Cương yếu để tu (HT.THÍCH THANH TỪ)
Hôm nay thể theo lời mời của Sư bà tại chùa Thiên Phước cũng như trong
Giáo Hội, chúng tôi về đây giảng một thời pháp cho Tăng Ni và toàn thể
Phật tử nghe. Trên đường tu, chúng ta muốn tu đúng với chánh pháp của
Phật để được an lạc giải thoát, thì điều kiện tiên quyết là phải hiểu,
phải nhập được chánh pháp.
Hồi
xưa có Thiền sư Đạo Lâm ở Trung Quốc, Ngài rất quyết tâm tu hành. Để đạt
được kết quả như sở nguyện, Ngài dùng cây cột thành chỗ ngồi như một ổ
quạ, trên cháng ba của một cổ đại thụ. Ngài ngồi trên đó tu. Đương thời
người ta không biết tên Ngài là gì nên họ gọi là Ô Sào Thiền sư. Ô là
quạ, sào là ổ, Thiền sư ngồi tu trên ổ quạ. Do quyết tâm tu nên chẳng
bao lâu Ngài ngộ đạo. Từ đó, tiếng đồn vang khắp.
Khi ấy Bạch Cư Dị là một thi sĩ nổi tiếng và rất mến mộ đạo Phật. Nghe
Ngài là người được đắc đạo nên ông tìm tới. Dưới gốc cây, ông nhìn lên
chắp tay thưa: “Bạch Hòa thượng, cúi xin Ngài vì con nói pháp cương yếu,
để con theo đó mà tu.” Ngài liền đọc bài kệ, nguyên văn chữ Hán là:
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.
Dịch:
Chớ làm các điều ác
Vâng làm các điều lành
Giữ tâm ý trong sạch
Đây lời chư Phật dạy.
Nghe bài kệ ấy xong ông cười, nói:
- Bạch Hòa thượng, bài kệ này con nít tám tuổi cũng thuộc, Ngài dạy cho con làm gì!
Thiền sư nói:
- Phải, bài kệ này con nít tám tuổi cũng thuộc, nhưng ông già tám mươi làm cũng chưa xong!
Bài kệ này thường được in trong lá phái qui y của quí Phật tử đó. Chư
Phật đã dạy như thế, chớ không phải chỉ một đức Phật thôi. Chúng ta nên
lưu tâm cho rõ. Tôi sẽ thứ tự giải thích bốn câu kệ này cho quí vị thấy
tầm vóc quan trọng của nó.
Chư ác mạc tác là không
làm các điều ác. Điều ác là những điều gì? Phật dạy tất cả người tu khi
bước chân vào đạo, đều phải giữ giới. Nếu cư sĩ thì giữ năm giới; người
xuất gia thọ Sa-di giữ mười giới, Tỳ-kheo giữ hai trăm năm mươi giới;
Tỳ-kheo ni ba trăm bốn mươi tám giới… Như vậy bước đầu vào đạo là phải
giữ giới. Giữ giới là để ngăn ngừa không làm những điều tội lỗi. Cho nên
trong giới luật thường có câu phòng phi chỉ ác, tức là ngừa đón, ngăn
dứt tội ác. Người bước vào đạo, Phật bắt phải giữ giới để ngừa đón, chặn
đứng không cho làm những điều tội ác. Giới không cho chúng ta rơi vào
hầm sâu, hố thẳm, nên giới là hàng rào để ngừa đón sự nguy hiểm cho
chúng ta. Người tu xuất gia hay tại gia, đều phải có hàng rào để ngừa
đón tội lỗi. Nếu không có hàng rào đó, chúng ta dễ rơi vào những chỗ
nguy hiểm, hậu quả không an vui mà còn dẫn đến nhiều khổ đau khác nữa.
Tôi nói gần nhất là giới của cư sĩ tại gia. Phật không cho sát sanh,
trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, xì ke, ma túy… Phật cấm không được
làm những điều này. Nếu Phật tử làm thì sẽ dẫn đến đau khổ, tội lỗi.
Bước đầu vì sợ tội, sợ phạm nên quí vị không làm những điều đó, tức là
không làm điều ác.
Các hành động như giết người,
trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu say… có ác không? Năm điều đó là
tội ác cho nên chúng ta ngừa đón, không làm, không làm tức là giữ giới.
Nhờ giữ giới nên tránh được tội ác. Tránh được tội ác rồi, kế đó chúng
ta mới làm các việc lành. Làm các việc lành như tu Thập thiện, tức là
mười điều lành của người tu Thiên thừa Phật giáo. Người tu Thập thiện
sau khi chết sẽ sanh về cõi trời. Trong mười điều lành đó thân có ba,
miệng có bốn, ý có ba điều.
Thân có ba là: “Không
sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm”. Miệng có bốn là: “Không nói
dối, không nói lời hung dữ, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời thêu
dệt”. Ý có ba là: “Bớt tham, bớt sân, bớt si”. Người tu không làm mười
điều ác đó sẽ được sanh về cõi lành. Như vậy bước đầu của người tu Phật
là phải ngăn chận dòng tội lỗi. Không gây tạo tội lỗi là bước thứ nhất
trên đường tu. Người theo đạo Phật mà không chịu giữ giới là người không
biết tu.
Trong mười điều đó: thân ba, miệng bốn, ý
ba. Chúng ta có thể giữ được thân, miệng nhưng ba điều của ý, quí Phật
tử có giữ được không? Thí dụ về tham, cái tham hết sức nhỏ như tham ăn.
Bình thường thấy gà vịt nuôi sẵn ở nhà cũng thương, nhưng khi đã thèm ăn
rồi thì cứ đè xuống cắt cổ. Nó giãy giụa mấy cũng mặc, đâu có xót xa
chút nào, miễn được ăn ngon thôi. Vì miếng ăn mà chúng ta tàn sát chúng
sanh không thương tiếc!
Nên tôi nói người tu ăn chay có lợi rất
lớn, dễ tăng trưởng lòng từ bi. Thí dụ chư Tăng Ni ăn chay trường, khi
ra đường có những hồ ao gần bên, cá dưới ao nhảy lên bờ giãy giụa, quí
vị thấy thế thì sao? Thấy thương, lượm bỏ xuống hồ. Còn người không ăn
chay trường, thấy thì sao? Thì mừng, lượm bỏ vô giỏ. Như vậy có một việc
thôi, mà người ăn chay trường thấy thương, còn người ăn mặn thì thấy là
món ăn ngon nên lượm bỏ vô giỏ.
Cái khổ sợ kinh hoàng của nó,
mình không một chút xót thương. Rõ ràng người tu ăn chay thì có lòng từ
đối với chúng sanh hơn. Người tu mà còn tham ăn ngon là còn sát phạt
sanh vật khác, không biết thương tiếc mạng sống của nó. Từ tham ăn rồi
tới tham tiền, tham của.
Tham tiền, tham của thì sao? Thì ra
đường thấy ai làm rơi bóp lượm lên. Lượm được mừng quá giấu luôn. Như
vậy do tham, dù không trực tiếp ăn cắp, nhưng đã gián tiếp làm việc đó
rồi. Người mất của họ buồn rầu, mình lượm được thì mừng vui. Tức là vui
trong sự đau khổ của người khác. Như vậy có tội không?
Chúng ta
thấy từ tham làm ra bao nhiêu tội ác. Sân cũng vậy. Khi nào nổi nóng ít
ai bình tĩnh, sáng suốt nói lời tốt lành. Người ta nói trái ý, mình nổi
giận liền kêu tên chửi mắng. Do giận dấy lên, chúng ta mất hết trí khôn
nên nói bậy, gây ra tội lỗi. Người tu phải bớt nóng giận. Chẳng riêng
gì giới Phật tử cư sĩ mà kể cả người xuất gia có hết được nóng giận
chưa? Bình thường quí vị sợ nhưng tới nổi cơn lên thì hết sợ! Để thấy
khi nổi giận lên thì trí tuệ sáng suốt bị khuất lấp đi, không còn nữa
nên nói bậy, làm bậy.
Trong gia đình Phật tử cư sĩ, vợ chồng có
tình ràng buộc từ buổi đầu cho tới ngày nhắm mắt. Nhưng khi nổi giận
thì bất kể, nói những lời hết tình hết nghĩa, làm cho tan nát cả gia
đình. Thế thì nóng giận có phải là tội ác không? Nếu chúng ta bớt nóng
giận thì bớt tội ác. Đó là một cái lẽ thật. Người tu phải làm sao tự
mình kềm chế. Ở đây tôi nói bớt thôi, chớ chưa dám nói hết. Thí dụ trước
kia quí vị nóng một trăm phần trăm, kể từ nay về sau, mỗi tháng bớt
xuống chừng mười phần trăm. Như vậy tới cuối năm sẽ hết hoàn toàn. Dứt
được sân thì mình bớt khổ và những người chung quanh cũng bớt khổ. Nóng
giận làm cho người ta mất hết lương tri, mất hết trí tuệ. Những việc
không nên làm mà cứ làm là điều hết sức nguy hiểm.
Thứ ba là si
mê. Sao gọi là si mê? Nhiều vị khi bị người ta nói “Chị khờ quá!” nổi
giận liền. Nói “khờ” còn nhẹ, nói “ngu quá!” thì sao? Nổi giận đùng đùng
lên. Bởi cho rằng người ta nói ngu là xúc phạm đến giá trị của mình,
làm cho mình mất hết uy tín, danh dự… Nếu nghe nói ngu mà cứ cười: “Họ
nói mình ngu mà mình không ngu thì thôi”, như vậy khỏe biết mấy. Phải
chi họ nói ngu mà mình ngu liền thì nổi giận là đúng. Người ta nói ngu
mà mình không ngu thì thôi, có hệ trọng gì. Vậy mà không bao giờ chịu.
Người xưa còn nói: “Càng học thấy càng dốt”, đây là câu nói của hàng
thánh nhân chớ không phải thường.
Học nhiều lẽ ra phải thông
minh, sao “càng học càng thấy dốt”? Bởi trên thế gian cả trăm cả triệu
ngành nghề khác nhau. Thí dụ như chúng ta học nghề bác sĩ y khoa, giỏi
về bệnh trạng, biết thuốc trị cho bệnh nhân hết bệnh, đó là bác sĩ hay.
Nhưng nếu đưa ông bác sĩ qua ngành điện hoặc ngành hóa chất hay các
ngành tầm thường hơn như thợ hồ, thợ mộc thì ông có biết gì không? Như
vậy trăm ngàn nghề, mình biết có một nghề, còn bao nhiêu nghề không
biết, thì đâu gọi là khôn hoàn toàn. Mình biết có một phần trong muôn
phần thì vẫn còn ngu, chưa thể gọi là thấu suốt được hết.
Ngu
mà biết ngu là chưa thật ngu. Ngu mà không biết ngu đó mới thật là ngu!
Khi nghe người ta nói mình ngu, mình cười thôi: “Trong trăm nghìn muôn
ức việc, tôi biết có một hai việc thôi bảo ngu là phải.” Nói như vậy có
thiệt thòi giá trị của mình không? Người bàng quan nghe thế, họ chê cười
hay là khen ngợi? Chúng ta có những thứ si mê hết sức là vô lý, không
đáng si mê mà cứ si mê. Từ si mê không chấp nhận mình ngu nên sanh ra
sân. Từ sân gây tai họa nguy hiểm thêm.
Trong kinh A-hàm, Phật có kể câu chuyện:
Có một thầy Tỳ-kheo tu hành rất chân chánh, ngài tránh xa quần chúng,
tu trong một khu rừng. Những tiều phu hái củi thấy thế, họ về nói lại
trong xóm nghe. Trong xóm, có một thiếu nữ rất tâm đạo, nghe vị Tỳ-kheo
tu chân chánh như thế, nên cô xin phép ba mẹ mỗi ngày bưng một bát cơm
vào rừng cúng dường cho thầy. Thấy thế, xóm làng nghi ngờ cô gái có tình
ý với thầy. Họ đồn bậy, cô buồn nên không dâng cơm nữa. Trước khi không
dâng cơm, cô thưa với thầy:
- Thưa Thầy, con đã phát tâm cúng
dường cho Thầy, nhưng bây giờ xóm làng đàm tiếu, nói con có ý riêng với
Thầy, nên con không dám dâng cơm cho Thầy nữa.
Nghe xong thầy
Tỳ-kheo ấy buồn, vì nghĩ mình tu chân chánh thế này, mà người ta đàm
tiếu những chuyện không hay, thôi thì chết đi cho rồi. Thầy mới làm một
dây thòng lọng treo trên cây cổ thụ. Lúc thầy vừa đưa cổ vào dây, có vị
thần hiện ra hỏi:
- Tại sao Thầy lại tự tử?
Thầy trả lời:
- Tôi tu hành chân chánh mà bị người ta đồn có tình ý với cô gái cúng
dường cơm cho tôi. Vì vậy tôi xấu hổ, muốn tự tử chết cho rồi.
Vị thần đó hỏi:
- Thưa Thầy, nếu người ta đồn Thầy chứng quả A-la-hán, lúc đó Thầy có thành A-la-hán không?
- Nếu tôi chưa chứng A-la-hán, mà bảo tôi chứng A-la-hán, tôi cũng đâu thành A-la-hán được.
Vị thần hỏi:
- Vậy nếu người ta nói Thầy có tình ý xấu mà Thầy không có, tại sao Thầy lại tự tử?
Nghe thế, thầy Tỳ-kheo mở thòng lọng xuống bỏ. Sau một thời gian tinh cần, thầy chứng quả A-la-hán.
Câu chuyện đó nói với chúng ta điều gì? Dư luận khen chê có thật hay
không? Thí dụ quí vị tu chưa tới đâu, mà nghe nói “Thầy đã chứng
A-la-hán, Thầy đã là Bồ-tát rồi,” quí vị có mừng không? Lời khen mà
không có lẽ thật thì cũng vô giá trị. Ngược lại, nếu người ta nguyền
rủa: “Thầy tu lôi thôi quá coi chừng đọa địa ngục”, quí vị nổi giận
không? Nếu mình tu thanh tịnh, người ta nói đọa địa ngục, mình có đọa
đâu mà sợ. Nên cứ cười thôi, đâu có gì phải nổi nóng.
Trên thế
gian người ta nói xấu, nói tốt đâu có giá trị thật. Vậy mà ai hơi xúc
phạm là mình nổi nóng lên, la hét om sòm. Đó là si mê rồi. Nếu chúng ta
không si mê thì cuộc sống có phải an lành không? Nên đạo Phật thường dạy
chúng ta phải tránh si mê. Bởi vì si mê là nhân đưa chúng ta đến đau
khổ. Nên bớt si mê là bớt khổ đau. Nếu còn si mê là còn đau khổ.
Muốn hết si mê chúng ta phải thường quán chiếu đúng với lẽ thật. Vì vậy
người tu Phật đi vào đạo bằng trí tuệ, chớ không phải bằng cầu xin.
Nhưng hiện nay chẳng những Phật tử, mà kể cả người tu cầu xin nhiều hơn
vận dụng trí tuệ.
Phật tử tới chùa dâng một dĩa quả rồi lạy,
thầy hay cô đánh chuông, bảo: “Phật tử nguyện gì thì cứ nguyện đi.” Thế
là một đàng nhận, một đàng xin, Phật tử cứ thế mà cầu: “Nguyện cho gia
đình con được bình an, cho con cái học giỏi, cho làm ăn phát tài…” Rõ
ràng cúng Phật ít mà xin thì quá nhiều. Như vậy có phải tham không? Phật
dạy bớt tham, bớt sân, bớt si mà chúng sanh tham như vậy, Phật biết làm
sao? Chỉ còn lắc đầu.
Chúng ta tu mà không hiểu được lời Phật
dạy, làm sao tu theo Phật được. Đến chùa, nếu có cầu nguyện, người Phật
tử hiểu đạo nên nguyện thế này: “Nguyện Tam Bảo chứng minh hộ độ cho tất
cả chúng sanh đều hết mê lầm, hết đau khổ.” Như vậy là quá đủ. Bởi vì
trong chúng sanh đã có mình rồi. Còn xin cho một mình mình thì tham lam,
ích kỷ quá, Phật đâu có vui. Nhiều khi tôi cũng hơi buồn khi thấy Phật
tử có ý trao đổi nhiều quá.
Thí dụ Phật tử cúng cho thầy hoặc
cô, mỗi tháng năm ba trăm gì đó. Một hôm có người nhà ấm đầu, bèn đến
nhờ thầy cầu an giùm. Thầy bận việc không đi tới nhà được thì buồn liền,
thầy không thương mình. Như vậy cúng để mong thầy bảo bọc cho gia đình.
Bệnh, chết hay trong gia đình có chuyện gì, nhất nhất thầy đều phải có
mặt để cầu cúng. Như vậy cúng chùa giống như đóng tiền bảo hiểm vậy. Cho
nên từ sự hiểu lầm của Phật tử mà Tăng Ni trở thành khó xử. Bởi khi
nhận của cúng dường tức là thiếu nợ Phật tử. Phật tử yêu cầu mà không
làm theo thì Phật tử buồn, không đi chùa nữa. Cho nên chiều Phật tử,
Tăng Ni đi cầu cúng hoài, thành ra đánh mất ý nghĩa và giá trị thực của
một tu sĩ.
Phật tử sáng suốt, hiểu và hành đúng đạo lý, thì
Tăng Ni dễ tu, dễ hóa duyên. Nói vậy không có nghĩa tôi qui lỗi về hết
cho quí Phật tử. Đôi lúc thầy cô cũng nhiệt tình quá, Phật tử chưa kịp
mời mà quí vị đã hưởng ứng trước rồi! “Nghe nói ông thân của cô bệnh
nhiều, thôi để chiều nay thầy tới cầu an cho.” Sốt sắng quá nên thành
thói quen. Bây giờ chúng ta phải sửa lại. Làm việc gì phải xét xem việc
đó có hợp với chánh pháp, với đạo lý không. Không nên làm những việc sai
lầm, trái với những lời Phật dạy.
Chúng ta tu theo Phật là mở
sáng trí tuệ. Trong kinh Phật thường dạy si mê là tăm tối, trí tuệ là
sáng suốt. Tuy si mê là nhân của tham sân, nó khó trị, nhưng nếu biết
trị thì dễ lắm. Như trong ngôi nhà tối lâu năm không có người ở, bây giờ
muốn cho hết tối, chỉ cần đốt lên một ngọn đèn, hay đem một cây đuốc
đến là ngôi nhà sáng liền.
Như vậy muốn hết tối, chỉ dùng ánh
sáng. Ánh sáng mới phá tan si mê, tăm tối. Trí tuệ cũng vậy, nó giúp
chúng ta diệt được vô minh. Như chúng ta hiểu sai lầm về việc cầu cúng,
khi được nghe quí thầy giảng giải liền nhận ra, sửa đổi ngay là chúng ta
đã sáng rồi. Đâu phải đợi mười năm, hai mươi năm mới sáng. Nghe, biết
trước kia mình mê lầm, bây giờ bỏ mê lầm, bỏ chấp trước là hết mê lầm.
Hết mê lầm là trí tuệ, rất nhanh.
Nên Phật dạy chúng ta tu phải
thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ. Có đuốc trí tuệ rồi, chúng ta mới giải hết
được những nỗi khổ đau. Bởi mê lầm cho nên chúng ta đau khổ, nếu hết mê
lầm thì hết đau khổ. Ví như người đi lạc trong rừng, không biết lối ra.
Lúc đó lao đao lận đận, tìm chỗ này chỗ kia nhọc nhằn khổ sở mà vẫn
không ra khỏi rừng. Đến khi gặp được người chỉ đường, nắm vững lối đi
rồi, cứ theo đó mà ra thì hết lạc lầm. Hết lạc lầm thì hết đau khổ. Nên
chỉ có trí tuệ, thấy rõ được lối đi mới hết đau khổ. Không có trí tuệ
thì chúng ta mãi khổ đau.
Tăng Ni cũng như Phật tử, không nên
nghĩ dùng thật nhiều công phu mới gọi là chuyên tu. Chúng ta mở sáng trí
tuệ mới đúng là chuyên tu. Phật dạy chúng ta bước từng bước, ngăn ngừa
không cho rơi vào tội lỗi, đó là giữ giới. Từ giữ giới, tiến lên loại
trừ tham, sân, si để tâm được trong sạch, đó là bắt đầu có trí tuệ. Như
thế dần dần đi tới chỗ bình an.
Đó là câu thứ nhất “Chớ làm các điều ác”.
Đến câu thứ hai “Chúng thiện phụng hành”, tức là vâng làm các điều
lành. Nhiều người nghĩ rằng làm lành, làm phước thì tốn của tốn công.
Như vậy là thiệt thòi cho mình. Hiểu thế là sai lầm. Tôi dẫn câu chuyện
của người xưa kể lại:
Có anh chàng nghèo nọ ở trong một xóm toàn là người khá giả. Khi ấy có người hỏi:
- Trong xóm toàn là người khá giả, một mình chú nghèo, chú có buồn không?
Anh trả lời:
- Tôi tuy nghèo nhưng được ở trong một xóm khá giả, chẳng những tôi không buồn mà còn vui nữa.
- Tại sao?
- Bởi vì tất cả mọi người đều khá, chỉ có mình tôi nghèo. Khi thiếu
thốn, tôi qua nhà này nhà kia mượn tiền, ai cũng giúp đỡ được cả. Như
vậy tuy nghèo mà không đến nỗi khổ, vì có người giúp tôi.
Như
vậy người nghèo thấy người giàu khá trong lòng mừng vui, không đố kỵ thì
mọi người đều thương mến, nên họ sẵn sàng giúp đỡ những lúc khó khăn.
Còn nếu nghèo mà sanh tâm đố kỵ nói xiên nói xéo người ta, thì dĩ nhiên
họ oán ghét mình. Đã thế thì đâu ai thương và giúp đỡ nữa. Vậy mang tâm
đố kỵ là khôn hay dại? Nhưng con người mang cái bản ngã trầm trọng, thấy
thua người ta là đố kỵ, ganh ghét liền.
Chúng ta cứ nghĩ tài
sản trong tay mới thật là của mình, còn của người khác thì không dính
dáng gì tới mình. Nhưng không phải như vậy. Anh chàng nghèo mà cả làng
đều thương, ai cũng sẵn sàng giúp đỡ thì anh cũng cảm thấy hạnh phúc an
vui. Còn người giàu mà tâm keo sẻn, ích kỷ, bo bo canh giữ sự sản của
mình, không ai thương hết thì khi gặp khổ vẫn cứ khổ như thường.
Ta cứ mong cho mọi người được sung sướng, còn phần mình không quan
trọng. Lo cho mọi người, mới nhìn thấy như thiệt thòi nhưng sự thật lo
cho người tức là lo cho mình. Tại sao? Bởi vì trong xã hội, cuộc sống
luôn liên đới nhau giữa mình và mọi người, không thể tách rời được. Nếu
mọi người được vui, được no ấm thì mình mới yên vui. Còn mọi người khổ,
chỉ một mình mình sung sướng thì sao? Họ đâu có để yên cho mình, hết
rình ngõ trước lại dòm ngõ sau. Chừng đó mình vui hay lo sợ? Cho nên chỉ
khi nào tất cả mọi người đều được ấm no hạnh phúc thì mình mới an vui.
Trong kinh nói Bồ-tát thấy chúng sanh khổ như mình khổ, thấy chúng sanh
vui như mình vui. Cái vui khổ của mọi người là cái vui khổ của chính
mình, không tách rời nhau. Vì sao? Vì sự liên đới giữa mình với mọi
người là mối tương duyên tương sanh không thể tách rời được. Thế nhưng ở
thế gian nhiều người ích kỷ, muốn tách riêng một mình, không dính dáng
với ai. Đó là quan niệm rất sai lầm, không hiểu biết gì về lý duyên sanh
cả.
Phật dạy chúng ta làm cho tất cả người đều được an vui,
tức là làm lành. Người đói cho họ cơm; người rách cho họ áo; người bệnh
tật cho họ thuốc men v.v… Khi giúp đỡ người chính là lo cho mình. Bởi vì
lo cho mình là mình gieo nhân tốt với mọi người nên mọi người quí mến.
Gieo nhân tốt thì mai kia mất thân này mình được hưởng quả tốt. Như vậy
có thiệt thòi gì đâu. Còn nếu ích kỷ, chỉ lo cho mình, không biết tới
người, đó mới là thiệt thòi. Vì người ta không thương thì mình gặp khó
khăn người ta không giúp đỡ. Chừng đó mình sẽ khổ. Mình có của, mọi
người cùng có của; mình khỏe vui, mọi người cùng khỏe vui. Đó là chúng
ta biết làm lành. Biết làm lành tức là biết thương người. Thương người
tức là thương mình. Cho nên chúng ta phải cố gắng làm tất cả điều thiện.
Nhiều vị hay than thở: “Người có tiền của thì kêu gọi lòng từ thiện
được, còn tôi nghèo cháy da làm sao làm từ thiện?” Đó là vì họ không
hiểu. Trong nhà Phật dạy bố thí có ba: tài thí, pháp thí và vô úy thí.
Tài thí cũng chia làm hai: nội tài và ngoại tài.
Nếu mình có
tiền của, ai đói thiếu mình giúp, đó là bố thí ngoại tài. Nếu mình không
có tiền của, thấy người hàng xóm bệnh, đi đứng không vững, mình đến đỡ
đần, dẫn họ đi, đó là bố thí nội tài. Có tình thương, có lòng tốt thì
trong trường hợp nào, hoàn cảnh nào, chúng ta cũng làm việc thiện được.
Thiếu tình thương thì không làm việc lành, việc tốt được. Câu này Phật
dạy chúng ta phải tận dụng khả năng của mình làm tất cả những điều lành.
Nói cụ thể hơn, làm các điều lành là chẳng những không sát sanh, không
trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu; mà còn cứu
người cứu vật, bố thí giúp đỡ người nghèo thiếu, dạy người biết sống
trinh bạch, nói lời chân thật, hòa nhã khuyên răn nhắc nhở mọi người,
khuyên con cháu xóm làng tránh uống ruợu, hút xì ke ma túy… Đó là làm
lành.
Trên đường tu mỗi ngày chúng ta mỗi bòn mót công đức. Bòn
mót công đức là sao? Không phải tới chùa cúng dường mới có công đức.
Giúp một người hàng xóm qua cơn hoạn nạn, là đã có công đức. Giúp một
con vật bị hành hạ khổ sở, là đã có công đức. Công đức ở tất cả chỗ, tất
cả mọi người. Hiểu như vậy chúng ta mới phát tâm làm lành một cách dễ
dàng được.
Kế đến là bố thí pháp. Sao là bố thí pháp? Thí dụ
như có người cờ bạc rượu chè làm cho gia đình nghèo túng, trước tiên
chúng ta giúp tài vật cho họ qua cơn nghèo túng. Sau đó giải thích cho
họ biết những tai hại của uống rượu và cờ bạc. Dạy thật rành rõ cho họ
hiểu và bỏ, như vậy gọi là pháp thí.
Trong lúc đói khát người
ta không thể nghe đạo lý được. Muốn họ nghe thì phải làm cho họ đỡ đói.
Cho nên tài thí đi đầu rồi tới pháp thí theo sau. Có như vậy việc lành
của chúng ta mới trọn. Nếu mỗi người trong xóm, thấy ai gặp khó khăn,
khổ não sẵn sàng giúp đỡ, thì xóm làng đó tốt không? Nơi đó sẽ trở thành
một nơi an vui, tự tại. Tất cả đều sống trong tình thương bảo bọc cho
nhau thì tốt đẹp biết bao nhiêu. Vì vậy Phật dạy chúng ta phải cố gắng
làm tất cả điều thiện.
Câu thứ ba “tự tịnh kỳ ý” nghĩa là giữ
gìn tâm ý cho thanh tịnh. Câu này là câu then chốt. Quí vị mỗi người tự
nhìn lại xem tâm ý mình có thanh tịnh chưa? Hay là như những con trốt
bay quanh đám rơm, cuốn bụi tứ tung. Tâm chúng ta xáo động lăng xăng,
không yên ổn nên gọi là ngầu đục. Vì tâm ngầu đục nên chúng ta không
sáng suốt. Không sáng suốt thì làm sao tạo được điều tốt, điều lành. Vì
vậy tất cả điều tốt lành đều do ý trong sạch phát ra. Ý nghĩ tốt, miệng
nói tốt, thân làm tốt. Như vậy ý là gốc, là nền tảng của sự tu. Cho nên
Phật nhắm thẳng vào gốc đó là phải gìn giữ tâm ý cho thanh tịnh.
Muốn tâm ý thanh tịnh phải làm sao? Như người tu Tịnh độ, muốn cho tâm ý
thanh tịnh phải dùng câu niệm Phật. Đi, đứng, nằm, ngồi luôn luôn niệm
Phật. Niệm Phật không quên, để ý không chạy nhảy lung tung. Niệm Phật
lâu ngày đã thuần thục rồi thì tâm không còn lăng xăng nữa. Tâm không
còn lăng xăng nữa là ý được thanh tịnh. Cho nên muốn tâm ý thanh tịnh
thì phải chuyên cần dùng một phương tiện nào đó để trừ dẹp những lăng
xăng, lộn xộn trong tâm. Phương tiện đó gọi là pháp tu, hoặc pháp tu
Tịnh độ, hoặc pháp tu Thiền.
Người tu Thiền làm sao để tâm ý
thanh tịnh? Có nhiều cách, tùy theo trình độ sai biệt. Nếu tu thiền
Nguyên thủy thì dùng pháp quán Tứ niệm xứ. Nếu tu thiền Đại thừa thì
quán Giả, quán Không, quán Trung đạo v.v… Nhưng có một pháp tu tôi cho
rằng đó là phương thuốc trị bá bệnh. Khi dấy niệm, chúng ta biết niệm đó
là vọng tưởng hư dối, liền bỏ. Niệm khác dấy lên biết là hư dối vọng
tưởng, bỏ. Phương pháp này như chuyện chăn trâu vậy. Con trâu vừa nghẻo
đầu qua bên tây, mục đồng sợ ăn lúa mạ của người liền giựt lại. Nó nghẻo
qua bên đông cũng giựt lại. Giữ cho con trâu đừng có ngả qua, ngả lại
làm hư lúa của người. Cũng vậy, tâm vừa dấy niệm chạy theo cái này, chạy
theo cái nọ, mình đều bỏ. Đó là vọng tưởng, không theo! Bỏ mãi cho đến
khi nào vọng tưởng yên lặng, gọi là thanh tịnh. Đó là tu Thiền.
Tất cả mầm gốc của bất tịnh đều do tâm chạy theo cảnh, duyên dính với
cảnh. Chúng ta buông, không chạy theo cảnh nữa thì tâm lặng. Tâm lặng
tức là thanh tịnh. Phật dạy tu đến chỗ cuối cùng là phải trở về với tâm
thanh tịnh ban đầu, không còn những ý niệm lăng xăng nữa. Bởi ý niệm
lăng xăng đó không phải là tâm thật của mình, nó chỉ là bóng dáng của
sáu trần mà thôi.
Tôi ví dụ như mặt biển thênh thang, khi nổi
sóng thì mỗi lượn sóng khác nhau. Có lượn cao, có lượn thấp nhưng mặt
biển vẫn không hai. Tâm chúng ta cũng vậy, những thứ lăng xăng đó chỉ là
những lượn sóng, do tâm duyên theo bóng dáng sáu trần. Còn tâm thể chân
thật lúc nào cũng tròn đầy, thanh tịnh. Cho nên tu, dừng được tâm lăng
xăng đó thì thể thanh tịnh hiện tiền. Cũng như sóng nổi ầm ầm nhưng khi
lặng rồi thì mặt biển thênh thang bằng phẳng.
Chúng ta nói
những lượn sóng là mặt biển được không? Không, vì nó có giới hạn. Mặt
biển thì phải thênh thang, nên sóng không là mặt biển. Tuy nhiên sóng
không rời mặt biển mà có được. Nên biết sóng không phải là mặt biển,
nhưng cũng không rời mặt biển. Tâm chúng ta cũng vậy, những nghĩ suy
lăng xăng không rời tâm chân thật, nhưng tâm chân thật thì lặng yên,
không giới hạn, còn suy nghĩ thì có chừng mực, có giới hạn. Cái suy nghĩ
không phải là tâm thật thênh thang, nhưng cũng không rời tâm thênh
thang đó. Hiểu như vậy mới thấy được cội nguồn của tâm thể chân thật.
Phật dạy tu là cứu kính thoát ly sanh tử. Còn suy nghĩ thì còn rơi theo
hai đường: hoặc thiện hoặc ác tức là nghiệp lành, nghiệp dữ. Nghiệp
lành, nghiệp dữ sẽ dẫn chúng ta sanh cõi lành, cõi dữ. Đó là đi trong
sanh tử. Nếu cả hai lành dữ, thiện ác đều lặng hết, chỉ còn một tâm
thanh tịnh thì chúng ta đi theo nghiệp nào? Đó là giải thoát sanh tử.
Như vậy thì muốn giải thoát sanh tử, chúng ta phải lặng hết tất cả tâm
lành dữ. Tâm lành dữ là tâm tương đối, sanh diệt, không thật. Nó lặng
xuống rồi thì tâm chân thật mới hiện bày. Tâm chân thật là tâm không
sanh diệt. Sống được với tâm này mới gọi là giải thoát sanh tử. Cho nên
Phật dạy phải lặng tâm ý cho trong sạch là vì thế. Cho nên tu theo Tịnh
độ thì phải nhất tâm niệm Phật. Nhất tâm thì không còn hai, không còn
phải quấy. Như vậy là tâm lặng. Còn nhà Thiền dạy dứt hết niệm tưởng
lăng xăng, thì chân tâm hiển lộ. Chân tâm hiển lộ đó là nhân giải thoát
sanh tử.
Câu cuối “Thị chư Phật giáo”, đây là lời dạy của tất
cả chư Phật chớ không riêng gì đức Phật Thích-ca thôi. Chỉ một bài kệ
này chúng ta khéo ứng dụng, tu đúng như vậy thì sẽ được giải thoát sanh
tử. Nếu chưa giải thoát sanh tử, thì ít ra cũng tránh được các đường dữ,
sanh trong các cõi lành. Cho nên bài kệ này thường được in trong lá
phái qui y của Phật tử. Bài kệ nhắc cho quí Phật tử thấy đó là chân lý,
là lẽ thật mà mười phương chư Phật đều đồng thừa nhận như vậy, chớ không
riêng gì đức Phật Thích-ca.
Người tu Phật hiểu rõ và ứng dụng
tu theo bài kệ đó, thì từ một con người lỗi lầm sẽ trở thành con người
lương thiện. Rồi từ con người lương thiện tiến lên con người thanh tịnh,
giải thoát sanh tử. Như vậy trên đường tu, thăng tiến dần từ thấp tới
cao, cho đến giải thoát hẳn mọi khổ đau.
Tóm lại,
chúng ta tu giai đoạn đầu là bỏ ác, làm thiện. Cuối cùng thiện ác đều
dẹp luôn, chỉ còn một tâm thanh tịnh. Đó là chỗ cứu kính. Nếu quí vị
nghe nhớ ứng dụng tu thì sẽ thấy giá trị của việc tu hành ngày càng thâm
sâu, ngày càng an lạc. Mong rằng tất cả hãy nỗ lực tinh tấn tu hành,
đến khi nào đạt được kết quả viên mãn mới thôi.
Cương yếu để tu (HT.THÍCH THANH TỪ)
Hôm nay thể theo lời mời của Sư bà tại chùa Thiên Phước cũng như trong
Giáo Hội, chúng tôi về đây giảng một thời pháp cho Tăng Ni và toàn thể
Phật tử nghe. Trên đường tu, chúng ta muốn tu đúng với chánh pháp của
Phật để được an lạc giải thoát, thì điều kiện tiên quyết là phải hiểu,
phải nhập được chánh pháp.
Hồi
xưa có Thiền sư Đạo Lâm ở Trung Quốc, Ngài rất quyết tâm tu hành. Để đạt
được kết quả như sở nguyện, Ngài dùng cây cột thành chỗ ngồi như một ổ
quạ, trên cháng ba của một cổ đại thụ. Ngài ngồi trên đó tu. Đương thời
người ta không biết tên Ngài là gì nên họ gọi là Ô Sào Thiền sư. Ô là
quạ, sào là ổ, Thiền sư ngồi tu trên ổ quạ. Do quyết tâm tu nên chẳng
bao lâu Ngài ngộ đạo. Từ đó, tiếng đồn vang khắp.
Khi ấy Bạch Cư Dị là một thi sĩ nổi tiếng và rất mến mộ đạo Phật. Nghe
Ngài là người được đắc đạo nên ông tìm tới. Dưới gốc cây, ông nhìn lên
chắp tay thưa: “Bạch Hòa thượng, cúi xin Ngài vì con nói pháp cương yếu,
để con theo đó mà tu.” Ngài liền đọc bài kệ, nguyên văn chữ Hán là:
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.
Dịch:
Chớ làm các điều ác
Vâng làm các điều lành
Giữ tâm ý trong sạch
Đây lời chư Phật dạy.
Nghe bài kệ ấy xong ông cười, nói:
- Bạch Hòa thượng, bài kệ này con nít tám tuổi cũng thuộc, Ngài dạy cho con làm gì!
Thiền sư nói:
- Phải, bài kệ này con nít tám tuổi cũng thuộc, nhưng ông già tám mươi làm cũng chưa xong!
Bài kệ này thường được in trong lá phái qui y của quí Phật tử đó. Chư
Phật đã dạy như thế, chớ không phải chỉ một đức Phật thôi. Chúng ta nên
lưu tâm cho rõ. Tôi sẽ thứ tự giải thích bốn câu kệ này cho quí vị thấy
tầm vóc quan trọng của nó.
Chư ác mạc tác là không
làm các điều ác. Điều ác là những điều gì? Phật dạy tất cả người tu khi
bước chân vào đạo, đều phải giữ giới. Nếu cư sĩ thì giữ năm giới; người
xuất gia thọ Sa-di giữ mười giới, Tỳ-kheo giữ hai trăm năm mươi giới;
Tỳ-kheo ni ba trăm bốn mươi tám giới… Như vậy bước đầu vào đạo là phải
giữ giới. Giữ giới là để ngăn ngừa không làm những điều tội lỗi. Cho nên
trong giới luật thường có câu phòng phi chỉ ác, tức là ngừa đón, ngăn
dứt tội ác. Người bước vào đạo, Phật bắt phải giữ giới để ngừa đón, chặn
đứng không cho làm những điều tội ác. Giới không cho chúng ta rơi vào
hầm sâu, hố thẳm, nên giới là hàng rào để ngừa đón sự nguy hiểm cho
chúng ta. Người tu xuất gia hay tại gia, đều phải có hàng rào để ngừa
đón tội lỗi. Nếu không có hàng rào đó, chúng ta dễ rơi vào những chỗ
nguy hiểm, hậu quả không an vui mà còn dẫn đến nhiều khổ đau khác nữa.
Tôi nói gần nhất là giới của cư sĩ tại gia. Phật không cho sát sanh,
trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, xì ke, ma túy… Phật cấm không được
làm những điều này. Nếu Phật tử làm thì sẽ dẫn đến đau khổ, tội lỗi.
Bước đầu vì sợ tội, sợ phạm nên quí vị không làm những điều đó, tức là
không làm điều ác.
Các hành động như giết người,
trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu say… có ác không? Năm điều đó là
tội ác cho nên chúng ta ngừa đón, không làm, không làm tức là giữ giới.
Nhờ giữ giới nên tránh được tội ác. Tránh được tội ác rồi, kế đó chúng
ta mới làm các việc lành. Làm các việc lành như tu Thập thiện, tức là
mười điều lành của người tu Thiên thừa Phật giáo. Người tu Thập thiện
sau khi chết sẽ sanh về cõi trời. Trong mười điều lành đó thân có ba,
miệng có bốn, ý có ba điều.
Thân có ba là: “Không
sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm”. Miệng có bốn là: “Không nói
dối, không nói lời hung dữ, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời thêu
dệt”. Ý có ba là: “Bớt tham, bớt sân, bớt si”. Người tu không làm mười
điều ác đó sẽ được sanh về cõi lành. Như vậy bước đầu của người tu Phật
là phải ngăn chận dòng tội lỗi. Không gây tạo tội lỗi là bước thứ nhất
trên đường tu. Người theo đạo Phật mà không chịu giữ giới là người không
biết tu.
Trong mười điều đó: thân ba, miệng bốn, ý
ba. Chúng ta có thể giữ được thân, miệng nhưng ba điều của ý, quí Phật
tử có giữ được không? Thí dụ về tham, cái tham hết sức nhỏ như tham ăn.
Bình thường thấy gà vịt nuôi sẵn ở nhà cũng thương, nhưng khi đã thèm ăn
rồi thì cứ đè xuống cắt cổ. Nó giãy giụa mấy cũng mặc, đâu có xót xa
chút nào, miễn được ăn ngon thôi. Vì miếng ăn mà chúng ta tàn sát chúng
sanh không thương tiếc!
Nên tôi nói người tu ăn chay có lợi rất
lớn, dễ tăng trưởng lòng từ bi. Thí dụ chư Tăng Ni ăn chay trường, khi
ra đường có những hồ ao gần bên, cá dưới ao nhảy lên bờ giãy giụa, quí
vị thấy thế thì sao? Thấy thương, lượm bỏ xuống hồ. Còn người không ăn
chay trường, thấy thì sao? Thì mừng, lượm bỏ vô giỏ. Như vậy có một việc
thôi, mà người ăn chay trường thấy thương, còn người ăn mặn thì thấy là
món ăn ngon nên lượm bỏ vô giỏ.
Cái khổ sợ kinh hoàng của nó,
mình không một chút xót thương. Rõ ràng người tu ăn chay thì có lòng từ
đối với chúng sanh hơn. Người tu mà còn tham ăn ngon là còn sát phạt
sanh vật khác, không biết thương tiếc mạng sống của nó. Từ tham ăn rồi
tới tham tiền, tham của.
Tham tiền, tham của thì sao? Thì ra
đường thấy ai làm rơi bóp lượm lên. Lượm được mừng quá giấu luôn. Như
vậy do tham, dù không trực tiếp ăn cắp, nhưng đã gián tiếp làm việc đó
rồi. Người mất của họ buồn rầu, mình lượm được thì mừng vui. Tức là vui
trong sự đau khổ của người khác. Như vậy có tội không?
Chúng ta
thấy từ tham làm ra bao nhiêu tội ác. Sân cũng vậy. Khi nào nổi nóng ít
ai bình tĩnh, sáng suốt nói lời tốt lành. Người ta nói trái ý, mình nổi
giận liền kêu tên chửi mắng. Do giận dấy lên, chúng ta mất hết trí khôn
nên nói bậy, gây ra tội lỗi. Người tu phải bớt nóng giận. Chẳng riêng
gì giới Phật tử cư sĩ mà kể cả người xuất gia có hết được nóng giận
chưa? Bình thường quí vị sợ nhưng tới nổi cơn lên thì hết sợ! Để thấy
khi nổi giận lên thì trí tuệ sáng suốt bị khuất lấp đi, không còn nữa
nên nói bậy, làm bậy.
Trong gia đình Phật tử cư sĩ, vợ chồng có
tình ràng buộc từ buổi đầu cho tới ngày nhắm mắt. Nhưng khi nổi giận
thì bất kể, nói những lời hết tình hết nghĩa, làm cho tan nát cả gia
đình. Thế thì nóng giận có phải là tội ác không? Nếu chúng ta bớt nóng
giận thì bớt tội ác. Đó là một cái lẽ thật. Người tu phải làm sao tự
mình kềm chế. Ở đây tôi nói bớt thôi, chớ chưa dám nói hết. Thí dụ trước
kia quí vị nóng một trăm phần trăm, kể từ nay về sau, mỗi tháng bớt
xuống chừng mười phần trăm. Như vậy tới cuối năm sẽ hết hoàn toàn. Dứt
được sân thì mình bớt khổ và những người chung quanh cũng bớt khổ. Nóng
giận làm cho người ta mất hết lương tri, mất hết trí tuệ. Những việc
không nên làm mà cứ làm là điều hết sức nguy hiểm.
Thứ ba là si
mê. Sao gọi là si mê? Nhiều vị khi bị người ta nói “Chị khờ quá!” nổi
giận liền. Nói “khờ” còn nhẹ, nói “ngu quá!” thì sao? Nổi giận đùng đùng
lên. Bởi cho rằng người ta nói ngu là xúc phạm đến giá trị của mình,
làm cho mình mất hết uy tín, danh dự… Nếu nghe nói ngu mà cứ cười: “Họ
nói mình ngu mà mình không ngu thì thôi”, như vậy khỏe biết mấy. Phải
chi họ nói ngu mà mình ngu liền thì nổi giận là đúng. Người ta nói ngu
mà mình không ngu thì thôi, có hệ trọng gì. Vậy mà không bao giờ chịu.
Người xưa còn nói: “Càng học thấy càng dốt”, đây là câu nói của hàng
thánh nhân chớ không phải thường.
Học nhiều lẽ ra phải thông
minh, sao “càng học càng thấy dốt”? Bởi trên thế gian cả trăm cả triệu
ngành nghề khác nhau. Thí dụ như chúng ta học nghề bác sĩ y khoa, giỏi
về bệnh trạng, biết thuốc trị cho bệnh nhân hết bệnh, đó là bác sĩ hay.
Nhưng nếu đưa ông bác sĩ qua ngành điện hoặc ngành hóa chất hay các
ngành tầm thường hơn như thợ hồ, thợ mộc thì ông có biết gì không? Như
vậy trăm ngàn nghề, mình biết có một nghề, còn bao nhiêu nghề không
biết, thì đâu gọi là khôn hoàn toàn. Mình biết có một phần trong muôn
phần thì vẫn còn ngu, chưa thể gọi là thấu suốt được hết.
Ngu
mà biết ngu là chưa thật ngu. Ngu mà không biết ngu đó mới thật là ngu!
Khi nghe người ta nói mình ngu, mình cười thôi: “Trong trăm nghìn muôn
ức việc, tôi biết có một hai việc thôi bảo ngu là phải.” Nói như vậy có
thiệt thòi giá trị của mình không? Người bàng quan nghe thế, họ chê cười
hay là khen ngợi? Chúng ta có những thứ si mê hết sức là vô lý, không
đáng si mê mà cứ si mê. Từ si mê không chấp nhận mình ngu nên sanh ra
sân. Từ sân gây tai họa nguy hiểm thêm.
Trong kinh A-hàm, Phật có kể câu chuyện:
Có một thầy Tỳ-kheo tu hành rất chân chánh, ngài tránh xa quần chúng,
tu trong một khu rừng. Những tiều phu hái củi thấy thế, họ về nói lại
trong xóm nghe. Trong xóm, có một thiếu nữ rất tâm đạo, nghe vị Tỳ-kheo
tu chân chánh như thế, nên cô xin phép ba mẹ mỗi ngày bưng một bát cơm
vào rừng cúng dường cho thầy. Thấy thế, xóm làng nghi ngờ cô gái có tình
ý với thầy. Họ đồn bậy, cô buồn nên không dâng cơm nữa. Trước khi không
dâng cơm, cô thưa với thầy:
- Thưa Thầy, con đã phát tâm cúng
dường cho Thầy, nhưng bây giờ xóm làng đàm tiếu, nói con có ý riêng với
Thầy, nên con không dám dâng cơm cho Thầy nữa.
Nghe xong thầy
Tỳ-kheo ấy buồn, vì nghĩ mình tu chân chánh thế này, mà người ta đàm
tiếu những chuyện không hay, thôi thì chết đi cho rồi. Thầy mới làm một
dây thòng lọng treo trên cây cổ thụ. Lúc thầy vừa đưa cổ vào dây, có vị
thần hiện ra hỏi:
- Tại sao Thầy lại tự tử?
Thầy trả lời:
- Tôi tu hành chân chánh mà bị người ta đồn có tình ý với cô gái cúng
dường cơm cho tôi. Vì vậy tôi xấu hổ, muốn tự tử chết cho rồi.
Vị thần đó hỏi:
- Thưa Thầy, nếu người ta đồn Thầy chứng quả A-la-hán, lúc đó Thầy có thành A-la-hán không?
- Nếu tôi chưa chứng A-la-hán, mà bảo tôi chứng A-la-hán, tôi cũng đâu thành A-la-hán được.
Vị thần hỏi:
- Vậy nếu người ta nói Thầy có tình ý xấu mà Thầy không có, tại sao Thầy lại tự tử?
Nghe thế, thầy Tỳ-kheo mở thòng lọng xuống bỏ. Sau một thời gian tinh cần, thầy chứng quả A-la-hán.
Câu chuyện đó nói với chúng ta điều gì? Dư luận khen chê có thật hay
không? Thí dụ quí vị tu chưa tới đâu, mà nghe nói “Thầy đã chứng
A-la-hán, Thầy đã là Bồ-tát rồi,” quí vị có mừng không? Lời khen mà
không có lẽ thật thì cũng vô giá trị. Ngược lại, nếu người ta nguyền
rủa: “Thầy tu lôi thôi quá coi chừng đọa địa ngục”, quí vị nổi giận
không? Nếu mình tu thanh tịnh, người ta nói đọa địa ngục, mình có đọa
đâu mà sợ. Nên cứ cười thôi, đâu có gì phải nổi nóng.
Trên thế
gian người ta nói xấu, nói tốt đâu có giá trị thật. Vậy mà ai hơi xúc
phạm là mình nổi nóng lên, la hét om sòm. Đó là si mê rồi. Nếu chúng ta
không si mê thì cuộc sống có phải an lành không? Nên đạo Phật thường dạy
chúng ta phải tránh si mê. Bởi vì si mê là nhân đưa chúng ta đến đau
khổ. Nên bớt si mê là bớt khổ đau. Nếu còn si mê là còn đau khổ.
Muốn hết si mê chúng ta phải thường quán chiếu đúng với lẽ thật. Vì vậy
người tu Phật đi vào đạo bằng trí tuệ, chớ không phải bằng cầu xin.
Nhưng hiện nay chẳng những Phật tử, mà kể cả người tu cầu xin nhiều hơn
vận dụng trí tuệ.
Phật tử tới chùa dâng một dĩa quả rồi lạy,
thầy hay cô đánh chuông, bảo: “Phật tử nguyện gì thì cứ nguyện đi.” Thế
là một đàng nhận, một đàng xin, Phật tử cứ thế mà cầu: “Nguyện cho gia
đình con được bình an, cho con cái học giỏi, cho làm ăn phát tài…” Rõ
ràng cúng Phật ít mà xin thì quá nhiều. Như vậy có phải tham không? Phật
dạy bớt tham, bớt sân, bớt si mà chúng sanh tham như vậy, Phật biết làm
sao? Chỉ còn lắc đầu.
Chúng ta tu mà không hiểu được lời Phật
dạy, làm sao tu theo Phật được. Đến chùa, nếu có cầu nguyện, người Phật
tử hiểu đạo nên nguyện thế này: “Nguyện Tam Bảo chứng minh hộ độ cho tất
cả chúng sanh đều hết mê lầm, hết đau khổ.” Như vậy là quá đủ. Bởi vì
trong chúng sanh đã có mình rồi. Còn xin cho một mình mình thì tham lam,
ích kỷ quá, Phật đâu có vui. Nhiều khi tôi cũng hơi buồn khi thấy Phật
tử có ý trao đổi nhiều quá.
Thí dụ Phật tử cúng cho thầy hoặc
cô, mỗi tháng năm ba trăm gì đó. Một hôm có người nhà ấm đầu, bèn đến
nhờ thầy cầu an giùm. Thầy bận việc không đi tới nhà được thì buồn liền,
thầy không thương mình. Như vậy cúng để mong thầy bảo bọc cho gia đình.
Bệnh, chết hay trong gia đình có chuyện gì, nhất nhất thầy đều phải có
mặt để cầu cúng. Như vậy cúng chùa giống như đóng tiền bảo hiểm vậy. Cho
nên từ sự hiểu lầm của Phật tử mà Tăng Ni trở thành khó xử. Bởi khi
nhận của cúng dường tức là thiếu nợ Phật tử. Phật tử yêu cầu mà không
làm theo thì Phật tử buồn, không đi chùa nữa. Cho nên chiều Phật tử,
Tăng Ni đi cầu cúng hoài, thành ra đánh mất ý nghĩa và giá trị thực của
một tu sĩ.
Phật tử sáng suốt, hiểu và hành đúng đạo lý, thì
Tăng Ni dễ tu, dễ hóa duyên. Nói vậy không có nghĩa tôi qui lỗi về hết
cho quí Phật tử. Đôi lúc thầy cô cũng nhiệt tình quá, Phật tử chưa kịp
mời mà quí vị đã hưởng ứng trước rồi! “Nghe nói ông thân của cô bệnh
nhiều, thôi để chiều nay thầy tới cầu an cho.” Sốt sắng quá nên thành
thói quen. Bây giờ chúng ta phải sửa lại. Làm việc gì phải xét xem việc
đó có hợp với chánh pháp, với đạo lý không. Không nên làm những việc sai
lầm, trái với những lời Phật dạy.
Chúng ta tu theo Phật là mở
sáng trí tuệ. Trong kinh Phật thường dạy si mê là tăm tối, trí tuệ là
sáng suốt. Tuy si mê là nhân của tham sân, nó khó trị, nhưng nếu biết
trị thì dễ lắm. Như trong ngôi nhà tối lâu năm không có người ở, bây giờ
muốn cho hết tối, chỉ cần đốt lên một ngọn đèn, hay đem một cây đuốc
đến là ngôi nhà sáng liền.
Như vậy muốn hết tối, chỉ dùng ánh
sáng. Ánh sáng mới phá tan si mê, tăm tối. Trí tuệ cũng vậy, nó giúp
chúng ta diệt được vô minh. Như chúng ta hiểu sai lầm về việc cầu cúng,
khi được nghe quí thầy giảng giải liền nhận ra, sửa đổi ngay là chúng ta
đã sáng rồi. Đâu phải đợi mười năm, hai mươi năm mới sáng. Nghe, biết
trước kia mình mê lầm, bây giờ bỏ mê lầm, bỏ chấp trước là hết mê lầm.
Hết mê lầm là trí tuệ, rất nhanh.
Nên Phật dạy chúng ta tu phải
thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ. Có đuốc trí tuệ rồi, chúng ta mới giải hết
được những nỗi khổ đau. Bởi mê lầm cho nên chúng ta đau khổ, nếu hết mê
lầm thì hết đau khổ. Ví như người đi lạc trong rừng, không biết lối ra.
Lúc đó lao đao lận đận, tìm chỗ này chỗ kia nhọc nhằn khổ sở mà vẫn
không ra khỏi rừng. Đến khi gặp được người chỉ đường, nắm vững lối đi
rồi, cứ theo đó mà ra thì hết lạc lầm. Hết lạc lầm thì hết đau khổ. Nên
chỉ có trí tuệ, thấy rõ được lối đi mới hết đau khổ. Không có trí tuệ
thì chúng ta mãi khổ đau.
Tăng Ni cũng như Phật tử, không nên
nghĩ dùng thật nhiều công phu mới gọi là chuyên tu. Chúng ta mở sáng trí
tuệ mới đúng là chuyên tu. Phật dạy chúng ta bước từng bước, ngăn ngừa
không cho rơi vào tội lỗi, đó là giữ giới. Từ giữ giới, tiến lên loại
trừ tham, sân, si để tâm được trong sạch, đó là bắt đầu có trí tuệ. Như
thế dần dần đi tới chỗ bình an.
Đó là câu thứ nhất “Chớ làm các điều ác”.
Đến câu thứ hai “Chúng thiện phụng hành”, tức là vâng làm các điều
lành. Nhiều người nghĩ rằng làm lành, làm phước thì tốn của tốn công.
Như vậy là thiệt thòi cho mình. Hiểu thế là sai lầm. Tôi dẫn câu chuyện
của người xưa kể lại:
Có anh chàng nghèo nọ ở trong một xóm toàn là người khá giả. Khi ấy có người hỏi:
- Trong xóm toàn là người khá giả, một mình chú nghèo, chú có buồn không?
Anh trả lời:
- Tôi tuy nghèo nhưng được ở trong một xóm khá giả, chẳng những tôi không buồn mà còn vui nữa.
- Tại sao?
- Bởi vì tất cả mọi người đều khá, chỉ có mình tôi nghèo. Khi thiếu
thốn, tôi qua nhà này nhà kia mượn tiền, ai cũng giúp đỡ được cả. Như
vậy tuy nghèo mà không đến nỗi khổ, vì có người giúp tôi.
Như
vậy người nghèo thấy người giàu khá trong lòng mừng vui, không đố kỵ thì
mọi người đều thương mến, nên họ sẵn sàng giúp đỡ những lúc khó khăn.
Còn nếu nghèo mà sanh tâm đố kỵ nói xiên nói xéo người ta, thì dĩ nhiên
họ oán ghét mình. Đã thế thì đâu ai thương và giúp đỡ nữa. Vậy mang tâm
đố kỵ là khôn hay dại? Nhưng con người mang cái bản ngã trầm trọng, thấy
thua người ta là đố kỵ, ganh ghét liền.
Chúng ta cứ nghĩ tài
sản trong tay mới thật là của mình, còn của người khác thì không dính
dáng gì tới mình. Nhưng không phải như vậy. Anh chàng nghèo mà cả làng
đều thương, ai cũng sẵn sàng giúp đỡ thì anh cũng cảm thấy hạnh phúc an
vui. Còn người giàu mà tâm keo sẻn, ích kỷ, bo bo canh giữ sự sản của
mình, không ai thương hết thì khi gặp khổ vẫn cứ khổ như thường.
Ta cứ mong cho mọi người được sung sướng, còn phần mình không quan
trọng. Lo cho mọi người, mới nhìn thấy như thiệt thòi nhưng sự thật lo
cho người tức là lo cho mình. Tại sao? Bởi vì trong xã hội, cuộc sống
luôn liên đới nhau giữa mình và mọi người, không thể tách rời được. Nếu
mọi người được vui, được no ấm thì mình mới yên vui. Còn mọi người khổ,
chỉ một mình mình sung sướng thì sao? Họ đâu có để yên cho mình, hết
rình ngõ trước lại dòm ngõ sau. Chừng đó mình vui hay lo sợ? Cho nên chỉ
khi nào tất cả mọi người đều được ấm no hạnh phúc thì mình mới an vui.
Trong kinh nói Bồ-tát thấy chúng sanh khổ như mình khổ, thấy chúng sanh
vui như mình vui. Cái vui khổ của mọi người là cái vui khổ của chính
mình, không tách rời nhau. Vì sao? Vì sự liên đới giữa mình với mọi
người là mối tương duyên tương sanh không thể tách rời được. Thế nhưng ở
thế gian nhiều người ích kỷ, muốn tách riêng một mình, không dính dáng
với ai. Đó là quan niệm rất sai lầm, không hiểu biết gì về lý duyên sanh
cả.
Phật dạy chúng ta làm cho tất cả người đều được an vui,
tức là làm lành. Người đói cho họ cơm; người rách cho họ áo; người bệnh
tật cho họ thuốc men v.v… Khi giúp đỡ người chính là lo cho mình. Bởi vì
lo cho mình là mình gieo nhân tốt với mọi người nên mọi người quí mến.
Gieo nhân tốt thì mai kia mất thân này mình được hưởng quả tốt. Như vậy
có thiệt thòi gì đâu. Còn nếu ích kỷ, chỉ lo cho mình, không biết tới
người, đó mới là thiệt thòi. Vì người ta không thương thì mình gặp khó
khăn người ta không giúp đỡ. Chừng đó mình sẽ khổ. Mình có của, mọi
người cùng có của; mình khỏe vui, mọi người cùng khỏe vui. Đó là chúng
ta biết làm lành. Biết làm lành tức là biết thương người. Thương người
tức là thương mình. Cho nên chúng ta phải cố gắng làm tất cả điều thiện.
Nhiều vị hay than thở: “Người có tiền của thì kêu gọi lòng từ thiện
được, còn tôi nghèo cháy da làm sao làm từ thiện?” Đó là vì họ không
hiểu. Trong nhà Phật dạy bố thí có ba: tài thí, pháp thí và vô úy thí.
Tài thí cũng chia làm hai: nội tài và ngoại tài.
Nếu mình có
tiền của, ai đói thiếu mình giúp, đó là bố thí ngoại tài. Nếu mình không
có tiền của, thấy người hàng xóm bệnh, đi đứng không vững, mình đến đỡ
đần, dẫn họ đi, đó là bố thí nội tài. Có tình thương, có lòng tốt thì
trong trường hợp nào, hoàn cảnh nào, chúng ta cũng làm việc thiện được.
Thiếu tình thương thì không làm việc lành, việc tốt được. Câu này Phật
dạy chúng ta phải tận dụng khả năng của mình làm tất cả những điều lành.
Nói cụ thể hơn, làm các điều lành là chẳng những không sát sanh, không
trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu; mà còn cứu
người cứu vật, bố thí giúp đỡ người nghèo thiếu, dạy người biết sống
trinh bạch, nói lời chân thật, hòa nhã khuyên răn nhắc nhở mọi người,
khuyên con cháu xóm làng tránh uống ruợu, hút xì ke ma túy… Đó là làm
lành.
Trên đường tu mỗi ngày chúng ta mỗi bòn mót công đức. Bòn
mót công đức là sao? Không phải tới chùa cúng dường mới có công đức.
Giúp một người hàng xóm qua cơn hoạn nạn, là đã có công đức. Giúp một
con vật bị hành hạ khổ sở, là đã có công đức. Công đức ở tất cả chỗ, tất
cả mọi người. Hiểu như vậy chúng ta mới phát tâm làm lành một cách dễ
dàng được.
Kế đến là bố thí pháp. Sao là bố thí pháp? Thí dụ
như có người cờ bạc rượu chè làm cho gia đình nghèo túng, trước tiên
chúng ta giúp tài vật cho họ qua cơn nghèo túng. Sau đó giải thích cho
họ biết những tai hại của uống rượu và cờ bạc. Dạy thật rành rõ cho họ
hiểu và bỏ, như vậy gọi là pháp thí.
Trong lúc đói khát người
ta không thể nghe đạo lý được. Muốn họ nghe thì phải làm cho họ đỡ đói.
Cho nên tài thí đi đầu rồi tới pháp thí theo sau. Có như vậy việc lành
của chúng ta mới trọn. Nếu mỗi người trong xóm, thấy ai gặp khó khăn,
khổ não sẵn sàng giúp đỡ, thì xóm làng đó tốt không? Nơi đó sẽ trở thành
một nơi an vui, tự tại. Tất cả đều sống trong tình thương bảo bọc cho
nhau thì tốt đẹp biết bao nhiêu. Vì vậy Phật dạy chúng ta phải cố gắng
làm tất cả điều thiện.
Câu thứ ba “tự tịnh kỳ ý” nghĩa là giữ
gìn tâm ý cho thanh tịnh. Câu này là câu then chốt. Quí vị mỗi người tự
nhìn lại xem tâm ý mình có thanh tịnh chưa? Hay là như những con trốt
bay quanh đám rơm, cuốn bụi tứ tung. Tâm chúng ta xáo động lăng xăng,
không yên ổn nên gọi là ngầu đục. Vì tâm ngầu đục nên chúng ta không
sáng suốt. Không sáng suốt thì làm sao tạo được điều tốt, điều lành. Vì
vậy tất cả điều tốt lành đều do ý trong sạch phát ra. Ý nghĩ tốt, miệng
nói tốt, thân làm tốt. Như vậy ý là gốc, là nền tảng của sự tu. Cho nên
Phật nhắm thẳng vào gốc đó là phải gìn giữ tâm ý cho thanh tịnh.
Muốn tâm ý thanh tịnh phải làm sao? Như người tu Tịnh độ, muốn cho tâm ý
thanh tịnh phải dùng câu niệm Phật. Đi, đứng, nằm, ngồi luôn luôn niệm
Phật. Niệm Phật không quên, để ý không chạy nhảy lung tung. Niệm Phật
lâu ngày đã thuần thục rồi thì tâm không còn lăng xăng nữa. Tâm không
còn lăng xăng nữa là ý được thanh tịnh. Cho nên muốn tâm ý thanh tịnh
thì phải chuyên cần dùng một phương tiện nào đó để trừ dẹp những lăng
xăng, lộn xộn trong tâm. Phương tiện đó gọi là pháp tu, hoặc pháp tu
Tịnh độ, hoặc pháp tu Thiền.
Người tu Thiền làm sao để tâm ý
thanh tịnh? Có nhiều cách, tùy theo trình độ sai biệt. Nếu tu thiền
Nguyên thủy thì dùng pháp quán Tứ niệm xứ. Nếu tu thiền Đại thừa thì
quán Giả, quán Không, quán Trung đạo v.v… Nhưng có một pháp tu tôi cho
rằng đó là phương thuốc trị bá bệnh. Khi dấy niệm, chúng ta biết niệm đó
là vọng tưởng hư dối, liền bỏ. Niệm khác dấy lên biết là hư dối vọng
tưởng, bỏ. Phương pháp này như chuyện chăn trâu vậy. Con trâu vừa nghẻo
đầu qua bên tây, mục đồng sợ ăn lúa mạ của người liền giựt lại. Nó nghẻo
qua bên đông cũng giựt lại. Giữ cho con trâu đừng có ngả qua, ngả lại
làm hư lúa của người. Cũng vậy, tâm vừa dấy niệm chạy theo cái này, chạy
theo cái nọ, mình đều bỏ. Đó là vọng tưởng, không theo! Bỏ mãi cho đến
khi nào vọng tưởng yên lặng, gọi là thanh tịnh. Đó là tu Thiền.
Tất cả mầm gốc của bất tịnh đều do tâm chạy theo cảnh, duyên dính với
cảnh. Chúng ta buông, không chạy theo cảnh nữa thì tâm lặng. Tâm lặng
tức là thanh tịnh. Phật dạy tu đến chỗ cuối cùng là phải trở về với tâm
thanh tịnh ban đầu, không còn những ý niệm lăng xăng nữa. Bởi ý niệm
lăng xăng đó không phải là tâm thật của mình, nó chỉ là bóng dáng của
sáu trần mà thôi.
Tôi ví dụ như mặt biển thênh thang, khi nổi
sóng thì mỗi lượn sóng khác nhau. Có lượn cao, có lượn thấp nhưng mặt
biển vẫn không hai. Tâm chúng ta cũng vậy, những thứ lăng xăng đó chỉ là
những lượn sóng, do tâm duyên theo bóng dáng sáu trần. Còn tâm thể chân
thật lúc nào cũng tròn đầy, thanh tịnh. Cho nên tu, dừng được tâm lăng
xăng đó thì thể thanh tịnh hiện tiền. Cũng như sóng nổi ầm ầm nhưng khi
lặng rồi thì mặt biển thênh thang bằng phẳng.
Chúng ta nói
những lượn sóng là mặt biển được không? Không, vì nó có giới hạn. Mặt
biển thì phải thênh thang, nên sóng không là mặt biển. Tuy nhiên sóng
không rời mặt biển mà có được. Nên biết sóng không phải là mặt biển,
nhưng cũng không rời mặt biển. Tâm chúng ta cũng vậy, những nghĩ suy
lăng xăng không rời tâm chân thật, nhưng tâm chân thật thì lặng yên,
không giới hạn, còn suy nghĩ thì có chừng mực, có giới hạn. Cái suy nghĩ
không phải là tâm thật thênh thang, nhưng cũng không rời tâm thênh
thang đó. Hiểu như vậy mới thấy được cội nguồn của tâm thể chân thật.
Phật dạy tu là cứu kính thoát ly sanh tử. Còn suy nghĩ thì còn rơi theo
hai đường: hoặc thiện hoặc ác tức là nghiệp lành, nghiệp dữ. Nghiệp
lành, nghiệp dữ sẽ dẫn chúng ta sanh cõi lành, cõi dữ. Đó là đi trong
sanh tử. Nếu cả hai lành dữ, thiện ác đều lặng hết, chỉ còn một tâm
thanh tịnh thì chúng ta đi theo nghiệp nào? Đó là giải thoát sanh tử.
Như vậy thì muốn giải thoát sanh tử, chúng ta phải lặng hết tất cả tâm
lành dữ. Tâm lành dữ là tâm tương đối, sanh diệt, không thật. Nó lặng
xuống rồi thì tâm chân thật mới hiện bày. Tâm chân thật là tâm không
sanh diệt. Sống được với tâm này mới gọi là giải thoát sanh tử. Cho nên
Phật dạy phải lặng tâm ý cho trong sạch là vì thế. Cho nên tu theo Tịnh
độ thì phải nhất tâm niệm Phật. Nhất tâm thì không còn hai, không còn
phải quấy. Như vậy là tâm lặng. Còn nhà Thiền dạy dứt hết niệm tưởng
lăng xăng, thì chân tâm hiển lộ. Chân tâm hiển lộ đó là nhân giải thoát
sanh tử.
Câu cuối “Thị chư Phật giáo”, đây là lời dạy của tất
cả chư Phật chớ không riêng gì đức Phật Thích-ca thôi. Chỉ một bài kệ
này chúng ta khéo ứng dụng, tu đúng như vậy thì sẽ được giải thoát sanh
tử. Nếu chưa giải thoát sanh tử, thì ít ra cũng tránh được các đường dữ,
sanh trong các cõi lành. Cho nên bài kệ này thường được in trong lá
phái qui y của Phật tử. Bài kệ nhắc cho quí Phật tử thấy đó là chân lý,
là lẽ thật mà mười phương chư Phật đều đồng thừa nhận như vậy, chớ không
riêng gì đức Phật Thích-ca.
Người tu Phật hiểu rõ và ứng dụng
tu theo bài kệ đó, thì từ một con người lỗi lầm sẽ trở thành con người
lương thiện. Rồi từ con người lương thiện tiến lên con người thanh tịnh,
giải thoát sanh tử. Như vậy trên đường tu, thăng tiến dần từ thấp tới
cao, cho đến giải thoát hẳn mọi khổ đau.
Tóm lại,
chúng ta tu giai đoạn đầu là bỏ ác, làm thiện. Cuối cùng thiện ác đều
dẹp luôn, chỉ còn một tâm thanh tịnh. Đó là chỗ cứu kính. Nếu quí vị
nghe nhớ ứng dụng tu thì sẽ thấy giá trị của việc tu hành ngày càng thâm
sâu, ngày càng an lạc. Mong rằng tất cả hãy nỗ lực tinh tấn tu hành,
đến khi nào đạt được kết quả viên mãn mới thôi.
Cương yếu để tu (HT.THÍCH THANH TỪ)
Hôm nay thể theo lời mời của Sư bà tại chùa Thiên Phước cũng như trong
Giáo Hội, chúng tôi về đây giảng một thời pháp cho Tăng Ni và toàn thể
Phật tử nghe. Trên đường tu, chúng ta muốn tu đúng với chánh pháp của
Phật để được an lạc giải thoát, thì điều kiện tiên quyết là phải hiểu,
phải nhập được chánh pháp.
Hồi
xưa có Thiền sư Đạo Lâm ở Trung Quốc, Ngài rất quyết tâm tu hành. Để đạt
được kết quả như sở nguyện, Ngài dùng cây cột thành chỗ ngồi như một ổ
quạ, trên cháng ba của một cổ đại thụ. Ngài ngồi trên đó tu. Đương thời
người ta không biết tên Ngài là gì nên họ gọi là Ô Sào Thiền sư. Ô là
quạ, sào là ổ, Thiền sư ngồi tu trên ổ quạ. Do quyết tâm tu nên chẳng
bao lâu Ngài ngộ đạo. Từ đó, tiếng đồn vang khắp.
Khi ấy Bạch Cư Dị là một thi sĩ nổi tiếng và rất mến mộ đạo Phật. Nghe
Ngài là người được đắc đạo nên ông tìm tới. Dưới gốc cây, ông nhìn lên
chắp tay thưa: “Bạch Hòa thượng, cúi xin Ngài vì con nói pháp cương yếu,
để con theo đó mà tu.” Ngài liền đọc bài kệ, nguyên văn chữ Hán là:
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.
Dịch:
Chớ làm các điều ác
Vâng làm các điều lành
Giữ tâm ý trong sạch
Đây lời chư Phật dạy.
Nghe bài kệ ấy xong ông cười, nói:
- Bạch Hòa thượng, bài kệ này con nít tám tuổi cũng thuộc, Ngài dạy cho con làm gì!
Thiền sư nói:
- Phải, bài kệ này con nít tám tuổi cũng thuộc, nhưng ông già tám mươi làm cũng chưa xong!
Bài kệ này thường được in trong lá phái qui y của quí Phật tử đó. Chư
Phật đã dạy như thế, chớ không phải chỉ một đức Phật thôi. Chúng ta nên
lưu tâm cho rõ. Tôi sẽ thứ tự giải thích bốn câu kệ này cho quí vị thấy
tầm vóc quan trọng của nó.
Chư ác mạc tác là không
làm các điều ác. Điều ác là những điều gì? Phật dạy tất cả người tu khi
bước chân vào đạo, đều phải giữ giới. Nếu cư sĩ thì giữ năm giới; người
xuất gia thọ Sa-di giữ mười giới, Tỳ-kheo giữ hai trăm năm mươi giới;
Tỳ-kheo ni ba trăm bốn mươi tám giới… Như vậy bước đầu vào đạo là phải
giữ giới. Giữ giới là để ngăn ngừa không làm những điều tội lỗi. Cho nên
trong giới luật thường có câu phòng phi chỉ ác, tức là ngừa đón, ngăn
dứt tội ác. Người bước vào đạo, Phật bắt phải giữ giới để ngừa đón, chặn
đứng không cho làm những điều tội ác. Giới không cho chúng ta rơi vào
hầm sâu, hố thẳm, nên giới là hàng rào để ngừa đón sự nguy hiểm cho
chúng ta. Người tu xuất gia hay tại gia, đều phải có hàng rào để ngừa
đón tội lỗi. Nếu không có hàng rào đó, chúng ta dễ rơi vào những chỗ
nguy hiểm, hậu quả không an vui mà còn dẫn đến nhiều khổ đau khác nữa.
Tôi nói gần nhất là giới của cư sĩ tại gia. Phật không cho sát sanh,
trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, xì ke, ma túy… Phật cấm không được
làm những điều này. Nếu Phật tử làm thì sẽ dẫn đến đau khổ, tội lỗi.
Bước đầu vì sợ tội, sợ phạm nên quí vị không làm những điều đó, tức là
không làm điều ác.
Các hành động như giết người,
trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu say… có ác không? Năm điều đó là
tội ác cho nên chúng ta ngừa đón, không làm, không làm tức là giữ giới.
Nhờ giữ giới nên tránh được tội ác. Tránh được tội ác rồi, kế đó chúng
ta mới làm các việc lành. Làm các việc lành như tu Thập thiện, tức là
mười điều lành của người tu Thiên thừa Phật giáo. Người tu Thập thiện
sau khi chết sẽ sanh về cõi trời. Trong mười điều lành đó thân có ba,
miệng có bốn, ý có ba điều.
Thân có ba là: “Không
sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm”. Miệng có bốn là: “Không nói
dối, không nói lời hung dữ, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời thêu
dệt”. Ý có ba là: “Bớt tham, bớt sân, bớt si”. Người tu không làm mười
điều ác đó sẽ được sanh về cõi lành. Như vậy bước đầu của người tu Phật
là phải ngăn chận dòng tội lỗi. Không gây tạo tội lỗi là bước thứ nhất
trên đường tu. Người theo đạo Phật mà không chịu giữ giới là người không
biết tu.
Trong mười điều đó: thân ba, miệng bốn, ý
ba. Chúng ta có thể giữ được thân, miệng nhưng ba điều của ý, quí Phật
tử có giữ được không? Thí dụ về tham, cái tham hết sức nhỏ như tham ăn.
Bình thường thấy gà vịt nuôi sẵn ở nhà cũng thương, nhưng khi đã thèm ăn
rồi thì cứ đè xuống cắt cổ. Nó giãy giụa mấy cũng mặc, đâu có xót xa
chút nào, miễn được ăn ngon thôi. Vì miếng ăn mà chúng ta tàn sát chúng
sanh không thương tiếc!
Nên tôi nói người tu ăn chay có lợi rất
lớn, dễ tăng trưởng lòng từ bi. Thí dụ chư Tăng Ni ăn chay trường, khi
ra đường có những hồ ao gần bên, cá dưới ao nhảy lên bờ giãy giụa, quí
vị thấy thế thì sao? Thấy thương, lượm bỏ xuống hồ. Còn người không ăn
chay trường, thấy thì sao? Thì mừng, lượm bỏ vô giỏ. Như vậy có một việc
thôi, mà người ăn chay trường thấy thương, còn người ăn mặn thì thấy là
món ăn ngon nên lượm bỏ vô giỏ.
Cái khổ sợ kinh hoàng của nó,
mình không một chút xót thương. Rõ ràng người tu ăn chay thì có lòng từ
đối với chúng sanh hơn. Người tu mà còn tham ăn ngon là còn sát phạt
sanh vật khác, không biết thương tiếc mạng sống của nó. Từ tham ăn rồi
tới tham tiền, tham của.
Tham tiền, tham của thì sao? Thì ra
đường thấy ai làm rơi bóp lượm lên. Lượm được mừng quá giấu luôn. Như
vậy do tham, dù không trực tiếp ăn cắp, nhưng đã gián tiếp làm việc đó
rồi. Người mất của họ buồn rầu, mình lượm được thì mừng vui. Tức là vui
trong sự đau khổ của người khác. Như vậy có tội không?
Chúng ta
thấy từ tham làm ra bao nhiêu tội ác. Sân cũng vậy. Khi nào nổi nóng ít
ai bình tĩnh, sáng suốt nói lời tốt lành. Người ta nói trái ý, mình nổi
giận liền kêu tên chửi mắng. Do giận dấy lên, chúng ta mất hết trí khôn
nên nói bậy, gây ra tội lỗi. Người tu phải bớt nóng giận. Chẳng riêng
gì giới Phật tử cư sĩ mà kể cả người xuất gia có hết được nóng giận
chưa? Bình thường quí vị sợ nhưng tới nổi cơn lên thì hết sợ! Để thấy
khi nổi giận lên thì trí tuệ sáng suốt bị khuất lấp đi, không còn nữa
nên nói bậy, làm bậy.
Trong gia đình Phật tử cư sĩ, vợ chồng có
tình ràng buộc từ buổi đầu cho tới ngày nhắm mắt. Nhưng khi nổi giận
thì bất kể, nói những lời hết tình hết nghĩa, làm cho tan nát cả gia
đình. Thế thì nóng giận có phải là tội ác không? Nếu chúng ta bớt nóng
giận thì bớt tội ác. Đó là một cái lẽ thật. Người tu phải làm sao tự
mình kềm chế. Ở đây tôi nói bớt thôi, chớ chưa dám nói hết. Thí dụ trước
kia quí vị nóng một trăm phần trăm, kể từ nay về sau, mỗi tháng bớt
xuống chừng mười phần trăm. Như vậy tới cuối năm sẽ hết hoàn toàn. Dứt
được sân thì mình bớt khổ và những người chung quanh cũng bớt khổ. Nóng
giận làm cho người ta mất hết lương tri, mất hết trí tuệ. Những việc
không nên làm mà cứ làm là điều hết sức nguy hiểm.
Thứ ba là si
mê. Sao gọi là si mê? Nhiều vị khi bị người ta nói “Chị khờ quá!” nổi
giận liền. Nói “khờ” còn nhẹ, nói “ngu quá!” thì sao? Nổi giận đùng đùng
lên. Bởi cho rằng người ta nói ngu là xúc phạm đến giá trị của mình,
làm cho mình mất hết uy tín, danh dự… Nếu nghe nói ngu mà cứ cười: “Họ
nói mình ngu mà mình không ngu thì thôi”, như vậy khỏe biết mấy. Phải
chi họ nói ngu mà mình ngu liền thì nổi giận là đúng. Người ta nói ngu
mà mình không ngu thì thôi, có hệ trọng gì. Vậy mà không bao giờ chịu.
Người xưa còn nói: “Càng học thấy càng dốt”, đây là câu nói của hàng
thánh nhân chớ không phải thường.
Học nhiều lẽ ra phải thông
minh, sao “càng học càng thấy dốt”? Bởi trên thế gian cả trăm cả triệu
ngành nghề khác nhau. Thí dụ như chúng ta học nghề bác sĩ y khoa, giỏi
về bệnh trạng, biết thuốc trị cho bệnh nhân hết bệnh, đó là bác sĩ hay.
Nhưng nếu đưa ông bác sĩ qua ngành điện hoặc ngành hóa chất hay các
ngành tầm thường hơn như thợ hồ, thợ mộc thì ông có biết gì không? Như
vậy trăm ngàn nghề, mình biết có một nghề, còn bao nhiêu nghề không
biết, thì đâu gọi là khôn hoàn toàn. Mình biết có một phần trong muôn
phần thì vẫn còn ngu, chưa thể gọi là thấu suốt được hết.
Ngu
mà biết ngu là chưa thật ngu. Ngu mà không biết ngu đó mới thật là ngu!
Khi nghe người ta nói mình ngu, mình cười thôi: “Trong trăm nghìn muôn
ức việc, tôi biết có một hai việc thôi bảo ngu là phải.” Nói như vậy có
thiệt thòi giá trị của mình không? Người bàng quan nghe thế, họ chê cười
hay là khen ngợi? Chúng ta có những thứ si mê hết sức là vô lý, không
đáng si mê mà cứ si mê. Từ si mê không chấp nhận mình ngu nên sanh ra
sân. Từ sân gây tai họa nguy hiểm thêm.
Trong kinh A-hàm, Phật có kể câu chuyện:
Có một thầy Tỳ-kheo tu hành rất chân chánh, ngài tránh xa quần chúng,
tu trong một khu rừng. Những tiều phu hái củi thấy thế, họ về nói lại
trong xóm nghe. Trong xóm, có một thiếu nữ rất tâm đạo, nghe vị Tỳ-kheo
tu chân chánh như thế, nên cô xin phép ba mẹ mỗi ngày bưng một bát cơm
vào rừng cúng dường cho thầy. Thấy thế, xóm làng nghi ngờ cô gái có tình
ý với thầy. Họ đồn bậy, cô buồn nên không dâng cơm nữa. Trước khi không
dâng cơm, cô thưa với thầy:
- Thưa Thầy, con đã phát tâm cúng
dường cho Thầy, nhưng bây giờ xóm làng đàm tiếu, nói con có ý riêng với
Thầy, nên con không dám dâng cơm cho Thầy nữa.
Nghe xong thầy
Tỳ-kheo ấy buồn, vì nghĩ mình tu chân chánh thế này, mà người ta đàm
tiếu những chuyện không hay, thôi thì chết đi cho rồi. Thầy mới làm một
dây thòng lọng treo trên cây cổ thụ. Lúc thầy vừa đưa cổ vào dây, có vị
thần hiện ra hỏi:
- Tại sao Thầy lại tự tử?
Thầy trả lời:
- Tôi tu hành chân chánh mà bị người ta đồn có tình ý với cô gái cúng
dường cơm cho tôi. Vì vậy tôi xấu hổ, muốn tự tử chết cho rồi.
Vị thần đó hỏi:
- Thưa Thầy, nếu người ta đồn Thầy chứng quả A-la-hán, lúc đó Thầy có thành A-la-hán không?
- Nếu tôi chưa chứng A-la-hán, mà bảo tôi chứng A-la-hán, tôi cũng đâu thành A-la-hán được.
Vị thần hỏi:
- Vậy nếu người ta nói Thầy có tình ý xấu mà Thầy không có, tại sao Thầy lại tự tử?
Nghe thế, thầy Tỳ-kheo mở thòng lọng xuống bỏ. Sau một thời gian tinh cần, thầy chứng quả A-la-hán.
Câu chuyện đó nói với chúng ta điều gì? Dư luận khen chê có thật hay
không? Thí dụ quí vị tu chưa tới đâu, mà nghe nói “Thầy đã chứng
A-la-hán, Thầy đã là Bồ-tát rồi,” quí vị có mừng không? Lời khen mà
không có lẽ thật thì cũng vô giá trị. Ngược lại, nếu người ta nguyền
rủa: “Thầy tu lôi thôi quá coi chừng đọa địa ngục”, quí vị nổi giận
không? Nếu mình tu thanh tịnh, người ta nói đọa địa ngục, mình có đọa
đâu mà sợ. Nên cứ cười thôi, đâu có gì phải nổi nóng.
Trên thế
gian người ta nói xấu, nói tốt đâu có giá trị thật. Vậy mà ai hơi xúc
phạm là mình nổi nóng lên, la hét om sòm. Đó là si mê rồi. Nếu chúng ta
không si mê thì cuộc sống có phải an lành không? Nên đạo Phật thường dạy
chúng ta phải tránh si mê. Bởi vì si mê là nhân đưa chúng ta đến đau
khổ. Nên bớt si mê là bớt khổ đau. Nếu còn si mê là còn đau khổ.
Muốn hết si mê chúng ta phải thường quán chiếu đúng với lẽ thật. Vì vậy
người tu Phật đi vào đạo bằng trí tuệ, chớ không phải bằng cầu xin.
Nhưng hiện nay chẳng những Phật tử, mà kể cả người tu cầu xin nhiều hơn
vận dụng trí tuệ.
Phật tử tới chùa dâng một dĩa quả rồi lạy,
thầy hay cô đánh chuông, bảo: “Phật tử nguyện gì thì cứ nguyện đi.” Thế
là một đàng nhận, một đàng xin, Phật tử cứ thế mà cầu: “Nguyện cho gia
đình con được bình an, cho con cái học giỏi, cho làm ăn phát tài…” Rõ
ràng cúng Phật ít mà xin thì quá nhiều. Như vậy có phải tham không? Phật
dạy bớt tham, bớt sân, bớt si mà chúng sanh tham như vậy, Phật biết làm
sao? Chỉ còn lắc đầu.
Chúng ta tu mà không hiểu được lời Phật
dạy, làm sao tu theo Phật được. Đến chùa, nếu có cầu nguyện, người Phật
tử hiểu đạo nên nguyện thế này: “Nguyện Tam Bảo chứng minh hộ độ cho tất
cả chúng sanh đều hết mê lầm, hết đau khổ.” Như vậy là quá đủ. Bởi vì
trong chúng sanh đã có mình rồi. Còn xin cho một mình mình thì tham lam,
ích kỷ quá, Phật đâu có vui. Nhiều khi tôi cũng hơi buồn khi thấy Phật
tử có ý trao đổi nhiều quá.
Thí dụ Phật tử cúng cho thầy hoặc
cô, mỗi tháng năm ba trăm gì đó. Một hôm có người nhà ấm đầu, bèn đến
nhờ thầy cầu an giùm. Thầy bận việc không đi tới nhà được thì buồn liền,
thầy không thương mình. Như vậy cúng để mong thầy bảo bọc cho gia đình.
Bệnh, chết hay trong gia đình có chuyện gì, nhất nhất thầy đều phải có
mặt để cầu cúng. Như vậy cúng chùa giống như đóng tiền bảo hiểm vậy. Cho
nên từ sự hiểu lầm của Phật tử mà Tăng Ni trở thành khó xử. Bởi khi
nhận của cúng dường tức là thiếu nợ Phật tử. Phật tử yêu cầu mà không
làm theo thì Phật tử buồn, không đi chùa nữa. Cho nên chiều Phật tử,
Tăng Ni đi cầu cúng hoài, thành ra đánh mất ý nghĩa và giá trị thực của
một tu sĩ.
Phật tử sáng suốt, hiểu và hành đúng đạo lý, thì
Tăng Ni dễ tu, dễ hóa duyên. Nói vậy không có nghĩa tôi qui lỗi về hết
cho quí Phật tử. Đôi lúc thầy cô cũng nhiệt tình quá, Phật tử chưa kịp
mời mà quí vị đã hưởng ứng trước rồi! “Nghe nói ông thân của cô bệnh
nhiều, thôi để chiều nay thầy tới cầu an cho.” Sốt sắng quá nên thành
thói quen. Bây giờ chúng ta phải sửa lại. Làm việc gì phải xét xem việc
đó có hợp với chánh pháp, với đạo lý không. Không nên làm những việc sai
lầm, trái với những lời Phật dạy.
Chúng ta tu theo Phật là mở
sáng trí tuệ. Trong kinh Phật thường dạy si mê là tăm tối, trí tuệ là
sáng suốt. Tuy si mê là nhân của tham sân, nó khó trị, nhưng nếu biết
trị thì dễ lắm. Như trong ngôi nhà tối lâu năm không có người ở, bây giờ
muốn cho hết tối, chỉ cần đốt lên một ngọn đèn, hay đem một cây đuốc
đến là ngôi nhà sáng liền.
Như vậy muốn hết tối, chỉ dùng ánh
sáng. Ánh sáng mới phá tan si mê, tăm tối. Trí tuệ cũng vậy, nó giúp
chúng ta diệt được vô minh. Như chúng ta hiểu sai lầm về việc cầu cúng,
khi được nghe quí thầy giảng giải liền nhận ra, sửa đổi ngay là chúng ta
đã sáng rồi. Đâu phải đợi mười năm, hai mươi năm mới sáng. Nghe, biết
trước kia mình mê lầm, bây giờ bỏ mê lầm, bỏ chấp trước là hết mê lầm.
Hết mê lầm là trí tuệ, rất nhanh.
Nên Phật dạy chúng ta tu phải
thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ. Có đuốc trí tuệ rồi, chúng ta mới giải hết
được những nỗi khổ đau. Bởi mê lầm cho nên chúng ta đau khổ, nếu hết mê
lầm thì hết đau khổ. Ví như người đi lạc trong rừng, không biết lối ra.
Lúc đó lao đao lận đận, tìm chỗ này chỗ kia nhọc nhằn khổ sở mà vẫn
không ra khỏi rừng. Đến khi gặp được người chỉ đường, nắm vững lối đi
rồi, cứ theo đó mà ra thì hết lạc lầm. Hết lạc lầm thì hết đau khổ. Nên
chỉ có trí tuệ, thấy rõ được lối đi mới hết đau khổ. Không có trí tuệ
thì chúng ta mãi khổ đau.
Tăng Ni cũng như Phật tử, không nên
nghĩ dùng thật nhiều công phu mới gọi là chuyên tu. Chúng ta mở sáng trí
tuệ mới đúng là chuyên tu. Phật dạy chúng ta bước từng bước, ngăn ngừa
không cho rơi vào tội lỗi, đó là giữ giới. Từ giữ giới, tiến lên loại
trừ tham, sân, si để tâm được trong sạch, đó là bắt đầu có trí tuệ. Như
thế dần dần đi tới chỗ bình an.
Đó là câu thứ nhất “Chớ làm các điều ác”.
Đến câu thứ hai “Chúng thiện phụng hành”, tức là vâng làm các điều
lành. Nhiều người nghĩ rằng làm lành, làm phước thì tốn của tốn công.
Như vậy là thiệt thòi cho mình. Hiểu thế là sai lầm. Tôi dẫn câu chuyện
của người xưa kể lại:
Có anh chàng nghèo nọ ở trong một xóm toàn là người khá giả. Khi ấy có người hỏi:
- Trong xóm toàn là người khá giả, một mình chú nghèo, chú có buồn không?
Anh trả lời:
- Tôi tuy nghèo nhưng được ở trong một xóm khá giả, chẳng những tôi không buồn mà còn vui nữa.
- Tại sao?
- Bởi vì tất cả mọi người đều khá, chỉ có mình tôi nghèo. Khi thiếu
thốn, tôi qua nhà này nhà kia mượn tiền, ai cũng giúp đỡ được cả. Như
vậy tuy nghèo mà không đến nỗi khổ, vì có người giúp tôi.
Như
vậy người nghèo thấy người giàu khá trong lòng mừng vui, không đố kỵ thì
mọi người đều thương mến, nên họ sẵn sàng giúp đỡ những lúc khó khăn.
Còn nếu nghèo mà sanh tâm đố kỵ nói xiên nói xéo người ta, thì dĩ nhiên
họ oán ghét mình. Đã thế thì đâu ai thương và giúp đỡ nữa. Vậy mang tâm
đố kỵ là khôn hay dại? Nhưng con người mang cái bản ngã trầm trọng, thấy
thua người ta là đố kỵ, ganh ghét liền.
Chúng ta cứ nghĩ tài
sản trong tay mới thật là của mình, còn của người khác thì không dính
dáng gì tới mình. Nhưng không phải như vậy. Anh chàng nghèo mà cả làng
đều thương, ai cũng sẵn sàng giúp đỡ thì anh cũng cảm thấy hạnh phúc an
vui. Còn người giàu mà tâm keo sẻn, ích kỷ, bo bo canh giữ sự sản của
mình, không ai thương hết thì khi gặp khổ vẫn cứ khổ như thường.
Ta cứ mong cho mọi người được sung sướng, còn phần mình không quan
trọng. Lo cho mọi người, mới nhìn thấy như thiệt thòi nhưng sự thật lo
cho người tức là lo cho mình. Tại sao? Bởi vì trong xã hội, cuộc sống
luôn liên đới nhau giữa mình và mọi người, không thể tách rời được. Nếu
mọi người được vui, được no ấm thì mình mới yên vui. Còn mọi người khổ,
chỉ một mình mình sung sướng thì sao? Họ đâu có để yên cho mình, hết
rình ngõ trước lại dòm ngõ sau. Chừng đó mình vui hay lo sợ? Cho nên chỉ
khi nào tất cả mọi người đều được ấm no hạnh phúc thì mình mới an vui.
Trong kinh nói Bồ-tát thấy chúng sanh khổ như mình khổ, thấy chúng sanh
vui như mình vui. Cái vui khổ của mọi người là cái vui khổ của chính
mình, không tách rời nhau. Vì sao? Vì sự liên đới giữa mình với mọi
người là mối tương duyên tương sanh không thể tách rời được. Thế nhưng ở
thế gian nhiều người ích kỷ, muốn tách riêng một mình, không dính dáng
với ai. Đó là quan niệm rất sai lầm, không hiểu biết gì về lý duyên sanh
cả.
Phật dạy chúng ta làm cho tất cả người đều được an vui,
tức là làm lành. Người đói cho họ cơm; người rách cho họ áo; người bệnh
tật cho họ thuốc men v.v… Khi giúp đỡ người chính là lo cho mình. Bởi vì
lo cho mình là mình gieo nhân tốt với mọi người nên mọi người quí mến.
Gieo nhân tốt thì mai kia mất thân này mình được hưởng quả tốt. Như vậy
có thiệt thòi gì đâu. Còn nếu ích kỷ, chỉ lo cho mình, không biết tới
người, đó mới là thiệt thòi. Vì người ta không thương thì mình gặp khó
khăn người ta không giúp đỡ. Chừng đó mình sẽ khổ. Mình có của, mọi
người cùng có của; mình khỏe vui, mọi người cùng khỏe vui. Đó là chúng
ta biết làm lành. Biết làm lành tức là biết thương người. Thương người
tức là thương mình. Cho nên chúng ta phải cố gắng làm tất cả điều thiện.
Nhiều vị hay than thở: “Người có tiền của thì kêu gọi lòng từ thiện
được, còn tôi nghèo cháy da làm sao làm từ thiện?” Đó là vì họ không
hiểu. Trong nhà Phật dạy bố thí có ba: tài thí, pháp thí và vô úy thí.
Tài thí cũng chia làm hai: nội tài và ngoại tài.
Nếu mình có
tiền của, ai đói thiếu mình giúp, đó là bố thí ngoại tài. Nếu mình không
có tiền của, thấy người hàng xóm bệnh, đi đứng không vững, mình đến đỡ
đần, dẫn họ đi, đó là bố thí nội tài. Có tình thương, có lòng tốt thì
trong trường hợp nào, hoàn cảnh nào, chúng ta cũng làm việc thiện được.
Thiếu tình thương thì không làm việc lành, việc tốt được. Câu này Phật
dạy chúng ta phải tận dụng khả năng của mình làm tất cả những điều lành.
Nói cụ thể hơn, làm các điều lành là chẳng những không sát sanh, không
trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu; mà còn cứu
người cứu vật, bố thí giúp đỡ người nghèo thiếu, dạy người biết sống
trinh bạch, nói lời chân thật, hòa nhã khuyên răn nhắc nhở mọi người,
khuyên con cháu xóm làng tránh uống ruợu, hút xì ke ma túy… Đó là làm
lành.
Trên đường tu mỗi ngày chúng ta mỗi bòn mót công đức. Bòn
mót công đức là sao? Không phải tới chùa cúng dường mới có công đức.
Giúp một người hàng xóm qua cơn hoạn nạn, là đã có công đức. Giúp một
con vật bị hành hạ khổ sở, là đã có công đức. Công đức ở tất cả chỗ, tất
cả mọi người. Hiểu như vậy chúng ta mới phát tâm làm lành một cách dễ
dàng được.
Kế đến là bố thí pháp. Sao là bố thí pháp? Thí dụ
như có người cờ bạc rượu chè làm cho gia đình nghèo túng, trước tiên
chúng ta giúp tài vật cho họ qua cơn nghèo túng. Sau đó giải thích cho
họ biết những tai hại của uống rượu và cờ bạc. Dạy thật rành rõ cho họ
hiểu và bỏ, như vậy gọi là pháp thí.
Trong lúc đói khát người
ta không thể nghe đạo lý được. Muốn họ nghe thì phải làm cho họ đỡ đói.
Cho nên tài thí đi đầu rồi tới pháp thí theo sau. Có như vậy việc lành
của chúng ta mới trọn. Nếu mỗi người trong xóm, thấy ai gặp khó khăn,
khổ não sẵn sàng giúp đỡ, thì xóm làng đó tốt không? Nơi đó sẽ trở thành
một nơi an vui, tự tại. Tất cả đều sống trong tình thương bảo bọc cho
nhau thì tốt đẹp biết bao nhiêu. Vì vậy Phật dạy chúng ta phải cố gắng
làm tất cả điều thiện.
Câu thứ ba “tự tịnh kỳ ý” nghĩa là giữ
gìn tâm ý cho thanh tịnh. Câu này là câu then chốt. Quí vị mỗi người tự
nhìn lại xem tâm ý mình có thanh tịnh chưa? Hay là như những con trốt
bay quanh đám rơm, cuốn bụi tứ tung. Tâm chúng ta xáo động lăng xăng,
không yên ổn nên gọi là ngầu đục. Vì tâm ngầu đục nên chúng ta không
sáng suốt. Không sáng suốt thì làm sao tạo được điều tốt, điều lành. Vì
vậy tất cả điều tốt lành đều do ý trong sạch phát ra. Ý nghĩ tốt, miệng
nói tốt, thân làm tốt. Như vậy ý là gốc, là nền tảng của sự tu. Cho nên
Phật nhắm thẳng vào gốc đó là phải gìn giữ tâm ý cho thanh tịnh.
Muốn tâm ý thanh tịnh phải làm sao? Như người tu Tịnh độ, muốn cho tâm ý
thanh tịnh phải dùng câu niệm Phật. Đi, đứng, nằm, ngồi luôn luôn niệm
Phật. Niệm Phật không quên, để ý không chạy nhảy lung tung. Niệm Phật
lâu ngày đã thuần thục rồi thì tâm không còn lăng xăng nữa. Tâm không
còn lăng xăng nữa là ý được thanh tịnh. Cho nên muốn tâm ý thanh tịnh
thì phải chuyên cần dùng một phương tiện nào đó để trừ dẹp những lăng
xăng, lộn xộn trong tâm. Phương tiện đó gọi là pháp tu, hoặc pháp tu
Tịnh độ, hoặc pháp tu Thiền.
Người tu Thiền làm sao để tâm ý
thanh tịnh? Có nhiều cách, tùy theo trình độ sai biệt. Nếu tu thiền
Nguyên thủy thì dùng pháp quán Tứ niệm xứ. Nếu tu thiền Đại thừa thì
quán Giả, quán Không, quán Trung đạo v.v… Nhưng có một pháp tu tôi cho
rằng đó là phương thuốc trị bá bệnh. Khi dấy niệm, chúng ta biết niệm đó
là vọng tưởng hư dối, liền bỏ. Niệm khác dấy lên biết là hư dối vọng
tưởng, bỏ. Phương pháp này như chuyện chăn trâu vậy. Con trâu vừa nghẻo
đầu qua bên tây, mục đồng sợ ăn lúa mạ của người liền giựt lại. Nó nghẻo
qua bên đông cũng giựt lại. Giữ cho con trâu đừng có ngả qua, ngả lại
làm hư lúa của người. Cũng vậy, tâm vừa dấy niệm chạy theo cái này, chạy
theo cái nọ, mình đều bỏ. Đó là vọng tưởng, không theo! Bỏ mãi cho đến
khi nào vọng tưởng yên lặng, gọi là thanh tịnh. Đó là tu Thiền.
Tất cả mầm gốc của bất tịnh đều do tâm chạy theo cảnh, duyên dính với
cảnh. Chúng ta buông, không chạy theo cảnh nữa thì tâm lặng. Tâm lặng
tức là thanh tịnh. Phật dạy tu đến chỗ cuối cùng là phải trở về với tâm
thanh tịnh ban đầu, không còn những ý niệm lăng xăng nữa. Bởi ý niệm
lăng xăng đó không phải là tâm thật của mình, nó chỉ là bóng dáng của
sáu trần mà thôi.
Tôi ví dụ như mặt biển thênh thang, khi nổi
sóng thì mỗi lượn sóng khác nhau. Có lượn cao, có lượn thấp nhưng mặt
biển vẫn không hai. Tâm chúng ta cũng vậy, những thứ lăng xăng đó chỉ là
những lượn sóng, do tâm duyên theo bóng dáng sáu trần. Còn tâm thể chân
thật lúc nào cũng tròn đầy, thanh tịnh. Cho nên tu, dừng được tâm lăng
xăng đó thì thể thanh tịnh hiện tiền. Cũng như sóng nổi ầm ầm nhưng khi
lặng rồi thì mặt biển thênh thang bằng phẳng.
Chúng ta nói
những lượn sóng là mặt biển được không? Không, vì nó có giới hạn. Mặt
biển thì phải thênh thang, nên sóng không là mặt biển. Tuy nhiên sóng
không rời mặt biển mà có được. Nên biết sóng không phải là mặt biển,
nhưng cũng không rời mặt biển. Tâm chúng ta cũng vậy, những nghĩ suy
lăng xăng không rời tâm chân thật, nhưng tâm chân thật thì lặng yên,
không giới hạn, còn suy nghĩ thì có chừng mực, có giới hạn. Cái suy nghĩ
không phải là tâm thật thênh thang, nhưng cũng không rời tâm thênh
thang đó. Hiểu như vậy mới thấy được cội nguồn của tâm thể chân thật.
Phật dạy tu là cứu kính thoát ly sanh tử. Còn suy nghĩ thì còn rơi theo
hai đường: hoặc thiện hoặc ác tức là nghiệp lành, nghiệp dữ. Nghiệp
lành, nghiệp dữ sẽ dẫn chúng ta sanh cõi lành, cõi dữ. Đó là đi trong
sanh tử. Nếu cả hai lành dữ, thiện ác đều lặng hết, chỉ còn một tâm
thanh tịnh thì chúng ta đi theo nghiệp nào? Đó là giải thoát sanh tử.
Như vậy thì muốn giải thoát sanh tử, chúng ta phải lặng hết tất cả tâm
lành dữ. Tâm lành dữ là tâm tương đối, sanh diệt, không thật. Nó lặng
xuống rồi thì tâm chân thật mới hiện bày. Tâm chân thật là tâm không
sanh diệt. Sống được với tâm này mới gọi là giải thoát sanh tử. Cho nên
Phật dạy phải lặng tâm ý cho trong sạch là vì thế. Cho nên tu theo Tịnh
độ thì phải nhất tâm niệm Phật. Nhất tâm thì không còn hai, không còn
phải quấy. Như vậy là tâm lặng. Còn nhà Thiền dạy dứt hết niệm tưởng
lăng xăng, thì chân tâm hiển lộ. Chân tâm hiển lộ đó là nhân giải thoát
sanh tử.
Câu cuối “Thị chư Phật giáo”, đây là lời dạy của tất
cả chư Phật chớ không riêng gì đức Phật Thích-ca thôi. Chỉ một bài kệ
này chúng ta khéo ứng dụng, tu đúng như vậy thì sẽ được giải thoát sanh
tử. Nếu chưa giải thoát sanh tử, thì ít ra cũng tránh được các đường dữ,
sanh trong các cõi lành. Cho nên bài kệ này thường được in trong lá
phái qui y của Phật tử. Bài kệ nhắc cho quí Phật tử thấy đó là chân lý,
là lẽ thật mà mười phương chư Phật đều đồng thừa nhận như vậy, chớ không
riêng gì đức Phật Thích-ca.
Người tu Phật hiểu rõ và ứng dụng
tu theo bài kệ đó, thì từ một con người lỗi lầm sẽ trở thành con người
lương thiện. Rồi từ con người lương thiện tiến lên con người thanh tịnh,
giải thoát sanh tử. Như vậy trên đường tu, thăng tiến dần từ thấp tới
cao, cho đến giải thoát hẳn mọi khổ đau.
Tóm lại,
chúng ta tu giai đoạn đầu là bỏ ác, làm thiện. Cuối cùng thiện ác đều
dẹp luôn, chỉ còn một tâm thanh tịnh. Đó là chỗ cứu kính. Nếu quí vị
nghe nhớ ứng dụng tu thì sẽ thấy giá trị của việc tu hành ngày càng thâm
sâu, ngày càng an lạc. Mong rằng tất cả hãy nỗ lực tinh tấn tu hành,
đến khi nào đạt được kết quả viên mãn mới thôi.
Người trí tuệ phải thấy thế gian đang bốc lửa rất dữ dội (truyện tích Phật giáo)
*********************
Một thời, cách thành Vương Xá không xa, có ba anh em dòng họ Kasyapa
(Ca Diếp) theo đạo thờ lửa sống trong những biệt thự dọc sông Ni Liên.
Người anh cả tên Uruvilva (Ưu Lâu Tần Loa) già trên 120 tuổi, anh thứ là
Gaya (Già Da) và em út là Nadi (Na đề) cả hai đều đã trên trăm tuổi. Họ
đã tu luyện lâu năm và biết phép thần
thông biến hóa nên được rất đông đồ đệ, kể cả vua Bimbisara (Bình sa).
Tuy vậy, họ không có giáo lý nào để dạy dỗ người bỏ ác làm lành, sống
lương thiện, mà chỉ chuyên biểu diễn phép lạ để lòe thiên hạ, và tổ chức
những lễ tế thần lửa.
Lúc bấy giờ, đức Thế tôn đang ở thành
Vương Xá. Sau khi độc cư thiền định, Ngài quan sát thấy đã đến thời để
cảm hóa anh em Ca Diếp vào chánh đạo. Một khi những người tinh tấn thờ
lửa có đông đồ đệ ấy được cảm hóa, họ sẽ đắc đạo nhanh chóng, và những
đệ tử của họ cũng sẽ nối gót theo họ mà ra khỏi rừng tà kiến. Sau khi
suy nghĩ như vậy, đức Thế tôn mang y bát đi đến trú xứ của Ưu Lâu Tần
Loa, người anh cả. Ngài đi bộ một mình, không tùy tùng thị giả. Ngài
bước đi bình dị và oai phong như sư tử chúa, đến trước tư thất của vị Bà
la môn già thờ lửa vào lúc trời sẫm tối, và ngỏ lời xin nghỉ lại một
đêm. Ca Diếp nhìn Ngài từ đỉnh đầu đến gót chân, thầm nghĩ: "Sa môn con
nhà ai mà đẹp trai, tuấn tú đến thế! Tiếc thay y không phải là đồ đệ của
ta." (Ðấng Ðạo sư lúc ấy chỉ mới trên ba mươi tuổi, sau khi đạt chánh
giác không bao lâu).
Rồi ông từ chối không để Ngài ở lại, lấy
cớ đã hết chỗ. Nhưng đức Thế tôn vẫn không nao núng, Ngài đứng im lặng.
Bà la môn nghĩ, "có lẽ cần phải hăm dọa thì sa môn này mới chịu đi." Và
lên tiếng:
- Nhà đã hết chỗ, chỉ còn cái điện thờ thần lửa, nhưng có một con độc long to bự trong đó, ai vào sẽ bị nó phun độc chết tươi.
Ðức Thế tôn nhũn nhặn đáp:
- Cũng được, hãy cho bần tăng trú ngụ một đêm trong đó.
Không biết từ chối cách nào khác, Ca Diếp bất đắc dĩ phải để Ngài ở
lại, với hy vọng người khách không mời này sẽ bị trừng phạt đích đáng về
tội bất kính đối với thần lửa như vậy. Nhưng Ca Diếp và đồ đệ ngạc
nhiên xiết bao lúc sáng hôm sau, họ vào điện thờ định đem xác vị sa môn
trẻ ra, thì không những vị ấy không bị độc long làm hại mà còn cảm hóa
được nó. Con rắn phủ phục một bên Ngài, trong khi Ðức Thế tôn lấy tay
xoa đầu nó như xoa đầu một đứa trẻ. Bà la môn Ca Diếp lấy làm kinh ngạc,
thầm phục sa môn, nhưng chưa biết đấy là Ðức Phật, Ðấng Chánh đẳng
giác. Ông ta nghĩ rằng vị sa môn này chắc có biết ít chú thuật bùa phép.
Ðối với đạo bà la môn thì tế tự và bùa phép là việc chính, ai kiện toàn
được những thứ ấy đuợc xem là bậc thánh. Nhưng Phật giáo thì không thế,
đối với đức Phật, thần thông, tế tự không quan trọng, mà cái điều làm
cho con người trở thành một bậc thánh chính là trí tuệ thấy được sự vật
một cách như thật, không bị che lấp bởi ngu si, ngã mạn, tà kiến. Ðó là
những điều mà đức Phật muốn dạy cho anh em Ca Diếp, nhưng trước hết Ngài
phải dùng phương tiện thần thông biến hóa để nhiếp phục ông ta, vì đó
là sở trường của họ. Ưu Lâu Tần Loa bắt đầu cảm thấy khoái vị sa môn
trẻ, ông mời Ngài ở lại trong nhà, với dụng ý thâu làm đồ đệ và như thế
ông sẽ có thêm một số đông đệ tử theo gót vị sa môn tài hoa khả ái này.
Ðức Thế tôn nhận lời. Ngài ở lại nhà Ca Diếp bốn hôm, lần lượt thi triển
những thần thông vượt ngoài khả năng Ca Diếp, làm cho ông ta phải thú
nhận thần thông mình thua xa thần thông của Phật. Khi ấy đức Thế tôn mới
bảo ông:
- Này Ca Diếp, ngươi sẽ không bao giờ trở thành một
bậc thánh nhờ vào những phép lạ. Chỉ có người nào đạt đến trí tuệ rốt
ráo mới đáng gọi là bậc thánh chân thật.
Ca Diếp phủ phục dưới
chân Ngài, xin Ngài tha thứ, và xin làm đệ tử Ngài. Ðức Thế tôn khuyên
ông ta nên hỏi ý kiến 300 đồ đệ ông trước đã. Ca Diếp hội ý với đồ đệ,
và tất cả đều công nhận sự vĩ đại của Thế tôn và đều xin qui y. Họ còn
mạnh dạn bày tỏ ý chí cải tà quy chánh bằng cách ném hết dụng cụ thờ lửa
xuống nước, cho trôi theo dòng sông Ni Liên (Neranjana). Hai người em
của Ca Diếp sống ở hạ lưu con sông, với đồ chúng riêng, một hôm trông
thấy đồ thờ thần lửa của anh cả đang trôi theo giòng, vội vã tìm tới nhà
anh xem đã xẩy ra tai nạn gì. Họ kinh ngạc xiết bao khi thấy anh cả
cùng 500 đồ đệ đã cạo tóc đắp y. Ưu Lâu Tần Loa bảo hai em:
-
Con đường chúng ta theo bấy lâu nay không phải là chánh đạo, bây giờ anh
đã rõ. Muốn chấm dứt khổ sanh tử, chỉ có giáo pháp của đức Thế tôn, bậc
Chánh đẳng giác. Vì lý do đó anh đã quy y Phật. Các em cũng nên suy
nghĩ lại và can đảm dứt khoát như anh, vì gặp được đức Phật ra đời là
chuyện rất khó.
Hai người em cùng số đồ đệ thấy anh cả đã theo
Phật nên cũng xin cạo tóc xuất gia. Sau khi cả ngàn đồ chúng anh em Ca
Diếp xuất gia, đức Thế tôn đưa họ về thành Vương xá. Trên đường đi, Ngài
dừng lại trên đỉnh núi Gaya, từ đó trông xuống xuyên qua một cách đồng,
Ngài có thể trông thấy rừng Uruvilva, sông Ni Liên và núi Pragbodhi.
Ðưa tay chỉ xuống dãy rừng núi trùng điệp, Ngài dạy các tân đệ tử:
- Hỡi các tỳ kheo, tất cả thế gian đang bốc cháy dữ dội, các ngươi nên
hiểu. Con mắt chúng bốc lửa, và khi nhìn sự vật bằng con mắt bốc lửa của
chúng, thì bất cứ gì chúng thấy đều trông như đang bốc cháy. Lỗ tai
chúng bốc lửa, nên khi nghe âm thanh bằng lỗ tai bốc lửa của chúng, bất
cứ gì chúng nghe đều như đang bốc lửa. Mũi chúng bốc lửa, nên khi ngửi
bằng lỗ mũi bốc lửa của chúng, thì bất cứ mùi gì chúng ngửi đều như bốc
lửa. Lưỡi chúng bốc lửa, nên khi nếm bằng cái lưỡi bốc lửa, chúng cảm
thấy những vị chúng nếm đều bốc lửa. Thân của chúng bốc lửa, nên bất cứ
gì thân ấy chạm xúc đến đều như bốc lửa. Tâm chúng bốc lửa, nên khi suy
tưởng với tâm bốc lửa, mọi sự mà chúng nghĩ đến đều như bốc lửa đối với
chúng. Và, hỡi các tỳ kheo, lửa gì nơi chúng đang bốc cháy? Ta nói chính
là lửa tham, lửa sân, lửa si, lửa sanh, lửa già lửa bệnh, lửa chết, lửa
sầu bi khổ ưu não... Khi các ngươi không còn bám víu những ngọn lửa ấy,
thì các ngươi có thể giải thoát khỏi những đau khổ mê muội trói buộc
các ngươi vào thế gian này.
Bài giảng trên đỉnh núi Gaya không
những tóm thu cốt tủy đạo Phật, mà nó còn cho ta thấy đường lối giáo dục
của Ðấng Thiên nhân sư, bậc thầy siêu việt. Ðường lối ấy là "lấy độc
trị độc" hay "đối trị tất đàn" và "vị nhân tất đàn" trong bốn biến thí
(hai cái còn lại là Thế giới tất đàn và đệ nhất nghĩa tất đàn). Ðối với
người khoái thần thông, Ngài sử dụng thần thông để giáo hóa; đối với
người thờ lửa, Ngài lấy ví dụ ngọn lửa tham, lửa sân, lửa si đang đốt
cháy tâm can con người và Thế giới. Tất cả không không ngoài mục đích
cuối cùng là đưa họ đến đệ nhất nghĩa tất đàn, ra khỏi vô minh khổ ách
nhờ trí tuệ thấy Như thật, chân lý khách quan chi phối vạn pháp, không
còn bị che mờ vì lớp kính màu của ngã chấp và cuồng vọng.
(Ni sư Thích Nữ Trí Hải)
*********************
Trong một buổi giảng pháp ở đạo tràng Huệ Quang, Phật tử đã hỏi thầy
Vân Đàm là làm sao để tránh được phiền não. Thầy mỉm cười mà đáp rằng:
"Phật tử ơi! Làm sao tránh được phiền não đây? Thế giới nầy là thế giới
Ta Bà, là thế giới của phiền não nên chi ở trong Ta Bà mà đòi không
phiền não là chuyện không tưởng. Chỉ có một cách duy
nhất để tránh được phiền não là phải thoát cho ra khỏi Ta Bà; muốn
thoát khỏi Ta Bà là phải tu. Phải tu trong phiền não quý Phật tử ạ!" Quả
là một bài pháp ngắn mà đầy đủ và tuyệt diệu.
Chính Đức Từ Phụ
đã từng dạy rằng: "Mỗi chúng sanh đều có thể thành Phật." Tuy nhiên,
chúng sanh vì bị vô minh che lấp cho nên chẳng những không thấy được cái
Phật tánh của mình, mà lắm khi còn có quá nhiều hành động quấy ác,
khiến cho cứ mãi lăn trôi trong luân hồi sanh tử. Nhất là con người, do
bởi tâm lực điên đảo và mưu trí cao sâu, thế nên họ đã và đang làm cho
Ta Bà trở nên Ta Bà hơn. Cái mưu trí cao sâu và tâm lực điên đảo nầy
không chỉ ảnh hưởng riêng một cá nhân, mà còn ảnh hưởng đến gia đình, xã
hội, quốc gia và toàn thế giới nữa. Chính lòng ái nhiễm và tánh tham
lam bỏn xẻn của nhân tâm đã tạo ra cả bầu khổ lạc cho nhân loại vậy. Như
vậy, rõ ràng là chúng ta đang ở trong một căn nhà lửa khổng lồ; mỗi
chúng ta đang thêm dầu cho lửa cháy lan, thế mà vẫn vỗ tay đồng tình tán
thưởng.
Chính Đức Từ Phụ đã thấy rõ thế gian phiền não như
vậy nên Ngài đã vì thương xót chúng sanh mà thị hiện ra nơi đời. Nếu thế
gian nầy không có phiền não thì Ngài đã không thị hiện để làm gì? Và có
lẽ không ai trong chúng ta cần phải tu, hoặc giả giáo pháp của Phật
cũng không còn cần thiết nữa. Kỳ thật, thế giới Ta Bà nầy là sự kết hợp
của vô vàn phiền não và khổ đau. Chính vì vậy mà ai trong chúng ta cũng
đều phải tu; chính vì vậy mà giáo pháp của Phật là vô cùng cần thiết,
nhất là trong thời buổi văn minh vật chất nầy, con người vì tranh giành
miếng cơm manh áo, cũng như phương tiện xa hoa mà chà đạp lên nhau và
gây thêm đau khổ cho nhau.
Vậy thì chúng ta phải làm sao đây?
Chúng ta chỉ còn một cách duy nhất là phải tu trong phiền não. Thật tình
mà nói, dù muốn hay không muốn, tất cả chúng ta rồi cũng phải tu, không
sớm thì muộn. Vậy thì chúng ta còn chờ đợi gì mà không bắt đầu từ bây
giờ? Đến chùa lễ Phật, nghe pháp, cúng dường chư tăng và tu tâm... cũng
tốt, nhưng chưa đủ. Tu là phải cố gắng thật sự xuất thế gian. Xuất thế
gian không nhất thiết phải là đầu tròn áo vuông; có nhiều khi đầu tròn
áo vuông đã lâu mà chưa từng bao giờ xuất thế gian. Xuất thế gian chân
chánh là không còn bị chi phối bởi cái phạm vi dời đổi không thường và
luống dối không thật của các pháp nữa. Những cái không thường chẳng thật
ấy đối với người xuất thế gian như nước đổ lá môn; nước cứ đổ, nhưng có
bao giờ thấm được lá môn đâu?
Tu là phải tu cả ba nghiệp từ
thân, khẩu đến ý. Tu là phải tu trong bất cứ trường hợp nào và bất cứ ở
đâu, chứ không nhứt thiết là phải lui vào rừng sâu núi thẳm. Lui vào
rừng sâu núi thẳm có khi đạo Phật gọi đó là trốn chạy, chứ không phải là
tu. Trốn chạy loạn động và não phiền của phố thị để lui vào sơn lâm
cùng cốc thì lấy phiền não và loạn động đâu nữa mà kinh nghiệm, mà thực
nghiệm tự thân, xem coi mình có diệt trừ được phiền não hay không? Đạo
Phật chủ trương tu trong phiền não. Đạo Phật còn chủ trương Bồ Đề trong
phiền não; hễ không có phiền não thì cũng chẳng có bồ đề.
Sống trong một xã hội tranh đua và chém giết mà ta vẫn tu. Tu về thân là
không nên sát sanh. Cho dù những sinh vật nhỏ, chúng cũng là những
người anh em nhỏ lạc loài của chúng ta. Lúc chưa tu, từng bước chân dẫm
lên bao nhiêu sinh vật, ta không hề để ý; đến lúc tu rồi, từng bước chân
dẫm lên mặt đất, cho dù có nhẹ nhàng thế mấy, chúng ta cũng đã vô tình
giết hại không biết là bao nhiêu sinh vật nhỏ bé dưới đôi bàn chân ta.
Thế nên, từng bước chân đi là từng bước nguyện cầu cho những người em
nhỏ lạc loài nầy sớm được về cõi Tây Phương Cực Lạc. Lúc tu rồi, ta thấy
ta đã ngày ngày vô tình giết hại chúng sanh quá nhiều, nên quyết không
cố tình làm hại thêm bất cứ một chúng sanh nào nữa.
Tu về thân
là không trộm đạo. Quyền sở hữu là một quyền thiêng liêng và quan trọng
vô cùng vì vật chất cung cấp những thứ cần thiết cho con người. Đức
Phật đã từng khuyên Phật tử tại gia nên nỗ lực sinh nhai bằng những
phương tiện lương thiện, chứ đừng bao giờ lừa lọc, đổi chín làm mười,
sang đoạt những gì không phải là của mình vì tất cả những hành động ấy
đều là trộm đạo. Tu về thân còn phải đoạn trừ dâm dục vì dâm dục không
những là cái nhân của sanh tử luân hồi mà còn là đầu dây mối nhợ của bao
oán thù. Chính Đức Phật đã từng dạy: "Với người xuất gia, muốn chứng
quả Vô Thượng Bồ Đề, phải đoạn trừ dâm dật; tuy nhiên, với người tại
gia, chưa thể dứt đoạn chánh dâm, nhưng phải tuyệt đối đoạn trừ tà dâm.
Tà dâm là lang chạ hoặc ngoại tình với những người không phải là chồng
vợ chánh thức của mình. Ngay cả vợ chồng chánh thức, cũng phải có tiết
độ."
Tu về khẩu là không nói dối. Người tu nghe sao nói vậy.
Việc phải nói phải, việc quấy nói quấy. Việc có nói có, việc không nói
không. Không vì tiền tài vật chất hay uy vũ mà ta bị khuất phục. Tu về
khẩu là không nói lời thêu dệt, nghĩa là không dùng lời lẽ trau chuốt,
đường mật để mua chuộc lòng người; hoặc để quyến rủ người làm điều sai
quấy. Tu về khẩu là không nói lưỡi hai chiều; không đến bên nầy nói xấu
bên kia; đến bên kia, nói xấu bên nầy. Tu về khẩu là không nói lời hung
ác. Trên đời nầy lời lẽ hung ác đã quá nhiều rồi, xin hãy dùng lời lẽ êm
ái mà nói với nhau.
Tu về khẩu rất ư là quan trọng; hãy ngẫm
nghĩ câu nói của cổ nhân thì ta sẽ thấy rõ cái quan trọng của khẩu:
"Bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất." Vã lại, lời nói không mất
tiền mua, xin hãy lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Nếu như tai họa đến
với chúng ta là do từ miệng thì tốt hơn hết là ta nên tịnh khẩu. Một lời
nói ra như mũi tên bắn đi; một khi đã ra rồi thì khó lòng mà thu hồi
lại được. Cũng như ly nước một khi đã đổ, khó lòng mà hốt lại được cho
đầy. Là Phật tử chân chánh nên lắng nghe lời chỉ dạy của Đức Từ phụ, hãy
nói năng trong chánh pháp, mà im lặng cũng trong chánh pháp. Xin hãy vô
cùng cẩn trọng để đừng mang thêm khẩu nghiệp. Ngoài ra, khi sự thật
được nói lên mà gây đau khổ và phiền não cho người khác thì người Phật
tử khoan hẳn nói, hoặc không nói. Hãy tìm cách mà nói cho đừng hại đến
chúng sanh khác. Tuy nhiên, khi làm như vậy,chúng ta phải làm với tâm
không dụng ý, không đánh lận con đen, hoặc không làm vì danh vì lợi.
Tu về tâm là tu về cái gì vô cùng phức tạp. Tâm không có hình tướng;
nói lớn thì nó lớn; nói nhỏ thì nó nhỏ. Nó có thể được ví như thái hư
hoặc giả như là hạt bụi vi tế. Nói tới tâm là nói tới một cái gì vô cùng
mông lung, khó diễn tả. Tâm chân như, tâm sanh diệt. Hai tâm nầy không
rời nhau và đều bao trùm tất cả các pháp. Không biết bao nhiêu là bút
mực đã được dùng để nói về tâm, thế mà vẫn chưa lột trần được tí gì về
nó. Ở đây chúng ta không cần phải dong dài về tâm mà chỉ cần biết rằng
tâm luôn a tòng với tham, sân, si, mạn nghi, ác kiến để xô đẩy chúng ta
lăn trôi không ngừng nghỉ trong vòng luân hồi sanh tử. Chỉ với bấy nhiêu
đó chúng ta phải mất đến ba a tăng kỳ kiếp mới có cơ tẩy sạch hết
tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Sự kết hợp của những chủng tử luân
hồi từ nho nhỏ, đến vừa vừa, rồi lớn lớn; chúng kết hợp với nhau quá
chặt chẻ khiến cho ta khó lòng chặt đứt chúng được.
Chúng ta
đang sống trong một xã hội mà tham, sân, si chiếm mất gần hết tâm của
ta. Tuy nhiên, nếu lắng lòng suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ thấy rằng
tham, sân, si đều là những vọng tưởng, chứ chúng nào có thực thể. Chính
những thứ giả danh nầy đã biến chúng ta thành hiện thân của phiền não;
biến thân tâm chúng ta thành sản phẩm của chúng. Nếu không khéo tu,
chúng ta sẽ chẳng những nhận giặc làm con, mà chúng ta sẽ luôn tiếp tay
và trưởng dưỡng chúng. Cái trục trặc của chúng ta là những cái đáng tu
ta lại không tu; ngược lại ta đi ôm đồm những thứ không đáng, hoặc không
cần. Thí dụ như chân mình còn lấm mê mê, thế mà cứ cầm đuốc đi vê chân
người. Lỗi mình chồng chất, mình chẳng thấy, chỉ thấy lỗi người. Lỗi
mình thì dễ tha thứ, còn lỗi người thì quyết bươi móc cho đến cùng. Xin
hãy tự soi rọi lại chính mình để thấy tại sao chúng ta lại tham, sân,
si... Hãy khép cửa lại mà tự hỏi chính ta coi giận, hờn, thương, ghét đã
mang lại cho ta những gì? Nếu chúng chỉ mang lại phiền não và đau khổ,
xin đừng vướng mắc chi chúng.
Người Phật tử luôn biết cải tạo
thân tâm và hoàn cảnh để cho mình và cho người được an lạc. Lúc nào cũng
đổi sát sanh thành phóng sanh; đổi căm thù, hung ác ra từ, bi, hỉ, xả.
Luôn nhẫn nhục trước mọi hoàn cảnh; nhẫn những cái đáng nhẫn và nhẫn
ngay cả những cái không đáng nhẫn. Làm được như vậy thì cả thân, khẩu
và ý đều thanh tịnh; con người sẽ trở nên thanh thoát, sẽ thoát ly khỏi
sanh tử luân hồi. Hãy dùng pháp của Phật để đối trị những tham, sân, si.
Đối trị bằng cách nào? Bằng cách sống và kinh nghiệm với chính tham,
sân và si ngay trong lòng ta, chứ không trốn chạy đi đâu cả.
Ai đối trị dùm ai?
Tự mình gây ra tham, sân, si thì cũng chính mình phải đối trị chúng,
chứ không ai có thể đối trị dùm ta cả, ngay cả Phật. Cái quan trọng chủ
yếu của người tu Phật là biết lúc nào mình có phiền não để mà đối trị.
Người Phật tử chân chánh luôn tự tin rằng phiền não chính là những cơ
hội cho chúng ta tu. Mà kỳ thật, nếu không có phiền não thì thế giới Ta
Bà nầy cũng không cần Bồ Đề Tâm, hoặc giả nó cũng không còn mang tên Ta
Bà nữa. Nói thì nói vậy, chứ phiền não vốn dĩ không có thật; nó chính
là sản phẩm của sự chấp trước và mê hoặc của chúng sanh. Như vậy khi ta
xa lìa chấp trước thì Bồ Đề tâm không cần tìm mà vẫn phát, vẫn hiện.
Do bởi mê lầm chấp trước mà đa số chúng ta đã nhận giặc làm con; nhận
tham, sân, si làm lính giữ nhà; thậm chí, nhận chúng làm mình. Nào là
tôi muốn; tôi giận; tôi buồn; tôi biết; tôi không biết... Xin hãy bình
tâm mà tu theo Đức Từ Phụ. Đức Từ Phụ đã ngồi liên tục bốn mươi chín
ngày đêm dưới cội Bồ Đề; cái chuyện mà Ngài chứng đắc này nọ, chúng ta
không bàn ở đây. Ngay trước mắt, Ngài đã chuyển tham, sân, si thành Bồ
Đề. Điểm chính yếu là Ngài đã hiên ngang dám mời tham, sân, si đi chỗ
khác chơi, thế nên Ngài giải thoát.
Muốn diệt tham, sân, si
không phải nhờ Phật, lại càng không nhờ ở quý thầy, mà là nhờ ở ngay nơi
mỗi người chúng ta. Chúng ta phải hành trì, phải sống với kinh từng
phút, từng giờ, chứ không phải là học kinh cho thuộc làu để đi đó đi đây
biện giải hí luận. Người tu Phật không cần những thứ thế trí biện thông
vặt vảnh. Nếu chỉ cần học kinh cho thuộc lòng để biện bác mà thành Phật
được thì những cái máy điện toán hoặc những cái máy thâu băng đã thành
Phật từ khuya rồi. Cái quan trọng trong việc tu Phật là phải huệ tu,
huệ văn và huệ tư, chứ không thuộc lòng như cưởng như kéc. Phải hành
trì, chứ không nói suông. Khi tu ta nên tu thật tình, chứ không tu lừng
khừng; hoặc tu đại khái, chừa mai tu tiếp... Nếu chưa thật tâm tu, xin
hãy khoan tu. Nếu còn ý nghĩ tu đại khái thì đừng nên tu vì không khéo,
thay vì làm vơi nghiệp, chúng ta lại cõng thêm ác nghiệp vào thân. Xin
hãy suy đi nghĩ lại cho kỹ, rồi sớm tu, chúng ta sẽ không còn bao nhiêu
thì giờ nữa đâu.
(Thiện Phúc)