng những tiếng hoặc lớn hoặc nhỏ ở xa hay gần. Người Đông châu mắt có thể thấy rõ ràng màu sắc hình dáng trong chỗ tối, tai có thể nghe tiếng cách xa một làn tên. Người ở Tây châu mắt có thể nghe được tiếng và thấy suốt tường vách núi non, tai nghe được những âm thanh ở các nơi xa xôi cách ngại. Nhân loại ở Nam châu có đủ các sắc da, ở hai châu Đông Tây cũng có các sắc da nhưng không có giống người da đen. Nhân dân ở Bắc châu chỉ toàn là người da trắng.

Chúng sanh ở nhân loại, thọ lượng tùy nơi có hơn kém. Người ở châu Nam thiện bộ thọ lượng nhất định, như ở vào lúc kiếp cực tăng thì sống đến 84.000 tuổi, ở vào lúc kiếp cực giảm thì sống chỉ 10 tuổi. Người ở châu Đông thắng thần thọ 250 tuổi. Người ở châu Tây ngưu hóa thọ 500 tuổi. Người ở châu Bắc câu lô thọ 1.000 tuổi. Nhân loại ở Bắc câu lô thọ lượng nhất định, không có chết yểu, còn ba châu kia thì có khi chết yểu giữa chừng.

c. Cảnh giới thọ dụng.

Về khổ lạc thọ dụng, chúng sanh trong cảnh giới nhân đạo thọ sự khổ vui xen tạp, hoặc ít hoặc nhiều tùy theo nghiệp nhân mỗi người đã tạo ra. Nói chung, bên cạnh sự hạnh phúc đôi chút con người phải bị chi phối tám nỗi khổ lớn. Đó là: sanh là khổ, bịnh là khổ, già là khổ, tử là khổ, cầu bất đắc là khổ, ái biệt ly là khổ, oán tắng hội là khổ và ngũ ấm xí thạnh là khổ.

Về ẩm thực thọ dụng, chúng sanh trong cảnh giới nhân đạo về ẩm thực thọ dụng có tế đoạn thực và thô đoạn thực. Tế đoạn thực là khi ở trong thai thọ dụng huyết phần của mẹ. Thô đoạn thực là ăn những thức ăn như: cơm, rau, cá, thịt… Nói rộng ra, các sự thọ dụng khác như: phòng nhà, chiếu, gối, tắm… cũng gọi là tế đoạn thực.

Về dục nhiễm thọ dụng, chúng sanh ở cảnh giới nhân đạo vì có sự khổ vui xen lộn nên có hành dâm. Sự hành dâm tương đồng như loài bàng sanh, quỷ, thần… khi hai thân khác giống giao hợp, trong tâm khởi niệm khoái lạc tột cùng, liền có chất bất tịnh chảy ra.

d. Nghiệp nhân tái sanh và biểu hiện lâm chung.

d.1. Nghiệp nhân tái sanh.

Cũng theo kinh Biện Ý Trưởng Giả Tử, người nào hiện đời thực hành năm việc, khi chết được sanh lên cõi người.

- Bố thí thi ân trạch đối với kẻ bần cùng.
- Giữ giới, không phạm mười điều ác.
- Nhẫn nhục không làm não hại người.
- Tinh tấn khuyến hóa kẻ giải đãi.
- Nhất tâm, trọn hiếu, tận trung.

Thực hành năm điều này, không chỉ được sanh làm người mà còn là người giàu sang, sống lâu, khỏe đẹp, có oai đức, hoặc làm vua chúa được mọi người kính mến thừa sự.

d.2. Biểu hiện lâm chung.

Nếu ai lâm chung được tái sanh vào cảnh giới nhân đạo sẽ có những biểu hiện sau.

- Thân không bịnh nặng.
- Khởi niệm lành sanh lòng hòa dịu, lòng vui vẻ ưa làm việc phước đức.
- Ít sự nói phô, nhớ nghĩ đến cha mẹ vợ con.
- Đối với việc lành hay dữ tâm không lầm loạn.
- Sanh lòng chánh tín thỉnh Tam bảo đến đối diện quy y.
- Con trai và con gái đều đem lòng thương mến gần gũi, coi như việc thường.
- Tai muốn nghe tên họ của anh em, chị em, bè bạn.
- Tâm tánh chánh trực không dua nịnh.
- Rõ biết bạn bè giúp đỡ cho mình, thấy bà con trông nom sanh lòng vui mừng.
- Dặn dò giao phó các công việc lại cho thân quyến rồi từ biệt ra đi.

e. Tiến trình thác sanh.

Loài người mạng chung sắp sanh trở lại châu Nam thiệm bộ, trước tiên thấy có tòa núi to như muốn rớt trên mình, tự tay đưa ra đỡ. Liền khi ấy lại thấy tòa núi đó đổi hình lại như giải nệm trắng, chính mình ngồi nơi nệm ấy mà bay đi. Trong khi bay lại thấy nệm hóa ra màu đỏ. Kế đó lại thấy ánh sáng, trong ánh sáng có nam nữ hội hiệp. Nếu sẽ sanh làm thân nam, thì tự thấy mình cùng mẹ giao hiệp, đối với cha cho là chướng ngại có lòng ghét, nếu sanh làm thân nữ thì trái lại. Bấy giờ hốt nhiên tướng trung ấm diệt, liền vào thai.

Chúng hữu tình ở châu Nam thiệm bộ sắp sanh về châu Đông thắng thần, khi lâm chung thấy tất cả đều màu xanh, có một giải nệm xanh rũ xuống, lúc đó do sợ giải nệm xanh rớt, tự đưa hai tay lên đỡ lấy, vẻ mặt dường như có sắc kinh hãi. Kế đó lại thấy có một cái hồ, bầy ngựa chạy giỡn trên bãi cỏ, cha là ngựa đực, mẹ là ngựa cái. Nếu trung ấm sẽ sanh làm người nam, thì tự thấy mình là ngựa đực, đối với cha sanh lòng ghét đối với mẹ sanh lòng thương yêu. Như trung ấm sẽ sanh làm người nữ, thì tự thấy mình là ngựa cái, đối với cha yêu mến, với mẹ lại ganh ghét. Lúc ấy liền được thọ sanh.

Chúng hữu tình ở châu Nam thiệm bộ khi lâm chung sắp sanh về châu Bắc câu lô, trước tiên thấy một giải nệm đỏ mịn màng, trong lòng ưa thích đưa tay khuấy động như muốn tiếp lấy. Kế lại trông thấy một hồ sen xanh, các loại bạch nga, hồng nhạn, uyên ương lội đùa trên mặt nước, mình cũng vào đó chơi giỡn. Khi ở dưới hồ bước lên, vừa lúc cha mẹ dục nhiễm bất tịnh, do nghiệp điên đảo thấy mình là chim ngỗng, cha là ngỗng trống, mẹ là ngỗng mái. Bấy giờ tùy nghiệp duyên sẽ sanh làm trai hay gái, đối cha mẹ sanh lòng yêu ghét. Trong khi đó liền được thọ sanh.

No comments:

Post a Comment