Năm bổn phận của cha mẹ
Bernard Glassman & Rich Fields
Đào sâu
thêm về sự liên hệ giữa cha mẹ và con cái, Đức Phật đã cho rằng cha mẹ có năm
nghĩa vụ[1]. Hoàn thành được các nhiệm vụ này không chỉ giúp cha mẹ thiết lập
được mối liên hệ bền vững với con cái, mà còn khiến cho họ cảm thấy rất tự hào
về bản thân.
1. Giúp
con cái kiềm chế, tránh xa những hành động bất thiện.
Cha mẹ là ‘những vị thầy đầu
đời’ của con cái. Đức Phật dùng thuật ngữ papa nivarenti để nói đến bổn phận
của cha mẹ là phải can ngăn con cái khỏi những hành động bất thiện. Papa có
nghĩa là bất cứ hành động bất thiện nào được thể hiện qua lời nói, hành động và
ý nghĩ. Nivarenti muốn nói đến nỗ lực để tránh xa hành động bất thiện này.
Giúp con cái tránh xa những hành động xấu ác là một phần trong việc giáo dục con
cái của cha mẹ.
Cha mẹ có những biện pháp nào
để ngăn cản những hoàn cảnh có thể lôi kéo con cái họ vào những hành động bất
thiện? Đức Phật không tin rằng một phương pháp mạnh, như trừng phạt, đánh đập
sẽ giúp cho các bậc cha mẹ đạt được mục đích này. Đức Phật đã từng nói, “Tất cả
mọi người đều bị sự trừng phạt đe dọa, ám ảnh”, và Ngài bác bỏ bất cứ hình thức
trừng phạt nào[2] . Không thể tìm thấy trong bộ tạng kinh Pitaka, bất cứ điều
gì để chứng tỏ rằng sự trừng phạt là một phương cách hữu hiệu để rèn luyện nhân
cách cho trẻ. Trái với sự suy nghĩ rằng “không đánh thì con hư”, Đức Phật từ bi
đã đề nghị những phương cách tốt hơn để giúp rèn luyện nhân cách cho trẻ –những
phương cách này sẽ được nói đến sau đây.
Đức Phật không bao giờ khuyến
khích việc sử dụng những lời chửi mắng như là một phương cách hữu hiệu để giúp
con trẻ loại bỏ những hành vi bất thiện. Đức Phật dạy rằng một phản ứng giận dữ
chắc chắn đưa tới kết quả của việc sử dụng những lời nói nặng nề, xúc phạm.[3]
Trong một đoạn kinh, Đức Phật đã nói những lời cộc cằn, thô lỗ, chỉ có thể đưa
đến sự bực tức, khổ đau cho người nói. Dựa trên quan điểm này, ta thấy rằng
việc chửi mắng, thóa mạ cũng giống như việc trừng phạt con cái bằng cách đánh
đập, sẽ không giúp ích gì cho cha mẹ trong việc khuyên bảo con cái họ tránh xa
những hành động bất thiện.
Khuyên nhủ là một phương cách
hữu hiệu để giúp con cái không đi theo những cách sống tai hại. Nhưng trước hết,
chính cha mẹ phải là những người gương mẫu: “Trước khi giáo huấn ai, phải tự xét
lại mình. Có thể người nói mới không phạm sai lầm”.[4] Muốn cho con cái nghe
lời mình, trước hết cha mẹ phải thực hành những lời dạy của chính mình. Khi
chính cha mẹ cũng kiềm chế không làm những hành động xấu ác, thì họ sẽ dễ dàng
thuyết phục con cái mình tránh xa khỏi những điều tương tự.
Giúp trẻ tránh xa những người
bạn không có đạo đức hay xấu ác, theo Đức Phật, là một phương cách khác để giúp
con cái tránh thói quen có những hành động bất thiện.
Những lời khuyên của Đức Phật
đối với Sigala -một đứa trẻ vừa mất cha, và đang ở trong một trạng thái tâm bối
rối, phải đối mặt với bao trở ngại ở phía trước -cho ta thấy rằng Ngài sẽ khuyên
các bậc cha mẹ phải dẫn dắt con cái họ như thế .[5] Đức Phật khuyên Sigala,
quan trọng nhất là không nên giao lưu thân thiết với những kẻ không có đạo đức,
vì những mối liên hệ đó sẽ làm hỏng tương lai của người trai trẻ. Khuyên con
tránh xa người xấu ác, sẽ giúp con không coi thường những hành vi xấu ác.
Tóm lại, theo Đức Phật, có
những phương cách để giúp con cái không trở thành xấu ác, vô đạo đức, là một bổn
phận tiên quyết của các bậc làm cha mẹ. Thay vì giao bổn phận đó cho các thầy
cô giáo, hay các nhà tôn giáo, chính cha mẹ cũng phải cho con cái thấy sự quan
tâm của họ và có bổn phận giúp con cái họ không học theo những thói quen xấu của
cá nhân hay xã hội.
2. Dạy Con Hành Động Thiện.
Bên cạnh việc có những phương
pháp giúp con cái tránh xa các hành động bất thiện, bổn phận của cha mẹ còn bao
gồm cả việc dẫn dắt con cái hướng đến những hành động thiện. Đức Phật đã dùng
thuật ngữ Pali, kalyane nivesenti, để nói về điều đó. Kalyane có nghĩa là
“những hành động tốt đẹp, dễ thương và đạo đức”. Nivesenti có nghĩa là “thiết
lập”, hay “là nguyên nhân của”.
Hành vi thiện ý chỉ những lời
nói, hành động và ý nghĩ xuất phát từ lòng từ bi, bác ái và trí tuệ. Do đó các
yếu tố của hành vi đạo đức là sự thực hành bố thí (dana), gìn giữ giới luật
(sila), và phát triển tâm trí (bhavana). Đức Phật khuyến khích cha mẹ ươm trồng
những tư tưởng và hành động này cho con cái họ. Với sự tận tâm dạy bảo của cha
mẹ, con cái sẽ có thể có được những đức tính này.
Hơn nữa, cha mẹ phải tuân giữ
chánh mạng, nghĩa là kiếm sống một cách chánh đáng để cho con cái họ có thể chọn
lựa một con đường tương tự. Kế tiếp, họ phải quan tâm đến ai là những người bạn
thân thiết của con họ. Đức Phật luôn nhấn mạnh rằng việc giao tiếp với thiện
tri thức (pandita), sẽ bổ sung thêm cho cá tính của ta; do đó cha mẹ cần phải
thuyết phục con cái họ kết bạn với những người bạn như thế. Lần nữa, Đức Phật
nhấn mạnh đến việc dùng ái ngữ, như là một phương cách hữu hiệu để những người
có trách nhiệm gieo trồng các hành vi thiện cho người khác. Các bậc cha mẹ muốn
giáo huấn, hướng dẫn con đến cái thiện, cũng phải làm như thế.
Tuy nhiên, Đức Phật cũng thấy
rằng không phải lúc nào chúng ta cũng có thể đem lại hạnh phúc tức thì cho người
mà ta đang cố gắng dìu dắt họ hướng đến các hành động thiện. Nhất là các bậc
cha mẹ, họ sẽ cảm thấy khó làm vừa lòng con cái với những lời khuyên nhủ, dạy dỗ
chân chánh. Con cái thì thích làm bất cứ điều gì đem lại cho chúng những sự
thõa mản tức thì hơn là những ích lợi dài lâu. Chúng có thể cảm thấy rất bực
bội khi nghe những lời cha mẹ khuyên dạy, không giống với những điều chúng muốn
làm.
Vào những trường hợp như thế,
Đức Phật khuyên cha mẹ phải cứng rắn bảo vệ những giá trị của lời mình dạy, chứ
không nên chìu con. Khi cha mẹ biết rằng mình đang sử dụng những phương cách
chánh đáng vì sự phát triển nhân cách của con cái, họ phải cương quyết đi đến
cùng chứ không thể chùn bước.
Thái tử Abhaya, người đang
bồng con trong tay, hỏi Đức Phật rằng ông có nên dùng những lời lẽ cứng rắn để
rèn luyện cách cư xử của ai đó không.[6] Để trả lời, Đức Phật nói rằng Ngài sẽ
chỉ dùng những lời dịu dàng, vào thời điểm thích hợp. Tuy nhiên Đức Phật cũng
nói rằng khi Ngài biết một phương pháp gì đó là đúng, thì Ngài chẳng bao giờ do
dự khi phải thực hiện nó.
Đức Phật tiếp, “Giả dụ nếu có
vật gì đó dính mắc trong cổ đứa bé, thì người sẽ làm gì?” Thái tử Abhaya trả
lời rằng, ông sẽ lấy nó ra. “Như thế sẽ làm cho đứa bé chảy máu và đau đớn thì
sao?”, Đức Phật hỏi. Thái tử Abhaya thưa rằng ông sẽ không quan tâm, vì điều
cần giải quyết ngay trước mắt là phải cứu sống đứa trẻ. Theo Đức Phật, có những
biện pháp, hành động mà các bậc cha mẹ phải chọn lựa, nếu muốn dẫn dắt con cái
họ đi theo con đường chân chánh, mặc dầu những hành động đó trước mắt có thể
không làm con cái họ vui lòng. Theo giả dụ trên, ta thấy rằng, trong nỗ lực
hướng dẫn con cái đền những hành động thiện, cha mẹ có thể phải sử dụng những
lời nói nghiêm khắc, chứ không phải thô lỗ, cộc cằn, và phải có những biện pháp
cứng rắn, mặc dầu con cái họ không vui lòng nghe theo.
Chính cuộc đời của Đức Phật đã
cho chúng ta một trong những thí dụ hoàn hảo nhất về việc người cha phải làm thế
nào để vung trồng tánh thiện trong tâm hồn một đứa trẻ. Rahula, con trai Đức
Phật, mới chỉ bảy tuổi khi Đức Phật hứa với con rằng sẽ cho con một “món quà tốt
đẹp nhất của một người cha”. Đức Phật đã cho phép Rahula được gia nhập tăng
đoàn, và đã hết lòng dạy dỗ để giúp Rahula phát triển nhân cách toàn vẹn. Trong
kinh tạng (Pitaka) có nhiều đoạn cho ta thấy Đức Phật rất quan tâm đến việc
Rahula có được những đức tính thiện và sự phát triển nhân cách không.
Thay vì ra lệnh, Đức Phật
thường khêu gợi trí phán đoán của con. “Rahula, mục đích của cái gương là để
làm gì?”, Đức Phật đã có lần hỏi đứa con trai nhỏ của mình như thế. “Dạ, để
nhìn thấy sự phản chiếu của mình”, Rahula trả lời. “Cũng thế Rahula, tâm của ta
là để phản chiếu hành động của chúng ta”, Đức Phật tiếp lời. “Con cần phải đánh
giá hành động của mình dựa trên những hậu quả của chúng. Bất cứ điều gì mang
đến hậu quả xấu cho bản thân và cho người khác, thì con nên tránh làm những điều
đó. Nếu chúng đem đến những kết quả tốt, thì con có thể thực hiện chúng”[7] .
Đây là một thí dụ về những phương cách hữu hiệu mà bậc cha mẹ có thể áp dụng để
vung trồng phẩm hạnh trong tâm đứa trẻ. Sự dạy dỗ, dìu dắt của Đức Phật quá
toàn hảo đến nỗi Rahula có danh hiệu là “người luôn sẳn sàng học hỏi, tu sửa”.
Bằng lời nói và hành động, Đức
Phật đã gửi gắm thông điệp rằng cha mẹ cần hướng dẫn con cái đến những điều
thiện mỹ. Bổn phận của cha mẹ là khuyến khích con cái họ nói, làm và suy nghĩ
những điều thiện. Sự dạy dỗ, dìu dắt này phải là mục đích chính của cha mẹ,
không phải là một vấn đề phụ thuộc.
3. Giáo Dục Hướng Nghiệp Cho
Con Cái.
Bổn phận kế tiếp của cha mẹ,
theo kinh Sigalovada, là tạo điều kiện để con được giáo dục hướng đến một nghề
nghiệp thích hợp. Nhu cầu này được gọi là sippam sikkhapeti. Sippa có nghĩa là
‘tri thức và khả năng cần thiết cho một nghề nghiệp’; sikkbapeti có nghĩa là
“dạy dỗ, rèn luyện”. Về điều này, cha mẹ có thể trực tiếp dạy con cái họ, mà
cũng có thể nhờ đến sự giúp đở của những người có khả năng.
Bổn phận này cho ta thấy rằng
cha mẹ cần có những phương cách để làm cho cuộc sống của con cái được tốt hơn,
bên cạnh việc giúp con cái họ phát triển nhân cách. Trong kinh Mangala, Đức
Phật đã dạy, “có tri thức rộng, có kỷ năng, kỷ luật và ái ngữ là những ân
sủng”[8] . ‘Kỷ luật’ và ‘ái ngữ’ thuộc về sự phát triển nhân cách; ‘tri thức
rộng’ và ‘khả năng’, là những chuẩn mực trong nghề nghiệp. Con cái cần sự giúp
đở của cha mẹ trong cả hai lãnh vực này.
Cha mẹ trong thời Đức Phật còn tại thế không có nhiều lựa chọn trong việc chuẩn bị cho con cái họ có một nghề nghiệp. Họ có thể trực tiếp trao truyền lại cho con cái sự hiểu biết riêng của mình hoặc họ có thể gửi con cái đến học với những người có khả năng. Các gia đình khá giả gửi con đến những nơi như là Taxila, thủ đô của Gandhara, nơi có trường đại học nổi tiếng đầu tiên trên thế giới. Trái lại, ngày nay cha mẹ có nhiều lựa chọn hơn trong việc giúp đở con cái trong lãnh vực giáo dục. Gửi con cái đi học ở các trường, theo dõi, và lo giúp đở chi phí học hành, là một số cách cha mẹ làm để chuẩn bị cho con cái có một nghề nghiệp.
Cha mẹ trong thời Đức Phật còn tại thế không có nhiều lựa chọn trong việc chuẩn bị cho con cái họ có một nghề nghiệp. Họ có thể trực tiếp trao truyền lại cho con cái sự hiểu biết riêng của mình hoặc họ có thể gửi con cái đến học với những người có khả năng. Các gia đình khá giả gửi con đến những nơi như là Taxila, thủ đô của Gandhara, nơi có trường đại học nổi tiếng đầu tiên trên thế giới. Trái lại, ngày nay cha mẹ có nhiều lựa chọn hơn trong việc giúp đở con cái trong lãnh vực giáo dục. Gửi con cái đi học ở các trường, theo dõi, và lo giúp đở chi phí học hành, là một số cách cha mẹ làm để chuẩn bị cho con cái có một nghề nghiệp.
Ba bổn phận của cha mẹ vừa
được kể trên cho thấy rằng mục tiêu của người làm cha mẹ là để hướng dẫn con cái
trở nên một người hoàn thiện. Chuyển hóa nhân cách, tri thức và sự phát triển
khả năng, là biểu hiện của sự hoàn hảo. Cụ thể hơn, lánh xa những hành động bất
thiện, và học tập những đức tính cao thượng để làm tốt hơn sự phát triển nội tâm
của đứa trẻ. Sau đó đào sâu thêm về tri thức và khả năng giúp cho đứa trẻ trở
nên là một người có khả năng nghề nghiệp. Đức Phật khuyên các bậc cha mẹ phải
có một sự tự nguyện nỗ lực hướng con cái đến mục đích đó.
4. Giúp Con Cái Chọn Bạn Đời.
Trong thời Đức Phật, sự tham
gia của cha mẹ vào việc tìm người phối ngẫu cho con cái mình có vẻ rất thích
hợp. Một phần vì trước đây ở Ấn Độ không có một hệ thống giáo dục cho tất cả,
thế hệ trẻ không có sự lựa chọn người phối ngẫu một cách khôn ngoan. Mặt khác,
vì không có những luật lệ về hôn nhân cố định, nhiều người sau khi lập gia đình
thường bỏ nhau mà không có những bổn phận đối với con cái hay người họ bỏ rơi.
Trong hoàn cảnh xã hội đó, Đức Phật đã khuyên cha mẹ nên giúp con cái họ chọn
lựa những người bạn phối ngẫu thích hợp.
Ngày nay, chúng ta có thể lý
luận rằng bổn phận này của cha mẹ không còn quan trọng, rằng cha mẹ cần phải để
cho con cái tự chọn người bạn đời của mình. Tuy nhiên, sự hướng dẫn của cha mẹ
vẫn có thể là một đóng góp ích lợi cho con cái trong việc chọn lựa bạn đời. Vì
không từng trải, những người trẻ tuổi có thể vội vàng kết luận rằng, vẻ bề ngoài
quyển rũ của một ai đó có thể là tiêu chuẩn duy nhất để chọn lựa làm người phối
ngẫu. Nhưng chẳng lâu sau họ có thể nhận ra rằng họ đã mù quáng như thế nào.
Lúc đó họ mới biết có những yếu tố khác quan trọng hơn, như là cách cư xử, sự
trưởng thành trong tình cảm, do đó họ cần có sự chọn lựa kỹ càng trước khi quyết
định cưới nhau.
Sự hướng dẫn của cha mẹ có thể
giúp những người trẻ tuổi chọn lựa bạn đời một cách khôn ngoan, do đó giảm bớt
những xung đột trong mối liên hệ vợ chồng. Đời sống gia đình của chính các bậc
cha mẹ cũng có thể đã dạy cho con cái của họ những bài học quan trọng. Họ biết
rằng sự trưởng thành trong nhân cách của mỗi thành viên đóng một vai trò quan
trọng trong việc giúp cho mối liên hệ của họ được tốt đẹp. Cha mẹ có thể truyền
cho con cái sự hiểu biết quan trọng này. Không cần phải lựa chọn bạn đời cho
con, nhưng cha mẹ vẫn có thể giúp con hiểu rõ hơn về một sự chọn lựa đứng đắn.
Hôn nhân là một bước quan
trọng nhất trong cuộc đời của một người bạn trẻ. Sự hướng dẫn của cha mẹ có thể
làm phong phú thêm sự hiểu biết của con cái về việc chọn lựa một người bạn đời
thích hợp. Nhờ thế cha mẹ có lý do để hãnh diện khi họ có thể giúp con cái ở
bước ngoặt quan trọng này –và lời khuyên của Đức Phật dường như vẫn rất thực tế,
ngay cả ở thời đại bây giờ.
5. Trao Của Thừa Tự Cho Con
Đúng Thời Điểm.
Cuối cùng Đức Phật khuyên cha
mẹ nên giao lại tài sản gia đình cho con cái. Dĩ nhiên Đức Phật không bảo cha
mẹ phải giao hết tất cả tài sản gia đình cho con cái họ, để trở thành người vô
gia cư vào lúc cuối đời. Thay vào đó, Đức Phật khuyên họ nên chuyến giao một
phần tài sản gia đình cho con cái ở một thời điểm thích hợp. Hãy quán niệm
những lời dạy của Đức Phật, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn điều này. Đức Phật dùng
thuật ngữ dayajjam để chỉ phần tài sản gia đình mà người con có quyền được
hưởng. Dayajjam có nghĩa là ‘một phần tài sản được coi như là món quà của cha
mẹ dành cho con cái’. Một từ ngữ khác samaye có nghĩa là ‘thời điểm thích
hợp’.
Đây là điều cuối cùng mà bậc
cha mẹ phải làm để hoàn thành trách nhiệm của mình. Đã là một nguồn hướng dẫn
phong phú đối với sự phát triển nhân cách và sự thành công về vật chất của con
cái, cha mẹ giờ có thể được coi như là đã hoàn thành nghĩa vụ của họ một cách
viên mãn. Họ giao lại tài sản cho con cái với một số lượng thích hợp. Sau khi
đã viết xong di chúc cuối cùng, các bậc cha mẹ có thể sống một cuộc sống thoải
mái, tự tại vì nghĩ rằng. ‘Chúng ta đã làm đầy đủ bổn phận và đã đạt được thành
công tốt đẹp trong vai trò làm cha mẹ của mình’.
Tóm Tắt
Đức Phật đã hướng dẫn các cư
sĩ tại gia để họ có thể trở thành những bậc cha mẹ hạnh phúc và tự tại của những
đứa con đầy nhân cách. Họ đã dạy dỗ để chúng phát triển nhân cách và giáo dục.
Họ bổ sung sự hiểu biết của con cái về hôn nhân và đời sống gia đình. Cuối cùng
họ trao một phần tài sản gia đình cho con cái ở thời điểm thích hợp. Khi nghĩ
về sự thành công của mình trong vai trò làm cha mẹ, người ta có quyền được hảnh
diện vì điều đó. Những nghĩa vụ này góp phần thắt chặt thêm mối liên hệ giữa
cha mẹ và con cái. Đức Phật nhắc nhở con cái cần bày tỏ lòng biết ơn đối với
cha mẹ khi cha mẹ đã hoàn thành nghĩa vụ của họ. Kết quả tích cực này cho ta
thấy bổn phận của người làm cha mẹ có ý nghĩa thật lớn lao.
Diệu Liên Lý Thu Linh
(dịch từ Being Proud Parents, trích trong
The Buddha’s Teachings on Prosperity, NXB Wisdom Publications)
[1] Trường Bộ Kinh III: 31: Sigalovada;
451-469
[2] Pháp Cú: Câu 129
[3] Pháp Cú: Câu 133
[4] Pháp Cú: Câu 158
[5] Trường Bộ Kinh III:31:Sigalovada, 461-469
[6] Trung Bộ Kinh II: 58: Abhaya Rajakumara: 498-501
[7] Trung Bộ Kinh II:61: Ambalatthika Rahulovada; 523-526
[8] Kinh Nipata: Culla Vagga
[2] Pháp Cú: Câu 129
[3] Pháp Cú: Câu 133
[4] Pháp Cú: Câu 158
[5] Trường Bộ Kinh III:31:Sigalovada, 461-469
[6] Trung Bộ Kinh II: 58: Abhaya Rajakumara: 498-501
[7] Trung Bộ Kinh II:61: Ambalatthika Rahulovada; 523-526
[8] Kinh Nipata: Culla Vagga
No comments:
Post a Comment