Con đường Bồ Tát
và xã hội hiện đại
Nguyễn Thế Đăng
I. Ý nghĩa Bồ tát
Bồ tát, từ người mới bắt đầu (sơ phát
tâm) cho đến những vị dã nhiều đời sống theo hạnh Bồ tát (Đại Bồ
tát) đều có một hướng đi rõ rệt: nỗ lực sống giải thoát và giác
ngộ bằng chính cuộc đời mình và dùng cuộc đời đó để giúp đỡ
những người khác giải thoát và giác ngộ, và hơn nữa, chính trong
nỗ lực giúp đỡ những người khác giải thoát và giác ngộ mà vị ấy
giải thoát và giác ngộ. Như vậy, Bồ tát có hai công việc chính:
- Tự mình giải thoát và giác ngộ, đây
là công việc của trí tuệ soi thấy tánh không hay vô tự tánh của
tất cả các hiện tượng (các pháp), của tất cả không gian và thời
gian. Công việc này được gọi là tích tập trí tuệ.
- Phụng sự chúng sinh (để họ giải thoát
và giác ngộ), đây là công việc của lòng đại bi. Sở dĩ gọi là “đại”,
bởi vì đó không phải là công việc của một đời mà là công việc
của một số đời bằng số đời của tất cả chúng sinh, công việc của
một đời sống “không bỏ chúng sinh” và do đó mà “không sợ sinh tử
luân hồi”. Phụng sự, làm lợi lạc cho chúng sinh trải qua nhiều
đời, trong mọi mặt, công việc này được gọi là tích tập phước đức.
Và cũng vì điều này Bồ tát được gọi là “Anh hùng”.
Bởi vậy, Phật (lý tưởng đạt đến của Bồ
tát), bậc thành tựu tất cả mọi khả năng có thể có của một con
người, được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc đã thành tựu viên mãn hai
sự tích tập trí tuệ (tự giác) và sự tích tập phước đức phụng sự
chúng sinh (giác tha), nghĩa là bậc Trí và Bi trọn vẹn. Cũng do
sự tích tập phước đức mà một vị Phật có Sắc thân với đủ 32 tướng
tốt, và do sự tích tập trí tuệ vị ấy có Pháp thân, sự giải thoát
tự do rốt ráo, đồng nhất giữa tất cả những vị Phật.
Bồ tát là một đời sống hòa hợp được hai
cái mâu thuẫn: một mặt nỗ lực giải thoát khỏi sinh tử, mặt khác
không lìa bỏ sinh tử. Giải thoát sinh tử bằng tánh không (sự
thật vô ngã và vô pháp) đồng thời không bỏ sinh tử vì lòng đại
bi. Như thế, trên con đường Bồ tát cuối cùng hai cái tưởng chừng
như mâu thuẫn tánh không và đại bi trở thành một, bất khả phân
và Bồ tát hòa hợp được hai phương diện mâu thuẫn này là nhờ
phương tiện thiện xảo. Nhưng cũng chính từ phương tiện thiện xảo
này, với một trí tuệ sáu sắc và một lòng bi bao la, Bồ tát thấy
được ý nghĩa của sinh tử. Sinh tử không phải là cái gì đáng ghét
và ghê gớm như một đống rác hôi hám nên vứt ra ngoài càng sớm
càng tốt, mà rác cũng có cái ích lợi của nó; đây là mặt tích cực
của sinh tử trên con đường thành Phật. Cũng do đó mà Bồ tát có
sự nhớ ơn đối với sinh tử, với chúng sinh, và trong hạnh Bồ tát
có bao hàm phần nào sự nhớ ơn đó:
“Nếu thấy cái Vô vi (vô sinh, tánh
không, Niết bàn) mà nhập chánh vị thì không còn có thể phát tâm
vô thượng Bồ đề được nữa. Tuy nhiên, người sống giữa những cái
hữu vi, trong những nẻo phiền não, dù chưa thấy chân lý rốt ráo,
cũng có thể thật sự phát tâm Bồ đề.
Ví như chỗ đất cao không thể sinh hoa
sen. Nơi bùn lầy ẩm thấp mới sinh hoa ấy. Như vậy thấy pháp vô
vi rồi nhập chánh vị rốt cuộc chẳng còn sinh được những phẩm
tính Phật. Trong bùn lầy phiền não mới có chúng sinh khởi sinh
những phẩm tính Phật. Lại như gieo hạt giống giữa không trung,
rốt cuộc chẳng sinh được, ở đất phân bùn mới tốt tươi... Thế nên
phải biết: Hết thảy phiền não là hạt giống Như Lai. Ví như không
lặn xuống biển cả thì không thể được ngọc quý vô giá, cũng vậy
không vào biển cả phiền não thì không thể được Nhất Thiết Trí vô
giá (Kinh Duy Ma Cật – phẩm Phật đạo).
Ở mức độ bình thường của con người, có
thể nói rằng Bồ tát là người bên trong thì hiểu và thâm nhập
tánh không, an trụ trong tánh không, bên ngoài thì hoạt động
trong thế giới hiện tượng. Bồ tát là người sống trong thế giới
sai biệt, nhưng trong tâm thì tương ưng với tánh không, do đó mà
không phân biệt, không động, như kinh Duy Ma Cật diễn tả:
Hay khéo phân biệt tướng các pháp (Mà)
nơi đệ nhất nghĩa (tánh không, pháp tánh) thường không động.
Chúng ta thấy trong lịch sử Phật giáo
Việt Nam có những gương mặt tiêu biểu rõ nét cho sự nhập thế
tích cực đồng thời tâm thức rất giải tháot như Thái sư Khuông
Việt, các Thiền sư Vạn Hạnh, Trần Nhân Tông, Thiền sư Hương
Hải... chúng ta cũng thấy cuốn kinh được dịch đầu tiên ở nước ta
là Lục Độ Tập Kinh (theo sự khảo cứu của học giả Lê Mạnh
Thát), một kinh điển nói về hạnh Bồ tát (Lục độ). Có lẽ vì thế
mà động lực của dòng chảy Phật giáo Việt Nam là con đường Bồ tát
chăng? Và một vị chỉ mới cách đây 40 năm mà chúng ta tôn vinh là
Bồ tát Quảng Đức, khi ngài tự thiêu để bảo vệ Phật pháp, hình
ảnh ngài ngồi trong lửa mà nét mặt vẫn bình thản, nếu không nói
là vui tươi, đã dạy cho chúng ta ít nhiều về Bồ tát: ngồi trong
biển lửa sinh tử mà vẫn an trụ trong lòng pháp tánh (hay tánh
không) nên vẫn điềm nhiên bất động. Hình ảnh của ngài đúng như
hai câu thơ của Thiền sư Ngộ Ấn ở thế kỷ XI
Trên non ngọc cháy màu thường thắm
Lò lửa hoa sen nở vẫn tươi.
(Xem thêm Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử
luận)
II. Tính cách của Bồ tát
Dĩ nhiên chúng ta không thể nào nói hết
những phẩm tính của Bồ tát, bởi vì trong quá trình tiến hóa qua
nhiều kiếp sống, những đức tính nào con người có thể có, đều
được khai triển mức hoàn hảo nơi một Bồ tát. Ở đây chúng ta chỉ
nêu lên vài tính cách của Bồ tát phù hợp với ngữ cảnh của bài
này:
1. Lạc quan không bờ bến. Con
đường Bồ tát có thể gian khổ, nhưng con đường đó đặt trên một
nền tảng: tôi và tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều sẽ đạt
dến mức toàn thiện và toàn diện nhất, tức là thành Phật. Do đó,
mọi tương quan tôi có với người này người nọ, dù tốt dù xấu, dù
thuận dù nghịch, đều là tương quan của những vị Phật sẽ thành,
tương quan tác thành cho nhau giúp nhau thành Phật. Mỗi người là
một hoa sen, bởi thế tương quan giữa những con người là tương
quan của những vị Phật sẽ thành. Như thế toàn bộ đời sống là một
sự “sẽ thành Phật” bao la, rộng khắp, tất cả đều được chuyển hóa
trong sự việc “đều sẽ thành Phật” này. Và đây là một nguồn lạc
quan không bờ bến của một người theo hạnh Bồ tát.
2. Giúp đỡ và chia xẻ. Bồ tát là
người muốn giúp đỡ và chia xẻ với người khác. Thậm chí giải
thoát là cái vô hình vô tướng, hầu như không chia xẻ được, vậy
mà Bồ tát cũng muốn chia xẻ với mọi người. Bồ tát đạt giải thoát
là để chia xẻ với mọi người. Và như vậy giác ngộ trở thành cái
gì chung như kinh điển thường nói: “Như thế đến hai muôn Đức
Phật đều đồng một tên hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, lại cùng đồng
một họ Phả La Đọa” (kinh Pháp Hoa). Bồ tát không những
muốn chia xẻ giải thoát với chúng sinh, mà còn chia xẻ cùng với
chúng sinh sự khổ đau, những vấn nạn, cả cuộc sinh tử của chúng
sinh. Sự giúp đỡ và chia xẻ này sâu rộng đến mức tột độ thì như
Bồ tát Quán Thế Âm: “Trên hợp với Bản Giác Diệu Tâm của mười
phương chư Phật, dưới hợp với tất cả chúng sinh trong sáu nẻo,
cùng với các chúng sinh đồng một Bi ngưỡng” (Kinh Lăng Nghiêm).
3. Bồ đề tâm. Hiểu đơn giản, Bồ
đề tâm là ý nguyện giải thoát và giác ngộ, đồng thời giúp cho
người khác giải thoát và giác ngộ. Nói tóm, đó là phụng sự chúng
sinh bằng Phật pháp. Đó là cốt lõi mà mọi hành động, mọi ý nghĩ,
mọi biến cố trong cuộc đời một Bồ tát quay quanh. Thiết lập cuộc
đời trên Bồ đề tâm, lý tưởng của mình, đời một con người thôi
lao đao nghiêng ngã, thôi dật dờ phiêu bạt, và trong một mức độ
nào, nó đã liên kết được cuộc đời nó với tất cả những cuộc đời
của những bậc đã đi trước mình, đã vững vàng và làm được những
Phật sự rộng lớn bao la, nói cách khác, theo kinh Hoa Nghiêm,
nó đã đặt cuộc đời bèo bọt của nó vào trong “biển đại nguyện”
thường trụ của chư đại Bồ tát và chư Phật.
4. Chuyển hóa những khó khăn, trở
ngại, thất bại, khổ đau thành chính con đường giải thoát. Bồ
tát làm được điều này nhờ phương tiện thiện xảo.
III. Con đường Bồ tát và xã hội hiện
đại.
Thật ra đạo Bồ tát hay hạnh Bồ tát
không phải là cái gì xa lạ quá với con người bình thường – giúp
đỡ và chia xẻ thì có gì là lạ lùng với cuộc sống bình thường? Từ
khi sống trong nhóm bộ lạc cho đến những hình thái xã hội ngày
nay, con người luôn luôn thấy trách nhiệm của mình với người
khác, luôn luôn gắn liền sự tiến hóa của bản thân mình với sự
tiến hóa của cộng đồng. Trong những kinh điển nói về hạnh nguyện
Bồ tát, từ ngữ “quyến thuộc của Bồ tát” thường được nhắc đến
nhiều. Ngay cả một thực tại cao siêu như đại bi, thì đó cũng là
sự khai triển đến mức cùng tột của cái mà chúng ta thường nói
hàng ngày là “tình người”. Như vậy, những gì đạo Phật chỉ dạy
không phải là một lý thuyết xa lạ được gán ghép một cách giả tạo
vào số phận con người, mà trái lại, nó là một số phận tất yếu,
con đường tiến hóa tất yếu mà con người phải trải qua, như những
đại Bồ tát và những vị Phật là những người tiến hóa, đi trước
chúng ta.
Tích tập phước đức đơn giản là làm lợi
ích cho một ai đó. Như vậy tích tập phước đức chỉ có trong tương
quan. Và trong xã hội ngày nay nhờ giao thông, thông tin...
những tương quan giữa người trở nên phong phú, đa dạng, mở rộng
trên toàn thế giới. Ngay trong việc kiếm sống hàng ngày, trồng
lúa gạo, cây trái, hay sản xuất trong nhà máy, phẩm vật đó sẽ đi
đến một tỉnh nào hay nước nào trên thế giới. Vậy thì trong việc
làm hàng ngày này, bằng sự nghĩ đến lợi ích cho người khác, thêm
vào một chút tình thương và lòng bi, thêm vào sự không chấp thủ
ta và cái của ta (tích tập trí tuệ: không trụ vào sắc thanh
hương vị xúc pháp mà bố thí), chúng ta đã làm một công việc Bồ
tát, đó là sự tích tập phước đức và trí tuệ. Và trong đó có niềm
vui của phụng sự, niềm vui của tình thương, niềm vui của sự
không chấp thủ, niềm vui của con đường Bồ tát.
Trong kinh điển, chúng ta thấy có Bồ
tát làm cầu đường, làm nghề dược, nghề y... như kinh Hoa
Nghiêm, phẩm “Thập Địa” nói: “Đại Bồ tát này vì lợi ích
chúng sinh nên học tập đủ tất cả kỹ nghệ thế gian, thông đạt văn
tự, toán số, ấn loát. Lại giỏi những thứ văn bút, tán vịnh, ca
vũ, kỷ nhạc, diểu cười, đàm luận. Biết rành cách thức kiến trúc,
hầm mỏ... tất cả các việc thế gian khác”. Như thế, tất cả mọi
người, trong tất cả lĩnh vực đều đã sẵn sàng ở trên mặt bằng của
sự tích tập phước đức, chỉ cần thêm vào đó một phần “tinh thần
Bồ tát” là công việc ấy trở thành một phần của đạo Bồ tát. Với
trí tuệ và lòng bi, công việc hàng ngày trở thành phương tiện
thiện xảo để thực hàh đạo Bồ tát. Và với trí tuệ và lòng bi,
nghề nghiệp và tài năng của một người trở thành phương tiện để
phụng sự, và như vậy được phát triển, nâng cấp trong sự mở rộng
thay vì dính mắc vào đó (dính mắc nào cũng gây ra khổ đau), và
vì không dính mắc, không chấp chặt, mà chính nghề nghiệp ấy có
không gian hoạt động rộng hơn, cái nhìn sáng tạo hơn. Từ đó
chúng ta thấy rằng nghề nghiệp, tài năng, công việc, đức tính
trở thành “hạnh” như những Bồ tát và những vị Phật đã thành tựu
qua hạnh của các ngài, như danh hiệu của ngài đã diễn tả: “Lắng
nghe âm thanh cuộc đời” (Bồ tát Quan Thế Âm), “Thiện ý” (Phật
Thiện Ý – trong Nghi thức sám hối), những Bồ tát Địa Tạng, Phổ
Nhãn, Vô Tận Tạng... những vị Phật Dược Sư, Phật Từ Tạng, Phật
Vô Lượng Quang...
Theo những kinh điển Đại thừa, thế giới
là tánh không, và do đó thế giới là sự tương tác lẫn nhau một
cách vô ngại của tất cả mọi hiện tượng. Như vậy, thân khẩu ý của
một người có tham dự – dù cố ý hay vô tình, biết – hay không
biết – với thế giới. Chính từ cái nhìn như vậy mà chúng ta thấy
rằng mỗi người, với thân khẩu ý của mình, đều chịu trách nhiệm
với tất cả thế giới, với tất cả những gì xảy ra trong thế giới.
Mỗi chúng ta đều có trách nhiệm với toàn bộ thế giới, chúng ta
bắt đầu sống trong con đường Bồ tát.
Nhìn vào xã hội ngày nay, chúng ta thấy
có sự đan xen nhiều lĩnh vực vào trong một lĩnh vực. Một biến cố
nào ở một phần nào của thế giới đều ảnh hưởng lên tất cả thế
giới. Mỗi người trở nên “quốc tế” hơn, tham gia vào mọi mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nghĩa là toàn bộ đời sống
của thế giới. Dĩ nhiên đó chỉ là cái nhìn trên bề mặt hiện tượng.
Nhưng tính cách đan xen tương tác này cũng khiến chúng ta nghĩ
đến tính cách trùng trùng duyên khởi vô tận của pháp giới của
các đại Bồ tát; đó cũng là môi trường sinh hoạt của các ngài. Ít
ra dù chỉ trên mặt hiện tượng, chúng ta cũng phần nào cảm nhận
ra tính cách đan xen, tương tác lẫn nhau, tính cách “xã hội hóa”,
“toàn cầu hóa”, nghĩa là tính cách mở rộng mọi mặt của cuộc sống
bình thường của chúng ta. Và trước sự mở rộng ra của thế giới,
chúng ta cảm thấy tâm thức chúng ta cũng cần mở rộng ra, để ôm
lấy thế giới, trong chiều rộng cũng như chiều sâu, bằng ánh sáng
của trí tuệ và sự sống động ẩn mật của lòng bi. Và phải chăng ôm
trọn toàn bộ đời sống bằng trí tuệ và lòng bi như vậy chính là
sự an vui, ý nghĩa của con đường Bồ tát?
Tất cả đời sống con người đang được đa
dạng hóa, toàn cầu hóa. Chúng ta cũng thấy toàn cầu hóa không
phải là một nền kinh tế áp đặt luật lệ của mình lên những nền
kinh tế khác và không chỉ riêng về mặt kinh tế. Xã hội hóa, toàn
cầu hóa là sự tương thông lẫn nhau, chia xẻ với nhau những mặt
vật chất và tinh thần, chia xẻ với nhau sự sống vốn hàm chứa
nhiều ý nghĩa bí mật. Đó là một quá trình mở rộng phạm vi tâm
thức, mở rộng giới hạn cuộc sống của mỗi chúng ta. Trong một thế
giới đan xen lẫn nhau, tương tác hỗ tương lẫn nhau như vậy, nếu
chúng ta biết mở rộng tâm thức để nhìn, để thấy, để sống thì có
lẽ cuộc sống hiện đại là một môi trường – đầy nguy hiểm đồng
thời cũng đầy cơ hội – để chúng ta khám phá ra một thế giới rộng
lớn hơn (pháp giới) và những gì là lớn, là đại: đại trí, đại bi,
đại hạnh... Sự khám phá bằng cách mở rộng tâm thức, làm cho tâm
thức thêm tinh tế này sẽ đưa chúng ta bước vào một đời sống sâu
rộng hơn, bao trùm hơn, mầu nhiệm hơn, đó chính là ý nghĩa cuộc
đời Bồ tát.
Như vậy, đạo Phật giúp chúng ta nâng
cấp những tương quan, nhìn thấy ý nghĩa, nội dung chân thật của
những tương quan để càng lúc càng đi sâu vào thế giới trùng
trùng những tương quan vô tận mà đạo Phật gọi là pháp giới, môi
trường sinh hoạt bình thường của những Bồ tát. Đó là đời sống
của kinh Hoa Nghiêm: một thế giới trong đó cái Một tương
quan với Tất cả và Tất cả tương quan với Một, pháp giới duyên
khởi trùng trùng vô tận, pháp giới của sự tương quan vô ngại của
Một với Tất cả, Tất cả với Một, và Tất cả với Tất cả.
Tóm lại, qua vài phân tích sơ bộ và hẳn
có nhiều thiếu sót, chúng ta có thể thấy rằng con đường Bồ tát,
con đường dẫn tới sự thành tựu trọn vẹn mọi mặt của con người
(con đường thành tựu giác ngộ), không phải là cái gì xa lạ và
giả tạo do từ bên ngoài bản thân chúng ta, mà là một cái gì rất
gần gũi, rất thân thiết, khia triển từ chính chiều sâu của mỗi
chúng ta, nằm trong chính cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
No comments:
Post a Comment