Saturday, September 7, 2013

Câu chuyện về vị tái sinh của Ngài Kalu Rinpoche

Câu chuyện về vị tái sinh của Ngài Kalu Rinpoche


‘Bảy đại dương mà những con cá heo bơi lội
Có thể cạn kiệt những cơn sóng,
Nhưng hoạt động hướng dẫn chư trưởng tử của Phật
Sẽ không bao giờ biến mất.’
Như đoạn trích này từ các Kinh điển chỉ ra, bản chất của chư Bồ Tát chứng ngộ cao về tâm linh là không cảm thấy chán nản hay nhụt chí trong sứ mệnh dẫn dắt chúng sinh dưới sự che chở của các Ngài, những kẻ trong các cõi luân hồi bất tận và không thể đo lường. Các vị Bồ Tát này mong muốn nắm giữ, trưởng dưỡng và đẩy mạnh những giáo lý cao quý của Đức Phật, suối nguồn của hài lòng và hỷ lạc trên thế giới này. Khi mang trên mình áo giáp của khát nguyện này, các Ngài không bao giờ dao động trong mục tiêu. Đáp lại sự cần thiết của tha nhân, các Ngài hoá hiện những hiển bày tuyệt diệu trong dòng chảy vững chắc cho đến tận cùng của thời gian. Hành động vì Đạo Phật và để trưởng dưỡng toàn bộ thế giới của các Ngài sẽ đem đến những lợi lạc trường tồn.
Một tấm gương của điều này có thể được tìm thấy giữa chúng ta, trong sự xuất hiện của vị tái sinh của sự hiển bày tối thắng giác ngộ, bậc thầy vô úy của chúng ta, đạo sư tâm linh tràn khắp, hiện thân Phật Kim Cương Trì, Kyabje (Pháp chủ Quy y) Kalu Rinpoche. Sự trở lại của Ngài cho chúng ta, đặc biệt là những học trò của Ngài, và vô số chúng sinh trên thế giới này và toàn bộ giáo lý vô biên của Đức Phật, thấy được một sự phát triển công đức lớn lao của chúng ta. Bản miêu tả ngắn gọn sau đây sẽ miêu tả sự trở lại của Ngài.
Một vài năm trước khi hóa thân trước của Kalu Rinpoche thị tịch, bước vào cõi giới của sự an bình hoàn hảo, Ngài nói với một nhóm các đệ tử rằng, “Khi ta chết, nó sẽ không phải là cái chết của một con chó. Ta sẽ ra đi khi đã chuẩn bị từng chi tiết cuối cùng.”
Vào một dịp khác, một thí chủ với niềm tín tâm hướng về Rinpoche đã thỉnh cầu Ngài, “Thưa Rinpoche, mặc dù bây giờ Ngài đã già, xin hãy để gót sen của Ngài duy trì mãi trên thế giới này. Nhưng khi Ngài không thể ở lại lâu hơn, xin đừng để lòng từ bi của Ngài vơi cạn. Xin hãy trở lại trong sự hiển bày tối thắng của Giác ngộ để phụng sự Phật Pháp và nhân loại trong tương lai.”
Đáp lại, Rinpoche nói đùa rằng, “Nếu con cần vị tái sinh mới của Ta, hãy hỏi Gyaltsen.”
Sau đó, trong những năm cuối đời, Rinpoche chỉ ăn một lượng nhỏ thức ăn. Lama Gyaltsen khẩn cầu Ngài ăn thêm, nhưng Rinpoche đùa rằng, “Tại sao Ta cần phải vậy? Khi con đã già và Ta thúc giục con ăn nhiều hơn, thì con sẽ hiểu!” Hơn thế nữa, trong di chúc của Ngài, được biên soạn năm 1976, Rinpoche để lại tất cả những vật Ngài sở hữu – đặc biệt là trụ xứ chính yếu của Ngài ở Sonada, Ấn Độ và các tu viện và trung tâm thiền định Phật giáo khác của Ngài ở Ấn Độ và nhiều quốc gia khác – cho Lama Gyaltsen Ratak.
Nếu chúng ta xem xét những ví dụ này và nhiều ví dụ khác, rõ ràng thậm chí từ lúc đó, Rinpoche đã quyết định trở lại trong hình tướng tối thắng của sự hiển bày giác ngộ và rằng Ngài đã tiên đoán những chi tiết trong cuộc đời tương lai của Ngài, như là việc nhận ra cha mẹ Ngài. Như được đề cập rõ ràng ở trên, Ngài đã có những tiên đoán chắc chắn về các sự kiện này: làm sao chúng ta có thể không hiểu ý nghĩa chân thực trong những lời nói của Ngài? Tất cả chúng ta đã rơi vào sức mạnh tràn khắp của ý nghĩ thói quen sai lầm. Niềm tin, sự kính trọng và lòng biết ơn thanh tịnh với bậc đạo sư, vị thầy tâm linh của chúng ta chỉ hạn hẹp như hình ảnh của Ngài qua khe hở của miếng vải bịt mắt. Tri kiến lầm lạc của chúng ta về Ngài giống như một người đồng hành bình thường không khác biệt gì với chính chúng ta. Vì thế, làm sao chúng ta có thể hiểu?
Những phẩm tính giác ngộ của tâm bậc đạo sư này vô cùng thâm sâu và rộng lớn. Thật khó để người ta có thể đo được chiều rộng và sâu của chúng. Bây giờ, với lợi ích của sự nhận thức muộn màng, rõ ràng rằng trong bất cứ điều gì mà Ngài làm trong phạm vi tâm linh và thế tục của cuộc đời, Ngài đã hành xử với sự chân thành trọn vẹn của cá nhân. Những hành động của Ngài không vi phạm các quy tắc xã hội, mà hòa hợp hoàn hảo với những kiểu đời sống tâm linh. Sự chân thật hoàn hảo của Ngài khiến Ngài không bị ảnh hưởng quá mức bởi những thí chủ hay bởi những cá nhân quyền lực khác. Ngài luôn tuân theo những nguyên tắc của bản thân. Đặc biệt, Ngài làm chủ hoàn toàn tâm thức trong hai hình tướng của tâm giác ngộ cao quý và do đó dành trọn cuộc đời để hỗ trợ về vật chất cũng như tâm linh cho bất kỳ ai cần chúng. Sự hiến dâng của Ngài được củng cố bởi các thực hành tâm linh chính yếu của Ngài: tu tập về tâm giác ngộ và Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh nguyện, thứ bao gồm lời cầu nguyện Bảy nhánh. Mọi hiện tượng – hình ảnh, âm thanh hay ý nghĩ – đều là không thực với Ngài, giống như sự hư huyễn của một giấc mơ. Ngài nhận xét rằng với Ngài, mọi thứ đã trở thành một phần của kinh nghiệm đó. Trong mọi hoạt động mà Ngài tiến hành, bậc đạo sư này không bao giờ hành xử trên nền tảng của sự đề phòng đầy hy vọng hay sự lo lắng một cách sợ hãi, và không bao giờ lựa chọn dựa trên mong muốn của bản thân. Với chiều sâu của con người Ngài, Ngài hài lòng với bất cứ điều gì xảy đến.
Tóm lại, vị tái sinh này, bậc xuất hiện nhanh chóng sau khi thân vật lý của Ngài tan biến vào cõi giới tối thắng của chân lý, cho thấy sự chín muồi đúng lúc của quả ngọt trong cuộc đời Ngài, điều đã được dành trọn cho lời cầu nguyện và khát nguyện phụng sự Đạo Pháp và chúng sinh. Ngài tái sinh là hậu duệ của bộ tộc Ratak, tộc mà những thành viên bao gồm đấng chiến thắng oai hùng, Karmapa Dusum Kyenpa, và nhiều đạo sư thiền định vĩ đại khác. Cha của vị tái sinh mới này tên là Lama Gyaltsen, thị giả thân cận nhất và cũng là cháu trai của Ngài trong đời trước. Mẹ của Ngài tên là Kalzang Drolkar, từ Kurlo ở Vương Quốc Bhutan nằm ở phía Nam. Giữa những dấu hiệu tuyệt vời trong giấc mơ xuất hiện với cả hai cha mẹ trong khi mang thai, sự hiển bày tối thắng này của bậc giác ngộ đã chủ định trở lại thế giới này. Trong những lễ cúng dường thành tựu hàng tháng dâng lên Đức Mahakala Sáu Tay vào ngày 17 tháng Chín năm 1990 (ngày hai mươi chín tháng Tám Âm lịch năm Ngựa Sắt), bông hoa của hình tướng hoàn hảo của Ngài đã nở ở Darjeeling, Ấn Độ. Ngài sinh ra mà không gây đau đớn gì cho mẹ. Thậm chí lúc đó, một vài thí chủ chí thành của vị hóa thân đời trước đã cảm thấy vô cùng hoan hỷ, cả vật lý lẫn tinh thần, đơn giản khi nhìn thấy khuôn mặt của cậu bé. Tu viện của Ngài ở Sonada ngập tràn những đám mây cầu vồng và những dấu hiệu vô cùng tốt đẹp, tuyệt vời và phi thường xuất hiện. Từ thời điểm đó, mọi người gần xa đã truyền tin tức rằng, “Vị tái sinh tối thắng của bậc đạo sư tâm linh của chúng ta đã chào đời!”
Khi đứa bé lớn lên theo năm tháng, tính cách của cậu đã tự phát lộ, an bình, kỷ luật và hoàn toàn không sợ hãi. Niềm vui lớn nhất của cậu được tìm thấy khi chơi các nhạc cụ nghi lễ khác nhau, như là radung (tù và dài) và gyaling (tù và ngắn). Điều này cung cấp thêm một ví dụ về sự thật rằng Ngài đã hành xử một cách tự nhiên theo những cách siêu việt so với hành vi của những đứa trẻ thông thường. Những dấu hiệu chân chính của một con người tâm linh thực sự, bậc đã vun bồi con đường trước đó, thực sự rõ ràng với tất cả những ai gặp Ngài.
Trong giai đoạn này, Bậc Pháp chủ Quy y, Đấng Bảo hộ từ ái, Tai Situ Rinpoche, nhận thấy các dấu hiệu đầy thuyết phục rằng đứa bé này thực sự là hóa thân của Kyabje Kalu Rinpoche đời trước. Tuy nhiên, Tai Situpa kiên quyết rằng cần phải thỉnh cầu bậc lãnh tụ tối cao của giáo lý Phật Đà, Thánh Đức Dalai Lama xem xét ứng cử viên này qua linh kiến toàn tri của Ngài. Do đó, Bậc Quy y và Bảo hộ tối thắng đã khẳng định rằng trong trí tuệ thanh tịnh của Ngài, đứa bé này, khi đó chỉ một tuổi rưỡi, chắc chắn và không thể nhầm lẫn là vị tái sinh của Kalu Rinpoche. Vào một ngày tốt lành, quyết định của Thánh Đức đã đến trụ xứ của cố Kalu Rinpoche, tu viện Samdrup Darjay Choling ở Sonada, Darjeeling, Ấn Độ. Chúng tôi, tu viện trưởng, các đệ tử và chư tăng, đầu tiên tiến hành lễ tịnh hóa và tẩy tịnh cho vị tái sinh mới, sau đó dâng lên cậu y áo, Pháp danh và những vật đại diện cho thân, khẩu và ý của Phật. Kế đó, các vị tu sĩ và cư sĩ đến đỉnh lễ Ngài, được hướng dẫn bởi chư tăng trong tu viện này.
Năm 1992, vị tái sinh trẻ được thỉnh mời viếng thăm các trung tâm thiền định Phật giáo được thành lập bởi hóa thân đời trước của Ngài ở Pháp. Trong chuyến viếng thăm này, các đệ tử của Ngài và nhiều người khác, những người từng gặp Ngài [trong đời trước], đã vô cùng ngạc nhiên và xúc động trước sự hiện diện của Ngài.
Tháng Mười hai năm 1992, Ngài thực hiện chuyến hành hương đầu tiên đến địa điểm linh thiêng nhất, Trụ xứ Kim Cương (Bồ Đề Đạo Tràng ở phía Bắc miền Trung Ấn Độ). Mặc dù vẫn còn rất nhỏ, hàng ngày Ngài đã tham gia vào đoàn người trì tụng Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh nguyện. Khi đang ngồi ở vị trí cao nhất của đoàn người, Ngài chơi trống và chuông nghi lễ một cách thuần thục. Khi ở Bồ Đề Đạo Tràng, Ngài lễ lạy và cúng dường lên các đại diện về thân, khẩu và ý của Đức Phật và ban các món quà cho những người ăn xin ở đó khi không được dạy làm như vậy. Sự hài lòng tự nhiên của Ngài khi thực hiện những hành động này khiến mọi người sửng sốt và khơi dậy tín tâm của họ với Ngài.
Ngày 25 tháng Hai năm 1993 (tức ngày bốn tháng Giêng năm Quý Dậu), trụ xứ Samdrup Darjay Choling được ban phước bởi chuyến viếng thăm từ ái của Pháp chủ Quy y, Đấng Bảo hộ tối thắng, Thánh Đức Dalai Lama. Trong dịp này, Thánh đã từ bi cắt một lọn tóc trên đỉnh đầu của vị tái sinh tối thắng, đặt Pháp danh và ban phước cho cậu bé. Sau đó, các đạo sư tâm linh, chư đạo sư tái sinh, và thành viên của những cộng đồng tâm linh của những tu viện từ mọi truyền thống của Phật giáo Tây Tạng; những vị thầy tâm linh đại diện cho các trung tâm thiền định Phật giáo ở phương Tây và phương Đông; tu sĩ và cư sĩ Phật giáo, cùng mọi người đã tham gia vào các nghi lễ thâm sâu và trọn vẹn của sự thụ phong và đăng ngôi của vị tái sinh mới này.
Bản miêu tả này được viết bởi người đầy tớ đầy tín tâm của Kalu Rinpoche, kẻ được biết tới với tên gọi Bokar Tulku, người sống dưới bóng mát của lòng từ bi từ Đấng Bảo hộ này. Những lời này đi kèm với lời thỉnh cầu, cầu nguyện và mong ước rằng gót sen của ba sự hiển bày bí mật – thân, khẩu và ý – của vị tái sinh mới của đạo sư tâm linh tối thắng, chói ngời của chúng ta sẽ ngự trên Pháp tòa kim cương vô úy của Ngài trong vô số kiếp, và khi hoàn thành việc nghiên cứu, quán chiếu và thiền định, hoạt động giác ngộ của Ngài sẽ đạt đến những giới hạn tận cùng trong sự ganh đua với người tiền nhiệm của Ngài.
Bản văn này được chuyển dịch tại tu viện Samdrup Darjay Choling, Sonada, Ấn Độ, bởi Hội đồng Dịch thuật Quốc tế của Kalu Rinpoche.

trích: Đạo Phật xuất sắc, Kalu Rinpoche
bản dịch Việt ngữ của Pema Jyana.

No comments:

Post a Comment