Học Phật cần thực hành Tụng Kinh, Trì Chú, Niệm Phật
***********************
Người Phật tử, nếu chỉ thờ, lạy và cúng Phật, thì cũng chưa có thể gọi
là thuần thành. Người Phật tử thuần thành còn phải tụng kinh, trì chú và
niệm Phật. Vả lại nếu bỏ qua ba phần sau này, thì ba phần trước là thờ,
lạy và cúng khó có thể viên dung cả Sự và Lý được. Vì phần Lý là phần
cao siêu khó thực hành, mà nếu chúng ta
không tụng kinh, niệm Phật để cho tâm hồn được sáng suốt, tỏ ngộ các lý
lẽ sâu xa huyền diệu trong kinh đìển, thì chúng ta không làm thế nào để
đạt được 4 phép lạy thuộc về Lý là: Phát trí thanh tịnh lễ, biến nhập
pháp giới lễ, chánh quán lễ, thật tướng bình đẳng lễ và 5 món diệu hương
để cúng Phật là: Giới hương, Ðịnh hương, Huệ hương, Giải thoát hương,
Giải thoát tri kiến hương. Và nếu không thực hành được 4 phép lạy về Lý
và cúng dường được 5 món diệu hương, thì sự lạy và cúng chỉ là phần "Sự"
là phần hình thức, và vì thế, kẻ tín đồ khó có thể tiến được trên đường
Ðạo. Bỡi vậy, cùng một lần với thờ, lạy và cúng Phật, chúng ta phải
tụng kinh, trì chú và niệm Phật. Ðó là những điểm căn bản tối thiểu mà
một Phật tử thuần thành không thể bỏ qua được.
1) Tụng kinh:
Tụng là đọc thành tiếng một cách có âm diệu và thành kính. Tụng kinh là
đọc một cách thành kính những lời Ðức Phật đã dạy trong kinh điển, hợp
với chân lý và căn cơ của chúng sanh.
2) Trì chú: Trì là nắm
giữ một cách chắc chắn. Chú là lời bí mật của Chư Phật mà chỉ có Chư
Phật mới hiểu được, chứ các hàng Bồtát cũng không hiểu thấu. Các bài chú
đều có oai thần và công đức không thể nghĩ bàn, dứt trừ được nghiệp
chướng, tiêu tai giải nạn và tăng trưởng phước huệ, nên cũng gọi là thần
chú.
3) Niệm Phật: Niệm là tưởng nhớ. Niêm Phật là tưởng nhớ danh hiệu Phật, hình dung
Phật và đức hạnh của Phật, để luôn luôn cố gắng noi theo bước chân Ngài.
II.- Lý Do Phải Tụng Kinh - Trì Chú - Niệm Phật
1) Vì sao phải tụng kinh? Chúng ta sống trong cõi dục, cho nên lòng dục
vọng của chúng ta không bao giờ ngừng nghỉ, cho đến trong giấc ngủ,
cũng còn chiêm bao cãi lẩy, cười khóc, vui buồn như lúc thức. Trong cảnh
mê mờ đầy dục vọng ấy, may thay, Ðức Phật vì đã thương xót chúng sanh
mà truyền dạy những lời vàng ngọc, có thể phá tan màng mây u ám của vô
minh và tội lỗi. Nhưng những lời lẽ cao siêu ấy, chúng ta nghe qua một
lần , hai lần cũng không thể hiểu thấu và nhớ hết được. Cho nên chúng ta
cần phải đọc đi đọc lại mãi, để cho lý nghĩa thâm huyền được tỏa ra, và
ghi khắc trong thâm tâm chúng ta, không bao giờ quên được. Ðó là lý do
khiến chúng ta phải tụng kinh.
2) Vì sao phải trì chú? Chú có
công năng phi thường, nếu người thành tâm trì chú, thì được nhiều hiệu
lực không thể tưởng tượng. Chẳng hạn thần chú "Bạc nhứt thế nghiệp
chướng căn bổn đắc sinh Tịnh độ Ðà la ni" có hiệu lực tiêu trừ được hết
gốc
rễ nghiệp chướng, làm cho người được vãng sanh về Tịnh độ. Thần
chú "Tiêu tai kiết tường" có hiệu lực làm cho tiêu trừ các hoạn nạn,
tai chướng, được gặp những điều lành. Thầ chú "Lăng Nghiêm" thì phá trừ
được những ma chướng và nghiệp báo nặng nềv.v... Thần chú "Chuẩn Ðề" trừ
tà, diệt quỷ. Thần chú "Thất Phật diệt tội" có công năng tiêu trừ tội
chướng của chúng ta từ nhiều đời nhiều kiếp v.v... Vì thế nên chúng ta
phải trì chú.
3) Vì sao phải niệm Phật? Tâm chúng ta bị vô minh
làm mờ đục, chẳng khác gì nước bị bùn nhơ làm ngầu đục. Muốn cho nước
đục kia hóa ra trong, không có phương pháp nào hay hơn là gia một chút
phèn vào, thì các chất dơ bẩn ngầu đục kia dần
dần lắng xuống, bấy
giờ nước đục trở nên trong sạch. Phương pháp niệm Phật cũng vậy, có công
năng trừ phá các vọng niệm đen tối ở nơi tâm của chúng ta, làm cho tâm
mê muội, mờ ám trở nên sáng suốt, chẳng khác gì chất phèn làm cho nước
trở nên trong vậy.
Vì sao niệm Phật lại làm cho tâm mê muội trở nên trong sáng ? Vì lý do rất dễ hiểu sau đây:
Tâm chúng ta rất điên đảo, không bao giờ dừng nghỉ. Kinh thường nói:
"Tâm viên, ý mã", nghĩa là "tâm" lăng xăng như con vượn nhảy từ cành nầy
qua cành khác, và "ý" như con ngựa chạy lung tung luôn ngày suốt buổi.
Làm sao cho tâm ý chúng ta đừng nghĩ xằng bậy? Chỉ có một cách là bắt nó
nghĩ những điều tốt lành, hay đẹp. Niệm Phật chính là nhớ nghĩ đến
những Vị hoàn toàn tốt đẹp, những hành động trong sáng, những đức tánh
thuần lương. Càng niệm Phật nhiều chừng nào, thì ít niệm ma
chừng ấy. Ma ở đây là tất cả những gì xấu xa đen tối, làm hại mình hại người. Vì thế chúng ta nên luôn luôn niệm Phật.
III.- Phải Thường Tụng Những Bộ kinh Nào, Trì Chú Gì Và Niệm Danh Hiệu Phật Nào ?
1.- Các kinh thường tụng. Phàm là kinh Phật thì bộ nào tụng cũng được
cả, vì kinh nào cũng có công năng thù thắng là phá trừ mê mờ, khai mở
tâm trí sáng suốt cho chúng sanh, nếu chúng ta chí thành đọc tụng. Nhưng
vì căn cơ của chúng ta không đến, nên chúng ta phải lựa những bộ kinh
nào thích hợp với căn cơ và sở nguyện của chúng ta mà đọc tụng.
Thông thường, các Phật tử Việt Nam, từ xuất gia cho đến tại gia đều trì
tụng những kinh như: Di-Ðà, Hồng Danh, Vu-Lan, Phổ Môn, Dược Sư, Ðịa
Tạng, Kim Cang, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa v.v...
Nhiều người có quan niệm, chọn bộ kinh cho thích hợp với mỗi hoàn cảnh, mỗi trường hợp để tụng, như lúc:
- Cầu siêu thì tụng kinh Di-Ðà, Ðịa Tạng, Vu Lan v.v...; - Cầu an thì
tụng kinh Phổ Môn, Dược Sư v.v...; - Cầu tiêu tai giải bịnh thì tụng
kinh Kim-Cang, Lăng-Nghiêm v.v...; - Cầu sám hối thì tụng kinh
Hồng-Danh.
Cái quan niệm lựa chọn như thế cũng có phần hay là
làm cho tâm chuyên nhất sẽ được hiệu nghiệm hơn. Nhưng chúng ta không
nên quên rằng về mặt giáo lý cũng như về mặt công đức, bất luận một bộ
kinh nào, nếu chí tâm trì tụng, thì kết qủa cũng đều mỹ mãn như nhau cả.
2.- Các chú thường trì. Ở chùa, chư Tăng hằng ngày, trong thời khóa
trụng khuya, trì chú Lăng Nghiêm, Ð5i Bi, Thập chú hay Ngũ Bộ chú v.v...
còn ở nhà, phần nhiều cư sĩ trì chú Ðại Bi và Thập chú, bỡi hai lẽ: một
là thời giờ ít ỏi, vì còn phải lo sinh sống cho gia đình; hai là chú
Lăng Nghiêm đã dài, lại thêm chữ âm vận, trắc trở khó đọc, khó thuộc.
Nhưng nếu cư sĩ nào có thể học hết các thần chú, trì tụng được như chư
Tăng thì càng tốt.
3.- Các hiệu Phật thường niệm. Ðúc Phật nào
cũng đủ cả 10 hiệu, đồng một tâm toàn giác, từ bi vô lượng, phước trí vô
biên, thương chúng sanh vô cùng vô tận, nên chỉ niệm danh hiệu một Ðức
Phật nào cũng đều được cảm ứng đến tất cả Chư Phật, công đức cũng đều vô
lượng vô biên.
Nhưng đứng về phương diện trìng độ và hoàn cảnh
mà luận, thì hiện nay, chúng ta là người ở thế giới Ta Bà, nhằm quốc độ
của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa, lẽ cố nhiên chúnng ta phải niệm
danh hiệu của Ngài. Dụ như dân chúng ở trong nước nào, phải nhớ nghĩ đến
ơn nhà cầm quyền chính trị sáng suốt ở trong nước đó.
Nếu Tín
đồ nào tu theo pháp môn Tịnh Ðộ, thì thường ngày phải niệm danh hiệu Ðức
Phật A-Di-Ðà. Pháp môn này được thành lập do lời dạy sau đây của Ðức
Phật Thích Ca: "Ở cõi thế giới Ta Bà này, đến thời kỳ mạc pháp, cách
Phật lâu xa, chỉ
có pháp "Trì danh niệm Phật", cầu vãng sanh về Tây
phương cực lạc là quốc độ của Ðức Phật A-Di-Ðà, thì dễ tu dễ chứng hơn
hết". Ngoài ra, cũng có người niệm danh hiệu Ðức Phật Di-Lặc, để cầu
sanh về cõi trời Ðâu Xuất; hoặc niệm danh hiệu Ðức Phật Dược Sư, để cầu
cho khỏi tật bịnh.
Tóm lại, tín đồ phải niệm đủ Tam thế Phật:
a) Niệm Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, là niệm Ðức Phật hiện tại, cũng là Ðức Phật Giáo chủ của chúng ta.
b) Niệm Ðức Phật A-Di-Ðà, là niệm Ðức Phật đã thành từ quá khứ xa xưa, mà cũng là Ðức Phật tiếp dẫn chúng ta về Cực Lạc.
c) Niệm Ðức Phật Di-Lặc, là niệm Ðức Phật vị lai.
IV.- Lợi Ích Của Sự Tụng Kinh - Trì Chú - Niệm Phật
1.- Lợi ích của sự tụng kinh. Những lời giáo hóa trong ba tạng kinh
điển của Phật, đều toàn là những lời hiền lành, sáng suốt do lòng từ bi
và trí tuệ siêu phàm của Phật nói ra. Kinh Phật, vì thế, có phần siêu
việt hơn tất cả những lời lẽ của thế gian. Nếu chúng ta chí tâm trì
tụng, chắc chắn sẽ được nhiều lợi ích cho mình, cho gia đình và những
người chung quanh:
a) CHO MÌNH: Lúc tụng niệm, hành gỉa đem hết
tâm trí chí thành đặt vào văn kinh để khỏi sơ xuất, nên sáu căn: Mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý không còn móng lên mười điều ác nữa, mà chỉ ghi
nhớ những lời hay, lễ phải.
b)CHO GIA ÐÌNH: Trước khi sắp sửa
tụng kinh, những người trong nhà đều dứt các câu chuyện ngoài đời và
khách hàng xóm đến ngồi lê đôi mách cũng tự giải tán. Trong gia đình nhờ
thế được thanh tịnh, trang nghiêm, hòa thuận.
c)CHO NGƯỜI
CHUNG QUANH: Trong những lúc đêm thanh canh vắng, lời tụng kinh trầm
bỗng theo với tiềng mõ nhịp đều, tiếng chuông ngân nga, có thể đánh thức
người đời ra khỏi giấc mê, đưa lọt vào tai kẻ lạc lối những ý nghĩa
thâm huyền, những lời khuyên dạy bổ ích, chứa đựng trong kinh mà hành
giả đang tụng.
Như vậy rõ ràng tụng kinh chẳng những có lợi ích
cho mình, cho gia đình, mà còn cho những người chung quanh nữa. Ðó là
mới nói những điều ích lợi thông thường có thể thấy được, ngoài ra tụng
kinh còn có những điều lợi ích, linh nghiệm lạ thường,
không thể giải thích được, ai tụng sẽ tự chứng nghiệm mà thôi.
2.- Lợi ích của sự trì chú. Các thần chú tuy không thể giải nghĩa ra
được, nhưng người chí tâm thọ trì, sẽ được công hiệu thật là kỳ diệu,
khó có thể nghĩ bàn, như người uống nước ấm, lạnh thì tự biết lấy. có
thể nói: một câu thần chú, thâu gồm hết
một bộ kinh, vì vậy, hiệu
lực của các thần chú rất phi thường. Khi gặp tai nạn, nếu thực tâm trì
chú, thì mau được giải nguy. Như thuở xưa, Ngài A-Nan mắc nạn, Ðức Phật
liền nói thần chú Lăng Nghiêm, sai ngài Văn Thù Sư Lợi đến cứu, thì Ngài
A-Nan liền được thoát nguy.
Ngày nay có nhiều trường hợp mà
người thành tâm niệm chú thấy được hiệu nghiệm rõ ràng. Theo lời Bác sĩ
Thiện Thành nói lại, thì vào năm 1946, giữa lúc loạn ly, BS ở trong một
vùng rừng sâu, núi hiểm tại Trung việt. Một lần Bs bị một chứng bịnh
nan y, mặc dù lương dược Ðông, Tây sẵn có trong tay, cũng không làm sao
trị được. Bác sĩ tưởng sẽ bỏ mình trong xóm người Sơn cước, không ngờ
lúc còn ở dưới mái nhà cha mẹ, thường đêm nghe thân phụ trì chú "Công
Ðức Bảo Sơn", BS liền đem
thần chú ấy ra áp dụng. Trong lúc ấy, các
người nuôi bịnh cũng xúm lại hộ niệm cho BS suốt đêm. Sáng hôm sau, quả
thật BS lành mạnh trở lại một cách dễ dàng, làm cho tất cả các bạn đồng
nghiệp đều ngạc nhiên.
3.- Lợi ích của sự niệm Phật. Niệm Phật
công đức lại còn to lớn hơn nữa, vì một câu niệm Phật có thể gồm thâu
cả 3 tạng kinh điển, hết thảy thần chú, cùng là các pháp viên đốn, như
tham thiền, quán tưởng v.v...
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni có dạy
rằng: "Sau khi Phật nhập diệt , về thời kỳ mạt pháp, đến kiếp hoại, các
kinh sẽ bị tiêu diệt hết, chỉ còn kinh Di-Ðà lưu truyền lại độ trăm năm
rồi cũng diệt luôn. Lúc bấy giờ chỉ còn một câu niệm Phật gồm 6 chữ
"Nam mô A-Di-Ðà Phật", mà đủ năng lực đưa chúng sanh về cõi "Cực-Lạc".
Lời Phật nói không sai, bằng chứng là có nhiều nhân vật chuyên trì một
câu niệm Phật, mà biết được ngày giờ và thấy được điềm lành trước khi
vãng sanh. Như Tổ Huệ Viễn, trong 10 năm niệm Phật, 3 lần thấy Ðức Di-Ðà
rờ đầu; trong hội Liên xã, có 123 người chuyên tu phép "Trì danh niệm
Phật", đều lần lược được Phật rước về cõi Tịnh Ðộ. Gần đây ở Nam phần
VN, vào năm 1940, có 3 vị sĩ quan Pháp là Ðại úy Touffan, Trung úy
Retourna, Thiếu úy Brillant đồng lái một chiếc thuỷ ohi cơ bay từ đảo
Côn Lôn về Sài gòn. Giữa đường, chiếc phi cơ hư, , rơi xuống biển. Thiếu
úy Brillant (người Pháp lai Việt) niệm Phật cầu cứu. Chiếc thủy Phi cơ
lửng thửng trên mặt biển suốt 3 giờ , mới gặp một chiếc tàu đánh cá của
người Nhật đến cứu. Khi 3 vị vừa bước sang tàu, thì chiếc phi cơ chìm
ngay xuống biển. Ai nấy đều lấy làm lạ, hỏi nhau: Tai sao khi nãy có 3
người ngồi nặng, phi cơ lại nổi, mà bây giờ không có người nó lại chìm
ngấm? Chỉ có thiếu úy Brillant mới giải thích được sự lạ lùng ấy. Ông kể
lại cho mọi người nghe sự linh ứng của pháp niệm Phật mà ông thường áp
dụng, và lần nầy là lần thứ hai ông được thoát nạn nhờ phép niệm Phật
ấy. Ðại úy Touffan và trung úy Retourna hết lòng tin tưởng, nên khi về
đến Saigon, hai vị sĩ
quan ấy chung nhau một số tiền, cất một cái
am đẹp đẽ ở Cát lái, làng Thạnh Mỹ Lợi, tỉnh Gia Ðịnh để thờ Phật gọi là
tỏ lòng tri ân. Ðây chỉ là một câu chuyện trong muôn ngàn câu chuyện về
sự lợi ích của phép niệm Phật.
C.- Kết Luận
Khuyên
Phật Tử Tụng kinh Niệm Phật Và Trì Chú Cả Sự Lẫn Lý Cho D(ược Viên Dung .
Tụng kinh, trì chú, niệm Phật là 3 phương pháp tu hành gồm đủ cả Sự và
Lý. Dù tại gia hay xuất gia, dù tiểu thừa hay Ðại thừa, tiêu cực hay
tích cực, không ai
có thể rời 3 phương pháp nầy được. Bỡi thế, Phật
tử cần phải học tụng kinh, niệm Phật và trì chú choSự,Lý đi đôi, lời
nói và việc làm phù hợp, mới có được kết quả tốt đẹp.
Ba pháp
môn tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tuy không đồng mà kết qủa đều thù
thắng. Phật tử có thể tùy theo trình độ, hoàn cảnh của mình mà tu một,
hai hay cả ba pháp ấy. Thí dụ như người biết chữ và mạnh khoẻ, công ăn
việc làm hằng ngày không bận rộn lắm, thì nên tụng kinh, trì chú, niệm
Phật đủ cả ba pháp môn. Còn người tuổi gìa, sức yếu, mắt mờ, răng rụng,
miệng lưỡi phều phào, thân thể mỏi mệt, nếu tụng kinh , trì chú không
nổi, thì phải chuyên tâm niệm Phật, đi đứng nằm nồi,
túc nào cũng
phải niệm Phật. Nhưng các Phật tử nên nhớ, khi miệng tụng kinh, trì chú,
niệm Phật, tay gõ mõ, đánh chuông, lần chuỗi, thì tâm trí phải gột rửa
hết bao ý nghĩ bất chính, những ham muốn đê hèn, và đạc vào dấy hình ảnh
của Ðấng Từ Bi.
Rồi phải noi gương Ngài, mở lòng thương rộng lớn,
nghĩ đến nỗi thống khổ của muôn loài và phát nguyện đem sức mình ra, ban
vui cứu khổ cho tất cả. Ðến khi thôi tụng niệm, trở lại tiếp xúc việc
đời, thì phải làm thế nào cho những hành động của mình cũng được từ bi
như tư tưởng và lời nói của mình vậy.
Người tụng kinh trì chú và niệm Phật, làm đúng như thế, thì chắc chắn sẽ được chứng qủa Thánh không sai.
(HT. Thích Thiện Hoa)