Saturday, August 24, 2013

KHUYÊN BẢO 2


KHUYÊN BẢO 2


Pháp môn Tịnh độ tuy chư Phật, chư Tổ cùng chung khen ngợi, nhưng bậc sĩ phu đương thời đối với giáo lý cả đời của đức Phật chưa từng để mắt.

Nếu chẳng phải trước kia đã có căn lành thì sao lại được nghe rồi tin tưởng sâu sắc! Nay nêu sơ lược một hai bộ kinh lớn và luận quan trọng, để khái quát những kinh luận khác, giúp cho mọi người biết được sự thù thắng của pháp môn này, dễ sinh lòng tin tưởng ưa thích.

Như một bộ kinh Hoa Nghiêm là giáo môn rộng lớn, vua trong các kinh. Ví tợ vầng nhật tỏa sáng giữa trời không, át cả ánh sáng của những vì tinh tú, như Tu-di[1] sừng sững giữa biển cả cao vượt mọi núi non. Kinh ấy nói về thế giới thì không bảo là nhiều như số cát sông Hằng, mà gọi là cõi Phật nhiều như số cát bụi không thể nói được. Bồ-tát Phổ Hiền dùng sức trí huệ thông suốt, chỉ một cái nhìn mà xem khắp vô biên biển Hương Thủy, vô biên cõi nước, như trái cây đặt trong lòng bàn tay. Từ gần đến xa, tùy theo phương diện nhất nhất chỉ bày danh hiệu tướng trạng.

Thế giới Cực Lạc ở trong cõi Tỳ-lô-giá-na. Cõi ấy có hai mươi tầng, trên rộng dưới hẹp, hình dáng như ngôi tháp ngược. Ta-bà và Cực Lạc đồng ở tầng thứ mười ba. Trong tầng nầy, có những thế giới nhiều như số cát bụi của mười ba cõi Phật chung quanh. Thế giới Cực Lạc là một trong số đó.

Những thế giới trong cõi Tỳ-lô-giá-na này nhiều cũng như tất cả số lúa thu hoạch trong một trăm năm ở Thiệm-bộ châu[2], sau đó gom lại thành một ngọn cao. Thế giới Cực Lạc ở trong ấy cũng giống một hạt lúa, huống gì lại còn có vô biên thế giới ở ngoài cõi ấy, không thể nào luận bàn tính toán được.

Kinh văn rộng lớn như thế, mà chỗ kết thúc sau cùng lại lấy mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc, chỉ khuyên sinh về thế giới An Dưỡng, chỉ nguyện gặp Phật A-di-đà. Những lời khẩn thiết khuyến khích phát tâm dặn bảo nhiều lần, đều đầy đủ ở trong phẩm Hạnh Nguyện. Nơi đây, không thuật lại dài dòng.

Hơn nữa, sau khi đức Phật diệt độ sáu trăm năm, có Đại sĩ Mã Minh - tổ thứ mười hai ở Ấn Độ, ứng theo lời huyền ký của đức Phật, trùng hưng chánh pháp. Ngài y theo nghĩa lý của một trăm mười vạn quyển kinh điển Đại thừa, tạo thành một bộ luận tên là Khởi Tín. Luận này có thể khiến cho chúng sinh thời mạt pháp phát khởi lòng tin chân chánh về Đại thừa, ví như trên gấm thêu hoa; lấy trăm hoa làm mật.

Luận ấy lập ngôn và phân tích nghĩa lý tận cùng vi diệu, đã trình bày đầy đủ tất cả các pháp môn, nhiều thứ Tam-muội[3], khiến mọi người tu tập đều được lòng tin chân chánh. Ngoài ra, Ngài còn chỉ bảo trong tất cả các pháp môn, mọi thứ Tam-muội đều khó tu dễ lui sụt. Sau cùng mới dạy phương tiện thù thắng của chư Phật, nói rằng:

Lại nữa, các vị Bồ-tát mới học ở thế giới Ta-bà này, hoặc gặp những nỗi khổ nóng lạnh, gió mưa trái thời, đói kém… Hoặc thấy chúng sinh bất thiện đáng sợ, bị ba độc ràng buộc, làm theo việc ác.

Bồ-tát ở trong ấy sinh tâm sợ sệt, e không thể thành tựu lòng tin thanh tịnh. Các vị này phát sinh nghi ngờ muốn thối lui, nên phát thệ nguyện nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Phật.

Bồ-tát do sinh tâm quyết định, nên ở đây vừa mạng chung liền được vãng sinh trong các cõi Phật, gặp Phật, Bồ-tát, lìa hẳn đường ác.

Như trong kinh nói:

Thiện nam tử, thiện nữ nhân, chuyên niệm Phật A-di-đà ở thế giới Cực Lạc phương Tây, đem các căn lành hồi hướng nguyện vãng sinh, thì quyết định được vãng sinh, thường thấy đức Phật ấy, lòng tin tăng trưởng, mãi không còn thối chuyển, được vào Chánh vị.

Thế nên biết, khi Phật còn tại thế thì có Văn-thù, Phổ Hiền. Sau khi Phật diệt độ thì có Mã Minh, Long Thọ. Chư Đại sĩ như thế, đều khuyên vãng sinh, lại tự mình nguyện vãng sinh, thân cận Phật A-di-đà. Những kinh khác như Bảo Tích, Đại Tập, trong các bộ kinh lớn đều tán dương khuyến khích, không dễ gì nêu ra hết.

Song, Tịnh độ của chư Phật trong mười phương vô lượng mà kinh luận thường chỉ về Cực Lạc, tóm lược có ba ý:

· * Một là vì đức Phật ấy có nhân duyên với người ở cõi này nên chẳng kể là sang hèn, ngu trí, già trẻ, đều biết danh hiệu Phật A-di-đà. Nếu có đau khổ, oan ức thì tự nhiên ai cũng liền niệm danh hiệu Ngài.

· * Hai là vì Tỷ-kheo Pháp Tạng[4] nguyện lực thù thắng, nên thu nhiếp sự trang nghiêm của hai mươi mốt ức cõi Phật thanh tịnh, tổng hợp thành một thế giới Cực Lạc trang nghiêm. Ngài phát bốn mươi tám thệ nguyện rộng lớn, tiếp dẫn khắp cả chúng sinh niệm Phật trong mười phương sinh về cõi nước của Ngài. Bởi lẽ, quả đức của chư Phật tuy thật bình đẳng, mà nguyện lực trong khi tu nhân tự nhiên thâu nhận chúng sinh, trong chỗ không sai biệt mà có sai biệt.

· * Ba là Phật A-di-đà tức là Pháp giới tàng thân, thế giới Cực Lạc tức là Liên Hoa Tạng Hải. Thấy một đức Phật tức là thấy muôn Phật; vãng sinh một cõi tức là vãng sinh vô lượng cõi; niệm một đức Phật tức là niệm tất cả Phật, thì được tất cả chư Phật hộ niệm. Do Pháp thân không có hai nên chúng sinh và Phật không hai; người hay niệm và Phật được niệm cũng không có hai.

Các kinh luận tuy khen ngợi rộng rãi, nhưng chúng sinh ở cõi này ban đầu không ai biết, chỉ có ngài Huệ Viễn đời Tấn phát khởi ở Lô Sơn, lập ra Liên Xã đầu tiên, nhất thời các bậc Hiền đức, Nho sĩ nổi tiếng không hẹn mà tự đến như Lưu Di Dân[5] và Tông Lôi… đều tín phục thỉnh giáo, đạo này bèn hưng thịnh.

Sau đó, từ đời Tống tới nay, Thiền học dần dần phát triển mạnh mẽ, các sĩ đại phu có trí thức phần nhiều rất ngưỡng mộ Tông môn, ưa chuộng cao siêu khác lạ.

Nhưng khoảng hơn ngàn năm trở lại đây, người thật có thể thấy tánh chẳng qua chỉ có Dương Ức Thị Lang[6], Lý Tuân Úc Phụ Mã[7] và Hứa Thức Lang Trung[8] vài người mà thôi. Ngoài ra, đều là những kẻ dạo chơi nơi cửa Thiền. Do đó, khiến cho pháp môn thù thắng không thể nghĩ bàn bị xem là việc làm của hàng ngu phu ngu phụ.

Khoảng giữa thời gian nầy có năm ba vị tôn túc lần lượt noi theo người trước tiến hành giải bày, nhưng chưa hẳn tiếp độ nhiều hàng cao lưu và giáo hóa rộng khắp mọi căn cơ. Mãi đến cuối đời Minh mới xuất hiện Đại sư Châu Hoằng ở Vân Thê. Đại sư nương bi nguyện đời trước, thấm nhuần Nho học, siêu xuất thế tục, chuyên hoằng truyền Tịnh nghiệp.

Các bậc danh hiền đương thời quy hướng tin tưởng rất nhiều, những người nghi ngờ chê bai, phản đối vấn nạn cũng không ít. Đại sư dùng tài hùng biện tuyệt diệu, bách chiến bất khuất nên nhờ đó trở thành niềm vui pháp hỷ. Do vậy, tăng tục vui vẻ tín phục dường như Tổ Huệ Viễn sống lại, Ngài Vĩnh Minh tái thế, pháp môn Tịnh độ lại được rất hưng thịnh. Như thế, dựng lại pháp môn đã suy yếu hơn ngàn năm, công đức của Ngài không phải vĩ đại lắm sao?

Than ôi! Nay đã qua rồi! Con đường thời mạt pháp tối tăm, sự cấu nhiễm của chúng sinh trầm trọng. Trong đường hiểm ác mà mất ông thầy dẫn đường sáng suốt. Thật đáng lo buồn thay!

Tôi sinh muộn, chẳng được kề cận bên Đại sư (Châu Hoằng). Vì vậy, tôi trân quý những lời dạy còn để lại của Ngài còn hơn châu ngọc, mỗi lần mở sách ra đọc, liền không thể cầm lòng, nước mắt đầm đìa, tâm ý phấn phát mạnh mẽ.

Từ khi ở chùa Phổ Nhân này đến nay, thường được các bậc Hiền đức, hội tụ sáu thời hành đạo, hợp với tâm nguyện của tôi.

Song, mỗi lần gặp một bạn cùng hội thì tôi không dám xem là người thế tục, trong lòng thầm nghĩ: “Trong cõi nước Hoa Sen lại có thêm một người bạn tốt. Xưa, đức Bổn sư Thích-ca huyền ký cõi nầy có sáu mươi bảy ức Bồ-tát vãng sinh nước kia. Người này ắt là một trong số đó”.

Tuy biết, đường dài đăng đẳng nên người thối lui rất nhiều. Nhưng đã phát tâm niệm Phật tức là đi vào biển nguyện của Phật Di-đà rồi, như người ăn chút kim cương thì rốt cuộc vẫn không thể tiêu hóa được. Dù siêng lười, mau chậm không đồng, cuối cùng ắt sinh về Cực Lạc. Đã sinh về Tịnh độ thì rốt cuộc được chứng quả, thị hiện tám tướng thành đạo[9], hóa độ khắp cả chúng sinh.

Thế nên, hiện nay những người vừa vào trong hội, tôi liền mong rằng quý vị đều là chư Phật tương lai. Đây là lời nói chân thành, nhưng không biết các bạn tự mong đợi thế nào? Nếu có thể mong đợi như thế, thì các bạn lành hiện giờ đều là nhụy sen liền cành với tôi.

Tôi xét thấy những người giàu có, thành đạt lợi lộc hiện nay:

* Hoặc tham thinh sắc thô, chẳng biết cội gốc đau khổ.

* Hoặc tham đắm công danh nhỏ nhặt, chẳng nhận rõ là hư huyễn.

* Hoặc lại ưa tăng thêm tài lợi, bàn tính
kinh doanh, hiện tại bận rộn cả đời, tương lai theo nghiệp trôi nổi.

Trong cõi Phật ấy, y báo chánh báo trang nghiêm, vô lượng việc vui thù thắng mà họ chẳng nghe chẳng biết. Từ khi sinh ra đến lúc chết, chưa từng phát một niệm tâm hướng về, lại không bằng kẻ khốn cùng ngu tối mà phần nhiều có thể niệm Phật được. Những người tuy ngu tối này là từ nơi ngu tối đi vào chỗ sáng, tất chuyển sinh nơi tốt đẹp.

Thế nên, nay kính khuyên các bạn đều đã nêu danh vào Liên Xã thì đã là hoa Ưu-đàm[10] trong nhà lửa. Các vị nên đủ nguyện chân thật, phát tâm chán nản và ưa thích:

* Xem ba cõi như ngục tù.
* Xem nhà cửa như xiềng xích.
* Xem thinh sắc như thuốc độc.
* Xem danh lợi như gông cùm.
* Xem sự cùng đường và thông thoát đã gặp trong mấy mươi năm in như giấc mộng hôm qua.
* Xem cuộc sống trong Ta-bà như ở nơi quán trọ, mà tin rằng qua đêm rồi sẽ bỏ đi.

Chỉ lấy việc về nhà làm cốt yếu, vừa lòng cũng được, không vừa lòng cũng được; rảnh được phút giây liền nhất tâm niệm Phật. Nếu được như thế mà không vãng sinh Tịnh độ thì chư Phật đều trở thành những người nói dối.

Mong rằng chúng ta cùng nhau cố gắng!


[1] Tu-di: vốn là ngọn núi trong thần thoại Ấn Độ, được Phật giáo sử dụng, cho rằng đây là ngọn núi cao đứng sừng sững ở chính giữa một Tiểu thế giới. Lấy núi này làm trung tâm, có tám lớp núi, tám lớp biển bao bọc chung quanh, hình thành một thế giới (Tu-di thế giới).

[2] Thiệm-bộ châu: xưa gọi là Nam Diêm-phù-đề. Người dân ở đây dũng mãnh, nhớ dai, tạo các hạnh nghiệp, tu phạm hạnh, có Phật xuất thế.

[3] Tam-muội: an trụ tâm vào một chỗ, một cảnh; tức chỉ cho trạng thái thiền định.

[4] Pháp danh của đức Phật A-di-đà lúc Ngài chưa thành Phật.

Theo kinh Vô Lượng Thọ, thượng, nhiều kiếp lâu xa về đời quá khứ, vào thời Thế Tự Tại Vương Như Lai, có một vị quốc vương nghe đức Phật thuyết pháp, liền phát tâm vô thượng, bỏ ngôi vua xuất gia, hiệu là Pháp Tạng. Ngài thấy được hai trăm mười ức cõi nước của chư Phật, nên phát 48 lời đại nguyện. Vì giáo pháp mà Ngài hộ trì không mất và tích tụ rất nhiều, cho nên kinh Vô Lượng Thọ dịch là Pháp Tạng (Dhar-makara); Hội Vô Lượng Thọ Như Lai trong kinh Đại Bảo Tích 17, đời Đường dịch là Pháp Xứ; kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm, đời Tống dịch là Tác Pháp; luận Đại Trí Độ thì dịch là Pháp Tích.

[5] Lưu Di Dân: người đời Tấn, tự là Trọng Ân, tên Trình Chi, cư ngụ tại Bành thành. Ban đầu, ông giữ chức Tham quân, lại được bổ làm Huyện lệnh Nghi Xương, Sài Tang. Sau đó, từ chức cùng với Châu Tục Chi, Đào Tiềm… ẩn cư, người đương thời gọi là “Tầm Dương tam ẩn”. Hiệu “Di Dân” tương truyền là do vua Võ đời Lưu Tống ban cho, bởi tính bất khuất của ông. Về sau, vào Lô Sơn, tôn ngài Huệ Viễn làm thầy, cất một am nhỏ trong núi chuyên tu pháp Thiền suốt mười lăm năm, thường cảm được ánh sáng của Phật. Ông cùng với ngài Huệ Viễn kết Bạch Liên Xã tại chùa Đông Lâm, thệ nguyện vãng sinh Tịnh độ. Ông viết văn phát nguyện, từ ý thanh nhã đến nay vẫn còn truyền tụng không dứt. Mùa đông, năm thứ sáu niên hiệu Nghĩa Hy, ông biết trước ngày giờ dâng hương lễ Phật, ngồi ngay ngắn hướng mặt về phương Tây qua đời, thọ được 59 tuổi. Tác phẩm ông còn để lại một quyển Huyền Phổ.

[6] Dương Ức: người ở Phố Thành (Phước Kiến - Kiến Âu) thời Bắc Tống, tự là Đại Niên. Thuở nhỏ, nổi tiếng về văn chương, vua Thái Tông từng triệu vào cung tận mặt thi vấn đáp. Vua khen ngợi ông là Thần đồng. Đến đời vua Chân Tông, ông đảm nhiệm những chức vụ như: Hàng Lâm Học Sĩ, Thị Lang… Ông giữ mình trong sạch ngay thẳng, không sợ quyền thế. Ban đầu, không biết Phật pháp, nhờ Học sĩ Lý Duy khuyến khích tìm hiểu pháp Thiền, bèn khởi niềm tin sâu sắc. Sau đó, tu học với Thiền sư Quảng Huệ ở Nhữ Châu và được pháp. Ông thường dốc sức trợ giúp pháp môn, nhất thời các sĩ phu học Phật suy cử ông làm người lãnh đạo. Lại thường phụng chiếu lệnh biên tập mục lục Đại tạng, hiệu đính Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, giữ chức nhuận văn trong viện dịch kinh. Năm thứ tư niên hiệu Thiên Hy, ông có chút bệnh, viết kệ để lại cho Lý Tuân Úc rồi qua đời, thọ được 47 tuổi. Có văn tập lưu hành ở đời.

[7] Lý Tuân Úc: hiệu là cư sĩ Hòa Văn, đắc pháp với Thiền sư Uẩn Thông. Ban đầu khi tham vấn, ngài Uẩn Thông lấy công án Thôi Triệu Công hỏi ngài Kính Sơn để đáp cho ông. Ngay lúc ấy ông tỉnh ngộ.

[8] Hứa Thức: giữ chức Thái Thú ở Hàng Châu, tham học với ngài Động Sơn được thấu suốt chỗ cốt lõi của chánh pháp.

[9] Tám tướng thành đạo: 1. Từ trời Đâu-suất mà xuống; 2. Vào thai; 3. Sinh ra; 4. Xuất gia; 5. Hàng phục ma quân; 6. Thành đạo; 7. Xoay chuyển bánh xe chánh pháp; 8. Vào Niết-bàn.

[10] Ưu-đàm: Thực vật ẩn hoa thuộc họ cây dâu, sống dưới chân núi Hymalaya, cao nguyên Deccan và Sri Lanca. Thân cây cao hơn 3 m, lá có hai loại. Loại thứ nhất trơn và phẳng, loại thứ hai thô nhám, đều dài từ 10 đến 18 cm, đầu nhọn hơi dài. Có hoa đực hoa cái khác nhau. Loại có đài hoa lớn thì như nắm tay, còn loại nhỏ bằng ngón tay cái, kết thành chùm hơn 10 hoa, mọc trên thân cây, tuy ăn được nhưng vị không ngon. Theo Huệ Lâm Âm Nghĩa 8, loại hoa này do điềm lành linh dị chiêu cảm, là loại thiên hoa, thế gian không có. Nếu Như Lai hạ sinh thì nhờ năng lực đại phước đức của Ngài mà chiêu cảm loại hoa này xuất hiện. Vì loại hoa này ít có, khó gặp, nên trong các kinh Phật giáo có rất nhiều chỗ dùng hoa này dụ cho việc khó gặp Phật ra đời.

Tịnh Độ Cảnh Ngữ
Thích Minh Thành dịch

No comments:

Post a Comment