KHUYÊN BẢO 1
Thuở xưa, Hòa thượng Chơn Hiết nói rằng:
Phật Phật trao tay,
Tổ Tổ truyền nhau,
Chỉ một việc nầy,
Không còn việc khác.
Đức Phật Thích-ca ở đời bảy mươi chín năm, thuyết pháp hơn ba trăm hội,
riêng đối với giáo lý Tịnh độ ân cần khen ngợi không ngừng. Đâu không
phải cho đây là con đường thẳng tắt, siêu phàm nhập Thánh sao?
Song, pháp môn này thật dễ mà cũng thật khó. Phàm chấp trì danh hiệu, tu
mọi phước lành, chí tâm hồi hướng, liền được vãng sinh. Nếu được vãng
sinh thì dứt ngang sáu nẻo[1], mau chóng ra khỏi ba cõi[2], tiến thẳng
đến địa vị không thối chuyển, chẳng trải qua nhiều kiếp, há chẳng phải
là giản dị hay sao?
Nếu như sự nghiệp ở cõi Ta-bà nơi nơi ràng
buộc trong lòng; còn đối với việc niệm Phật, tâm không chuyên nhất một
nóng mười lạnh. Khi gặp ngũ dục thì dính chặt như keo sơn, lúc gặp
nghịch cảnh thì kết oán ôm hận. Như thế mà muốn lâm chung được Phật
Di-đà tiếp dẫn, đương nhiên là không thể được. Vì thế, nên nói rằng khó.
Do đây mà xét:
Pháp môn Tịnh độ là thuốc.
Lòng tham ái nơi Ta-bà là điều cấm kỵ.
Chúng sinh mắc bệnh nghiệp, dạy bảo nên tin theo bậc Y Vương. Nhưng vừa
mới uống thuốc lại dùng những thứ cấm kỵ, như thế làm sao được hiệu
nghiệm? Đến khi sắp mạng chung, nghiệp nào nặng thì theo đó đọa lạc.
Tịnh nhân yếu kém, khó thoát nỗi khổ luân hồi. Trở lại bảo rằng bậc Y
Vương lừa dối người, Phật pháp không hiệu nghiệm. Thật đáng buồn thay!
Những người như thế rất là sai lầm điên đảo!
Sao chẳng nhớ mười
tám bậc Cao hiền ở Liên Xã Lô Sơn, cho đến một trăm hai mươi ba người
đều lưu lại điềm lành vãng sinh còn được ghi lại đầy đủ trong sử sách?
Nhật nguyệt xưa nay vẫn thế, non sông xưa nay vẫn thế. Kia đã là bậc
trượng phu, ta lẽ nào chẳng phải! Nên biết, sở dĩ chúng ta không được
như người xưa, chỉ vì không buông bỏ nổi chỗ quý trọng mà thôi.
Phàm là người đồng hội với tôi, tăng tục, già trẻ đều nên xét nghĩ sâu
sắc về sự hiểm ác của Ta-bà mà sớm mong cầu ra khỏi. Quanh quẩn trong
sáu đường, tiêu dao nơi chín phẩm[3]; việc lợi và hại cách xa nhau như
trời với vực. Nên tỉnh giác mạnh mẽ!
Phải phát sinh lòng rất
chán nản Ta-bà, ưa thích miền Cực Lạc. Bỏ uế lấy tịnh. Tin sự lấy bỏ này
cùng không lấy bỏ vốn chẳng khác nhau.
Đừng đuổi tìm hư danh,
đừng chấp lấy cái thấy không, đừng ham cao siêu huyền diệu, mà bị chánh
định trên đầu môi của thiền giả làm mê lầm rối loạn!
Chớ mong
cầu hiệu nghiệm nhanh chóng trong một sớm một chiều, vọng tưởng trông
mong ngoài tâm có Phật đến đón rước, như vậy dễ dẫn đến các việc ma!
Không luận lúc ở nhà hay khi vào Liên Xã, luôn luôn lấy việc niệm Phật
làm chánh hạnh, dùng sự cố gắng tu các điều lành làm trợ hạnh. Lại đối
với tập khí tham dục, sân hận tận lực lau chùi mài dũa, khiến cho chỗ
nặng nề được trở nên nhẹ nhàng, chỗ chưa thuần thục dần dần thuần thục.
Tịnh niệm tiếp nối, nguyện hạnh trợ nhau, tự nhiên hoàn toàn ổn thỏa.
Trong các hạnh thì phóng sinh là điều lành cao nhất. Nên xét kỹ: chúng
vốn đồng tánh biết với ta, dù thuộc loài khác mà còn phải cứu tế, huống
là người đồng loại với ta! Họ vì chướng sâu nghiệp nặng, nên có người
không bao lâu thì bị rơi vào đường ác, có người hiện tại chịu khổ nơi
địa ngục. Nỗi khổ nơi địa ngục kia hơn cả sự đau đớn chém giết, đốt
thiêu nơi thế gian rất nhiều, gấp cả trăm ngàn lần. Sao lại có thể ở
đây, bỏ mặc ngoài tai không lo cứu vớt?
Song, phương pháp cứu
vớt cũng chỉ ở ngày nay, nhất tâm niệm Phật để mau chóng về An Dưỡng.
Sau đó nương bản nguyện, vận dụng đại thần lực, hưng khởi lòng từ bình
đẳng, mở rộng tâm bi đồng thể, phân thân chia hình ở các đường ác khắp
cõi nước mười phương. Tầm thinh cứu khổ như Bồ-tát Quán Thế Âm, thề
nguyện làm trống không địa ngục như Bồ-tát Địa Tạng Vương. Nhổ sạch nhân
khổ, quả khổ của tất cả chúng sinh. Cho tất cả họ niềm vui thế gian và
xuất thế, thâu nhận tất cả muôn loài đồng hầu cận từ phụ Di-Đà, đến nơi
hoàn toàn an ổn. Đầy đủ chí nguyện như thế mới là bậc trượng phu. Nếu
không đầy đủ chí nguyện như thế thì đến kỳ hội tụ ở đây dài đăng đẳng,
dù có niệm Phật phóng sinh cũng chỉ là việc tụ hội tầm thường, lẽ nào
lại nói không phước thì chẳng thu nhận.
Đó là điều mà tôi mong mỏi đối với chư Thượng thiện hữu. Mong các vị xét nét thật kỹ càng!
*
[1] Sáu nẻo: chỉ cho sáu đường thọ sinh tùy theo nghiệp lực của chúng
sinh: 1. Địa ngục; 2. Ngạ quỷ; 3. Súc sinh; 4. Tu-la; 5. Người; 6. Trời.
Trong đó, ba đường trước gọi là ba ác đạo, ba đường sau gọi là ba thiện
đạo.
[2] Ba cõi: chỉ ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.
[3] Xem phần “Trình bày sơ lược về chín phẩm” trang 65.
Tịnh Độ Cảnh Ngữ
Thích Minh Thành dịch
No comments:
Post a Comment