Chú Đại Bi Giảng Giải
(Giảng giải từng câu của HT Tuyên Hóa)
1. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da
Hàng ngày
chúng ta vẫn thường tụng Nam mô A – di -
đà Phật. Nam mô Bổn sư Thích – ca Mâu – ni Phật.
Nhưng quí vị có biết Nam – mô có nghĩa là gì không?
Chắc là rất ít người biết được. Cách đây vài năm, có
lần tôi đã đặt vấn đề này trong một pháp hội
nhưng chưa một người nào có được câu trả
lời hoàn chỉnh cả.
Nam – mô,
phiên âm chữ Nama từ tiếng Phạn. Trung Hoa
dịch là “Quy y”; cũng dịch là “Quy mạng kính đầu”.
Có nghĩa là: “Con xin đem toàn thể sinh mạng của con
về nương tựa vào chư Phật”. Cái bản ngã của chính
mình không còn nữa. Mà con xin dâng trọn
vẹn thân mạng mình lên chư Phật. Nếu chư
Phật cho con sống thì con sống; bảo con
chết thì con chết. Con hoàn toàn tin vào
chư Phật. Đó gọi là “Quy mạng”.
Còn “Kính
đầu” có nghĩa là hết sức cung kính và
nương tựa vào đức Phật. Đó là ý nghĩa của Nam – mô.
Còn “Quy y”
có nghĩa là đem hết thân và tâm của mình,
đem hết cả mạng sống của mình trở về nương tựa vào đức
Phật.
Nói tổng
quát. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da có
nghĩa là “Xin quy y Tam Bảo vô biên vô tận trong khắp
mười phương”.
Đó chính là
bản thể của Bồ – tát Quán Thế Âm. Quí vị
nên khởi tâm Từ Bi mà trì niệm. Mặc dù đó là bản thể
của Bồ – tát Quán Thế Âm, nhưng cũng có nghĩa là quy
y với toàn thể chư Phật trong mười phương, suốt cả
ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Khi
quí vị trì niệm thần chú này. Không những
chỉ nhắc nhở mình quy y với Tam Bảo thường
trụ trong khắp mười phương vô biên vô tận
mà còn khiến cho tất cả mọi loài hữu tình khi
nghe được thần chú này cũng đều quay về quy y, kính
lễ mười phương ba đời thường trụ Tam Bảo.
Quí vị có
biết Tam bảo là gì không? Đó là Phật bảo,
Pháp bảo và Tăng bảo. Quí vị nên biết rằng, trên thế
gian này Phật bảo là cao quý nhất. Cũng thế, Pháp bảo
và Tăng bảo là điều cao thượng và quý báu nhất.
Không những cao quý ở thế gian mà còn cao
quý đối với những cảnh giới xuất thế gian,
cho đến đối với cõi trời phi tưởng phi
phi tưởng nữa. Không còn có gì cao quý hơn
Tam bảo trong Phật pháp nữa. Trong mười
pháp giới thì cảnh giới Phật là cao nhất. Thế nên
chúng ta cần phải cung kính quy ngưỡng và tín thọ
nơi Tam bảo cao quý, phát khởi tín tâm kiên cố và
thâm sâu, không một mảy may nghi ngờ.
Có người sẽ hỏi: Quy y Tam bảo sẽ có lợi ích gì? Tối thiểu nhất là khi quí vị quy y Phật rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào địa ngục nữa; khi quí vị quy y Pháp rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào hàng ngạ quỷ (quỷ đói) nữa; khi quí vị quy y Tăng rồi thì quí vị không còn bị đọa làm loài súc sinh nữa. Đây là những đạo lý căn bản của việc quy y Tam bảo.
Có người sẽ hỏi: Quy y Tam bảo sẽ có lợi ích gì? Tối thiểu nhất là khi quí vị quy y Phật rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào địa ngục nữa; khi quí vị quy y Pháp rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào hàng ngạ quỷ (quỷ đói) nữa; khi quí vị quy y Tăng rồi thì quí vị không còn bị đọa làm loài súc sinh nữa. Đây là những đạo lý căn bản của việc quy y Tam bảo.
Nhưng khi đã
quy y rồi, quí vị phải tự nguyện và tinh
tấn thực hành các việc lành, tương ứng với lời
dạy của đức Phật thì mới xứng đáng gọi là quy y. Nếu
quí vị vẫn còn giữ nguyên các tập khí ngày trước như
sát sanh, trộm cắp, tà hạnh dâm dục, nói dối,
nghiện ngập và làm mọi điều mình thích để
thỏa mãn ngũ dục thì quí vị không thể nào
tránh khỏi đọa vào 3 đường ác (ngạ quỷ,
địa ngục, súc sinh). Bở vì trong Phật pháp
không có sự nhân nhượng. Quí vị không thể nói:
“Tôi đã quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng rồi, nên
tôi sẽ không bao giờ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh nữa. Vậy nên tôi có quyền làm điều gì
tôi muốn…”
Quí vị phải
thay đổi, chuyển hóa mọi tập khí xấu của
mình và tích cực thực hành những việc thiện, dứt
khoát không bao giờ làm những việc ác nữa. Nếu quí vị
còn tiếp tục làm những việc xấu ác, thì quí vị sẽ bị
đọa ngay vào địa ngục.
Đạo Phật
không giống như ngoại đạo. Họ tuyên bố rằng:
“Quan trọng nhất là niềm tin. Nếu có niềm tin thì dù
có làm việc ác, cũng có thể vào được thiên đường.
Còn ngược lại, nếu ai thiếu lòng tin, dù có gắng
sức làm việc phúc đức, thì cũng sẽ rơi vào
hỏa ngục”.
Nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn tạo các nghiệp ác thì nhất định quí vị sẽ bị đọa vào địa ngục. Dù quí vị không tin vào đức Phật, mà vẫn gắng sức làm việc phước thiện thì quí vị vẫn được lên thiên đàng. Phật pháp không bao giờ mê hoặc con người bằng cách nói: “Nếu quí vị tin vào đức Phật, thì mọi điều sẽ được như ý.” Ngược lại, nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn không chịu từ bỏ các việc ác thì quí vị vẫn phải bị đọa vào địa ngục.
“Được rồi”. Quí vị lại thắc mắc: “Nếu đã tin Phật rồi mà cũng đọa vào địa ngục như không tin, thì tại sao phải quy y Tam bảo?”
Nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn tạo các nghiệp ác thì nhất định quí vị sẽ bị đọa vào địa ngục. Dù quí vị không tin vào đức Phật, mà vẫn gắng sức làm việc phước thiện thì quí vị vẫn được lên thiên đàng. Phật pháp không bao giờ mê hoặc con người bằng cách nói: “Nếu quí vị tin vào đức Phật, thì mọi điều sẽ được như ý.” Ngược lại, nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn không chịu từ bỏ các việc ác thì quí vị vẫn phải bị đọa vào địa ngục.
“Được rồi”. Quí vị lại thắc mắc: “Nếu đã tin Phật rồi mà cũng đọa vào địa ngục như không tin, thì tại sao phải quy y Tam bảo?”
Chân chính
quy y Tam bảo có nghĩa là phải từ bỏ việc
ác, quay về đường thiện, sửa đổi mọi lỗi lầm. Như một
người được khai sinh lại với tên mới, từ đây chỉ làm
thuần túy những việc lành. Không làm những việc
xấu ác nữa. Như thế mới đạt được lợi ích
thiết thực. Chính vì vậy mà câu chú: Nam
mô hắc ra đát na đá ra dạ da có nghĩa là:
“Quy y Tam bảo vô cùng vô tận trong khắp
mười phương”.
Khi quí vị
trì niệm chú này, cũng có thể giúp tiêu
trừ được những ách nạn cho quí vị. Lúc gặp tai chướng,
quí vị hay thường trì niệm: Nam mô hắc ra đát na đá
ra dạ da thì tai chướng ấy liền được tiêu trừ.
Tai nạn lớn sẽ biến thành tai nạn nhỏ, và
nếu gặp tai nạn nhỏ thì cũng sẽ được tiêu
sạch. Chú này được gọi là “Tiêu tai pháp”,
là một trong năm bộ chú hộ ma.
Nam mô hắc
ra đát na đá ra dạ da cũng còn được gọi là
“Tăng ích pháp”. Nghĩa là từ trước đến nay quí vị
đã từng gieo trồng nhiều thiện căn, và vẫn thường
trì tụng chú này, thì thiện căn của quí vị sẽ tăng
trưởng thêm gấp nhiều lần, lợi lạc không kể
xiết. Nên chú này được gọi là “Tăng ích
pháp”.
Quí vị có
thể niệm toàn bộ chú Đại Bi, hoặc chỉ cần
niệm câu chú đầu tiên này thôi: Nam mô hắc ra đát na
đá ra dạ da là “Thành tựu pháp”, bất luận quí vị muốn
điều gì, thì sở nguyện sở cầu của quí vị đều được
thành tựu như ý muốn. Nếu quí vị không có
con trai mà muốn cầu sinh con trai, hay
niệm Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da sẽ
sinh được con trai. Nhưng quí vị phải trì
niệm với tâm trí thành, không phải chỉ
niệm một hai ngày rồi thôI, mà phải niệm liên tục ít
nhất là trong ba năm. Nếu quí vị không có được bạn tốt,
mà muốn gặp được một người, hay niệm Nam mô hắc
ra đát na đá ra dạ da thì liền gặp được
ngay bạn lành. Nếu quí vị trì niệm được
toàn thể bài chú Đại Bi thì quá tốt, nếu
không chỉ cần niệm câu đầu tiên Nam mô hắc
ra đát na đá ra dạ da, cũng sẽ thành tựu những
công đức không thể nghĩ bàn.
Câu chú này
cũng còn được gọi là “Hàng phục pháp”.
Năng lực của câu chú đó có thể hàng phục thiên ma,
chế phục ngoại đạo khi nó nghe đến câu chú này.
Tuy vậy, câu
chú này không phải là “Câu triệu pháp”.
Khi quí vị trì niệm một câu chú thuộc trong “Câu triệu
pháp” thì tất cả các loại yêu ma quỷ quái khắp nơi đều
đến trình diện và có thể bắt giữ, hoặc sai
khiến được chúng.
Vậy nên, câu
chú Nam mô hắc ra đát ra đá ra dạ da này
có công năng rất mạnh, không thể suy lường được.
Nếu nói chi tiết, thì không thể nào cùng tận được.
Tóm lại,
trong câu Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da,
thì Nam mô có nghĩa là “quy mạng kính đầu”. Hắc ra
đát na là “bảo”. Đá ra dạ có nghĩa là “Tam”. Da
nghĩa là “Lễ”.
Nghĩa toàn
câu là: “Xin đem hết thân, tâm, tính mạng
của mình quy y và kính lễ Tam Bảo vô tận vô biên
trong khắp cả mười phương, suốt cả ba đời”. Chúng ta
phải cúi đầu đảnh lễ thường trụ Tam bảo.
Vì sao gọi
là vô tận vô biên? Vì chư Phật trong thời
quá khứ là vô cùng vô tận. Chư Phật trong thời hiện
tại là vô cùng vô tận. Chư Phật trong thời vị lai là
vô cùng vô tận. Cho nên Tam bảo là vô biên vô tận.
2. Nam mô a rị da
Nam mô như
đã giảng ở trên, nghĩa là “đem hết thân
tâm, tánh mạng quy y và kính lễ, học tập chư Phật và
chư Bồ – tát”.
A rị có
nghĩa là “Thánh giả”. Có nghĩa là người xa
lìa tất cả các ác pháp. Nên Nam mô A rị da có nghĩa
là kính lễ các bậc Thánh giả, người đã xa lìa tất cả
các pháp bất thiện.
3. Bà lô yết đế thước bát ra da
Bà lô yết đế
có nghĩa là “quán” trong danh hiệu Quán
Thế Âm Bồ – tát. Cũng được dịch là “quang” từ danh
hiệu Vairocana (Tỳ – lô - giá - na) nghĩa là Quang
Minh Biến Chiếu – hào quang chiếu khắp mọi nơi. Còn
được dịch là: “Sở quán sát” nghĩa là cảnh
giới được quán chiếu, được quán sát đến.
Thước bát ra da có nghĩa là “tự tại”.
Ý nghĩa toàn
câu là quán chiếu quán sát một cách rộng
khắp và tự tại. Đó chính là ý nghĩa của danh hiệu Bồ
– tát Quán Tự Tại, Bồ – tát Quán Thế Âm. Có nghĩa là
quan sát, lắng nghe âm thanh ở cõi thế gian để cứu
độ một cách tự tại.
4. Bồ đề tát đỏa bà da
Mọi người đều biết Bồ đề xuất phát từ tiếng Phạn là Bodhi. Có nghĩa là Giác.
Tát đỏa có
nghĩa là “độ” là vượt qua (bể khổ) cũng
như đưa người khác vượt qua (bể khổ) đến bờ giải
thoát.
Bồ Đề tát
đỏa bà da có nghĩa là một vị Bồ – tát đã tự
giác ngộ giải thoát và giúp cho mọi chúng sinh được
giác ngộ giải thoát như mình.
Bà da có nghĩa là “đảnh lễ”.
Da có nghĩa
là khấu đầu đảnh lễ. Cúi đầu đảnh lễ ai?
Đảnh lễ các vị Bồ – tát đã tự giác ngộ giải thoát
cho chính mình rồi, còn giúp cho người khác được
giác ngộ giải thoát.
Câu thần chú này là muốn nhắc đến Bồ – tát Bất Không Quyến Sách áp đại binh. Nghĩa là khi quí vị tụng câu thần chú này thì Bồ – tát Bất Không Quyến Sách đem binh tướng của cõi trời đến để hộ trì cho quí vị.
Câu thần chú này là muốn nhắc đến Bồ – tát Bất Không Quyến Sách áp đại binh. Nghĩa là khi quí vị tụng câu thần chú này thì Bồ – tát Bất Không Quyến Sách đem binh tướng của cõi trời đến để hộ trì cho quí vị.
5. Ma ha tát đỏa bà ha
Ma – ha có 3 nghĩa: Đại: lớn; Đa: nhiều; và Thắng: hoàn hảo.
Ma – ha với nghĩa là Đại: tức chỉ cho người phát tâm bồ đề rộng lớn.
Ma – ha với nghĩa là Đa: tức chỉ cho số lượng. Có rất nhiều người phát tâm bồ đề.
Ma – ha với
nghĩa là Thắng: tức nói đến những người đã
phát tâm bồ đề rộng lớn đều đạt đến chỗ thành tựu
viên mãn, được nhiều lợi lạc rất thù thắng.
Tát - đỏa
nghĩa của chữ Tát - đỏa trong câu chú này
không giống như nghĩa trong câu trên. Trong câu chú
trên, Tát - đỏa có nghĩa là “độ” – vượt qua bờ bên
kia. Có nghĩa là giải thoát. Còn trong câu chú này.
Tát - đỏa có nghĩa là “Dõng mãnh giả” là
người can đảm, không sợ hãi. Cũng có nghĩa
là “Tinh tấn giả”, là người tu hành rất
siêng năng.
Bà - Da Hán
dịch là “Hướng tha đảnh lễ” nghĩa là: “Con
xin đê đầu đảnh lễ các vị đại Bồ – tát, là những
người rất dõng mãnh, rất tinh tấn, không bao giờ sợ
hãi, và nguyện phát tâm bồ đề trước chư vị Bồ – tát
này.”
Các vị đại
Bồ – tát đã tự giác ngộ, giải thoát cho
chính mình rồi còn phát nguyện giúp cho vô số chúng
sanh khác được giác ngộ và giải thoát như mình.
6. Ma ha ca lô ni ca da
Ma – ha có 3 nghĩa: lớn, nhiều và thù thắng như trên đã giảng.
Ca – lô Hán dịch là “Bi”.
Ni – ca nghĩa là “Tâm”.
Hợp lại, Ma ha ca lô ni ca có nghĩa là “Tâm đại bi”.
Da có nghĩa
là đảnh lễ, như đã giảng ở trên. Toàn câu
chú Ma ha ca lô ni ca da có nghĩa là: “Cúi đầu đảnh
lễ thần chú Đại bi tâm Đà - la – ni.”
7. Án
Án nghĩa là
“Bổn mẫu”, là “Chú mẫu” mẹ của tất cả mọi
thần chú; cũng chính là “Phật mẫu” mẹ của tất cả chư
Phật.
Mẹ của chư
Phật có nghĩa là mẹ của nguồn tâm trong mọi
loài chúng sinh, vì nguồn tâm của chúng sinh vốn có
sẵn mọi trí tuệ, thường xuất sinh các pháp lành, nên
gọi là “Bổn mẫu”.
Thông qua năng lực của thần chú mà mười pháp muôn được hiển bày.
Thông qua năng lực của thần chú mà mười pháp muôn được hiển bày.
1. Pháp môn thứ nhất là “Tự”: là đầu nguồn, làm xuất sinh mọi chủng tự.
2. Thứ hai là “Cú”. Trong kinh văn hoặc trong thần chú, “Cú” có nghĩa là một câu.
3. Thứ ba là “Quán”: là quán chiếu, quán sát, vận dụng năng lực quán chiếu mà hành trì.
4. Thứ tư là
“Trí”: là trí tuệ, dùng thanh gươm trí
tuệ để cắt đứt tất cả phiền não. Trí tuệ tức là pháp
môn lưu xuất từ Bát Nhã Ba La Mật, đó là trí tuệ
viên mãn nhất. Còn “quán” là lưu xuất từ pháp môn
Thiền định Ba La Mật.
5. Thứ năm là “Hành”: nghĩa là tu tập, nương theo giáo pháp mà hành trì.
6. Thứ sáu
là “Nguyện”: nghĩa là cần phải phát nguyện,
nương theo giáo pháp chân chính mà tu hành.
7. Thứ bảy
là “Giáo”: nghĩa là y cứ theo giáo pháp
chân chính mà tu hành. Nếu quí vị không nương theo lời
dạy của đức Phật mà tu hành, thì dù quí vị có tu
hành đến nhiều kiếp như số cát sông Hằng đi nữa thì
vẫn không có kết quả gì cả. Cũng như thể
nấu cát mà mong thành cơm vậy.
Tuy nhiên,
để có thể tu tập xứng hợp với giáo lý chân
chính của đức Phật thì trước hết, quí vị phải
thông hiểu về giáo pháp đó một cách tường tận.
8. Thứ tám
là “Lý”: nghĩa là đạo lý. Nếu quí vị có
thể nhập được vào Phật pháp vi diệu thì mới có được
sự hiểu biết thông đạt về giáo pháp ấy. Nếu quí vị
không khế hội được diệu pháp này, thì quí vị chỉ là
người tu tập trong sự mù quáng. Dù quí vị
có tu hành bao lâu đi nữa, cũng không đạt
được sự thành tựu.
9. Thứ chín
là “Nhân”: Trong đời này quí vị phải gieo
trồng những nhân thù thắng, nhân tốt lành, nhân
thanh tịnh, thì quá khứ quí vị sẽ gặt được quả thù
thắng, quả vi diệu và quả thanh tịnh.
10. Thứ mười
là “Quả”: Quả tương ứng sẽ đạt được sau
khi đã gieo trồng nhân. Đó là diệu quả, quả vị giác
ngộ tối thượng.
Như vậy từ
chữ án, xuất sinh ra mười pháp môn vi diệu.
Nên khi quí vị trì niệm thần Chú Đại Bi, niệm đến chữ
án thì tất cả các loài quỷ thần đều chắp tay vô cùng
cung kính, không dám tỏ ra khinh suất hoặc lơ
là khi nghe hành giả trì tụng thần Chú Đại
Bi. Chữ án có một năng lực mạnh mẽ mà đến
nỗi khiến cho các loài ác quỷ, ác thần
đều phải cung kính chấp trì. Công năng của
thần chú thật to lớn, thần lực thật không thể nghĩ
bàn.
8. Tát bàn ra phạt duệ
Tát bàn ra,
Hán dịch là “tự tại”. Nghĩa là khi quí vị
trì tụng thần chú này, thì Tứ đại thiên vương đều đến
làm Hộ pháp cho quí vị.
Phạt duệ, Hán dịch là Thế tôn, cũng dịch là Thánh tôn.
Nguyên câu
chú này có nghĩa là Tự tại Thế tôn. Tự tại
Thánh tôn, tức là Đức Phật tự tại, ý là xưng tán Phật
bảo.
9. Số đát na đát tả
Chữ Số có hai âm là Shù và Shùo. Người ta thường niệm là “Shù”.
Số Đát Na có
nghĩa là “pháp” (Dharma). Pháp gì? Pháp
này còn gọi là “Diệu thắng pháp”. Cũng gọi là “Cao
thượng thắng sinh”. Có nghĩa là không có gì vượt trội
hơn pháp này nữa. Thắng sinh có nghĩa là từ pháp
này xuất sinh ra năng lực rất thù thắng.
Còn một cách dịch khác của chữ Số là “Diệu sinh” hoặc “Thắng thân”. Diệu sinh tức là vượt lên trên mọi sự vi diệu. Thắng thân nghĩa là thể của pháp ấy rất thù thắng.
Còn một cách dịch khác của chữ Số là “Diệu sinh” hoặc “Thắng thân”. Diệu sinh tức là vượt lên trên mọi sự vi diệu. Thắng thân nghĩa là thể của pháp ấy rất thù thắng.
Còn có một
cách dịch khác nữa của chữ Số, là “Tối
thượng thừa địa”. Nghĩa là cảnh giới của hành giả sẽ
trải qua sau khi chứng được Thập địa của hàng Bồ –
tát.
Đát Na là biểu tượng của Pháp bảo.
Đát Tả là biểu tượng cho Tăng bảo.
Cho nên toàn
thể câu chú án tát bàn ra phạt duệ số đát
na đát tả là biểu tượng cho Tam bảo. Có nghĩa là
chúng ta phải nên ngưỡng nguyện đến sự gia hộ của
Tam bảo. Nên khi trì niệm đến câu thần chú này, có
nghĩa là thỉnh cầu, ngưỡng nguyện đến lực gia
trì của Tam bảo.
Đát tả còn
có nghĩa là dùng giáo pháp để răn dạy các
loài quỷ thần và dùng thần chú để triệu tập quỷ thần
đến mà dạy bảo chúng theo tinh thần chánh pháp.
10. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a lị da
Xưa nay
dường như quí vị luôn luôn Nam mô với một
người nào khác chứ chưa bao giờ Nam mô với chính
mình. Người tu hành không cần phải đi Nam mô một
khách thể nào khác mà phải Nam mô ngay với chính
mình.
Nam mô có nghĩa là tôi, chính tôi quay trở về quy y với Tam bảo vô cùng vô tận khắp mười phương.
Nam mô còn
có nghĩa là đem tự ngã của chính mình thể
nhập trọn vẹn vào cả pháp giới khắp cả mười phương.
Tức là thể nhập vào Tam bảo vô cùng vô tận khắp cả
mười phương.
Tất kiến lật
có nghĩa là “hoàn toàn”. Tức là đem hết
toàn tâm, toàn ý để quy y và đảnh lễ Tam bảo.
Đỏa y mông
có nghĩa là “Ngã”. Đó chính là cái Ngã của
Vô Ngã. Nên quí vị phải đem toàn tâm toàn ý đảnh lễ
bản ngã của chính mình, nhưng đảnh lễ cái ngã của vô
ngã. Như thế có nghĩa là không có mình hay sao? Ví
như khi có người đánh quí vị, quí vị
không cảm thấy đau; nếu họ mắng chửi, quí
vị không thấy khó chịu; nếu họ nhục mạ,
quí vị thấy như thể không có việc gì xảy
ra. Quí vị không nhất thiết cần phải nhẫn nhục, vì nếu
dùng phép nhẫn nhục, là quí vị đã rơi vào “đệ nhị
nghĩa” rồi. Trong trường hợp này, quí vị không nhất
thiết cần phải “nhẫn”, vì vốn không có
một bản ngã để dùng pháp nhân và không có
một bản ngã để cho pháp nhẫn ấy tác động
tới. Có nghĩa là quí vị phải hành pháp
nhẫn trong “vô nhẫn”.
Đó gọi là Ngã của vô ngã vậy.
A lị da ở
trên đã giảng qua, có nghĩa là “Thánh giả”.
ở đây tức là phải hết lòng đảnh lễ “cái ngã” ấy của
Thánh giả. Vô lượng vô biên chư Bồ Tát, hết thảy
Thiên Long bát bộ đều phải đảnh lễ cái ngã trong vô
ngã của bậc Thánh giả. Cái ngã ấy bao trùm
khắp vô lượng vô biên vũ trụ. Có rất nhiều
bậc Thánh giả. Họ là ai? Dưới đây, tôi sẽ
giảng rõ.
11. Bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà
Bà lô kiết đế dịch là “Quán”.
Thất Phật ra dịch là “Tự tại” hoặc là thế âm. Âm thanh ở trong thế gian. Đây chính là Bồ – tát Quán Thế Âm.
Bà lô kiết đế thất Phật ra là Quán Thế Âm,
cũng chính là Quán Tự Tại. Hai danh hiệu
này không nhất định phải là Bồ – tát Quán
Thế Âm mới được gọi là Quán Tự Tại hay
Quán Thế Âm, mà nếu khi quí vị đã đạt được
tự tại rồi, thì quí vị chính là Bồ – tát
Quán Tự Tại. Khi quí vị có được năng lực cứu độ tất
cả mọi loài chúng sinh, thì quí vị chính là Bồ Tát
Quán Thế Âm. Vì vậy, một khi quí vị đã thể nhập và
vận dụng trọn vẹn pháp này rồi thì chính quí
vị là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Nếu tôi đạt được tự tại trong việc vận
dụng pháp này thì chính tôi cũng là hóa
thân của Bồ – tát Quán Thế Âm.
Lăng đà bà dịch là “hải đảo”, chỉ cho núi
Phổ Đà (Potala), nơi Bồ – tát Quán Thế Âm
thường thị hiện. Có sách nói núi Phổ Đà ở
nước Trung Hoa. Phổ Đà có nghĩa là “hoa
trắng nhỏ” vì nơi núi ấy có loài hoa trắng nở
rất nhiều. Trên núi có một cung điện được kiến tạo ở
trong hang đá gọi là “Cung Từ Bi”, đó là nơi Bồ Tát
Quan Thế Âm thường thị hiện. Nơi đó được trang
hoàng bằng bảy thứ châu báu: vàng, bạc, xà
cừ, pha lê, trân châu, ngọc bích, mã não.
Nhưng không phải ai cũng đến được nơi
cung điện này.
Bà lô kiết đế thất Phật ra là vị Bồ – tát có đầy tâm nguyện đại từ bi.
Lăng đà bà là cung điện Từ Bi, nơi Bồ – tát Quan Thế Âm thường thị hiện.
12. Nam mô na ra cẩn trì
Trong câu chú này, Nam mô vẫn có nghĩa là “quy y” và “quy mạng kính đầu”.
Na ra dịch nghĩa là “Hiền” – bậc hiền giả, chỉ cho hàng Bồ Tát.
Cẩn trì dịch là “ái”, có nghĩa là tình
thương yêu. Trong ý niệm lòng Từ Bi bảo
hộ, che chở cho mọi loài. Thế nên lòng từ
bi của bậc Hiền giả (Bồ – tát) thường đem
đến sự bao bọc, che chở cho chúng sinh.
Trước đây tôi đã giảng về 10 loại tâm được đề cập
trong Kinh Đại Bi Tâm Đà - la – ni. Quí vị nên y cứ
theo mười loại tâm này mà công phu tu tập.
Na ra cẩn trì, Hán dịch là “Hiền ái thiện
hộ” có liên quan đến nghĩa thứ nhất, nghĩa
là thứ 6 và nghĩa thứ 10 trong 10 loại
Tâm: Đó chính là Tâm Đại Bi, Tâm Cung Kính
và Tâm Vô Thượng bồ đề.
Câu chú này đại biểu cho 3 loại tâm như trên.
13. Hê rị ma ha bàn đa sa mế
Hê rị có
nghĩa là “Tâm”. Tâm này có ý nghĩa gì trong
10 nghĩa? Nghĩa thứ 4 là vô nhiễm trước tâm. Tâm này
giúp cho quí vị duy trì bản tâm thanh tịnh của mình.
Khi quí vị khởi tâm niệm tham, sân, si, mạn,
nghi… thì tâm quí vị liền bị ô nhiễm,
không còn thanh tịnh nữa. Khi tâm quí vị
không mong khởi những niệm ô nhiễm ấy, thì
tâm quí vị được thanh tịnh.
Ma ha có nghĩa là “Đại”, cũng có nghĩa là “Trường”.
Bàn đà sa mế
nghĩa là sao? Nếu tôi không nói, chắc
chắn quí vị chẳng thể nào biết được. Nên quí vị muốn
biết thì trước tiên tôi phải giảng. Lúc đó quí vị mới
hiểu được. Quí vị mới nói rằng: “Thì ra ý nghĩa
của cân chú ấy là như thế”. Bàn đà sa mế
có nghĩa là “đại quang minh” nghĩa là hào
quang rực rỡ chiếu khắp.
Bàn đà sa mế
lại còn được dịch là “Trường chiếu mệnh”
nghĩa là ánh sáng thường chiếu soi rộng khắp mọi nơi.
Nguyên câu
Hê rị ma ha bàn đa sa mế có nghĩa là “Tâm
đại quang minh”. Nghĩa là ánh sáng của tâm lực,
quang minh của tâm lực thường chiếu rộng khắp, mãi
mãi siêu việt cả không gian vô cùng, thời gian vô tận;
từ một vi trần cho đến vô cùng vô tận thế
giới đều có sự hiện hữu của ánh sáng ấy.
Quí vị sẽ
nói: “à, cái đại quang minh của tâm ấy,
tôi đã nghe trong kinh giảng nói rất nhiều rồi, và…”
Vâng, nhưng
trừ phi quí vị không nghe tôi giảng giải
thần Chú Đại Bi thì quí vị không thể nào biết được.
Tôi sẽ giảng cho quí vị rõ. Thật là khó gặp được người
nào có thể giảng giải về Chú Đại Bi một cách rõ
ràng tường tận. Thực vậy, hoàn toàn thực
tình mà nói, không mấy người thể nhập được
rốt ráo ý nghĩa của thần chú Đại Bi hoặc
là chuyển được ý nghĩa của thần chú.
Sẽ có người hỏi: “Thế làm sao Sư phụ biết được?”
Quí vị khỏi
cần phải hỏi tôi. Vì tôi đã không hỏi thì
thôi, chứ quí vị đừng nên hỏi tôi tại sao mà tôi
biết được. Dĩ nhiên là tôi phải biết. Nếu tôi không
biết, tôi không thể nào giảng giải cho quí vị nghe
được. Vì thế đừng nên hỏi tại sao tôi lại
biết.
Thay vì quí
vị hỏi tại sao tôi biết, thì quí vị hãy
quay trở lại hỏi chính mình. Tại sao mình lại không
biết? Nếu quí vị biết được lý do tại sao mình không
biết, thì quí vị sẽ rõ được tại sao tôi biết. Trái
lại, nếu quí vị không thể nào rõ được tại
sao quí vị không biết, thì quí vị cũng
không thể nào rõ được lý do tại sao tôi
biết. Đó chính là điều làm nên sự kỳ diệu
vậy.
Chẳng hạn có
người đã hỏi tôi rằng: “Tại sao Thầy làm
người xuất gia?” Tôi đã không trả lời câu hỏi đó
mà hỏi lại rằng: “Tại sao anh lại không làm người xuất
gia? Nếu anh biết được lý do vì sao anh không xuất
gia, thì anh sẽ hiểu được vì sao tôi lại
xuất gia”. Hỏi về đạo lý trong Phật pháp
cũng như vậy. Thay vì quí vị hỏi: “Làm sao
mà tôi hiểu được đạo lý ấy?”, thì quí vị
hãy tự hỏi lại chính mình tại sao mình
không hiểu được. Khi quí vị đã hiểu được tại sao
mình không biết thì quí vị sẽ hiểu được tại sao tôi
lại biết được đạo lý ấy. Nay quí vị đều là những người
có nhiều thiện căn nên được dự pháp hội
giảng chú Đại Bi. Vậy quí vị phải nên hộ
trì, bảo trọng cho thiện căn của mình. Tự
mình phải khéo vận dụng thiện căn ấy để tu
học và liễu nhập Phật pháp, đừng để hoài
phí một phút giây nào cả.
Hiện tại
chúng ta đang sống vào thời mạt pháp. Chư
Phật và Bồ – tát rất ít thị hiện ở thế gian. Thời
gian này, lòng người đang tiến dần đến chỗ hoang
liêu, điêu tàn, không dễ gì gặp được chánh pháp,
cũng không dễ gì gặp được bậc chân thiện tri thức.
Có lần tôi
bảo các đệ tử rằng: “ở Đài Loan có mở Đại
giới đàn, năm huynh đệ các con nên đến đó cầu thỉnh
để được thọ giới pháp”. Các đệ tử gửi thư cho tôi biết
nhiều người ở Đài Loan nói với họ rằng: “Chẳng
cần phải tu hành gì cũng có thể thành tựu
đạo nghiệp”. Các đệ tử của tôi trả lời
rằng: “Chúng tôi cũng là những con người
như những con người khác, nếu không chịu
tu hành thì làm sao có thể tựu thành Phật đạo?
Nếu không công phu hành trì thì làm sao liễu ngộ được
chánh pháp”. Nếu quí vị nói rằng không cần phải dụng
công tu tập mà cũng thành Phật, liễu đạo thì
trước đây đức Phật chẳng cần vào núi
Tuyết tu suốt sáu năm làm gì, rồi sau đó
đến ngồi dưới cội bồ đề tinh chuyên thiền
định suốt 49 ngày, đến khi sao Mai vừa mọc
thì Ngài tựu thành chánh giác.
Đức Phật còn
phải tu hành mới thành tựu chánh giác.
Còn mỗi chúng sinh như chúng ta, nếu không tinh tấn
tu hành thì làm sao có thể thành Phật được? Ai ai
cũng đều biết phải nhờ vào tu hành mới đạt được Phật
quả, nhưng người chân thật tu hành thì rất
ít; và ai cũng đều biết nếu không chịu tu
hành thì đều có thể bị đọa vào địa ngục,
nhưng người không chịu tu hành thì không
sao kể xiết. Nghiệp lực thế gian thật là
không thể nghĩ bàn!
Quí Phật tử!
Sống trong thời mạt pháp mà có được điều
kiện để nghiên cứu Phật pháp thì nên dõng mãnh tinh
tấn lên, không nên biếng nhác, hãy siêng năng công
phu, tinh cần đạo nghiệp mới mong có ngày thành tựu.
Nếu không tinh tấn dõng mãnh mà mong thành
tựu đạo nghiệp thì không thể nào có
được.Vì thế nên quí vị đừng ngại gian nan,
khổ nhọc, chướng duyên, tai ách… mọi thứ
nên quên. Phải đánh trống dõng mãnh lên để cho
tinh thần phấn chấn, chỉ một hướng thẳng đến công
phu mới mong có ngày thành tựu quả vị Phật.
Tôi đang nói
về sự vi diệu của Phật pháp. Nếu quí vị
không phát khởi niềm tin vào trí tuệ siêu việt thì đạo
lý này đối với quí vị cũng chẳng có lợi ích gì. Quí
vị có thể thâm nhập Phật pháp từ mọi sinh hoạt
trong cuộc sống, từ mỗi bước chân lặng lẽ
của thời gian trong toàn thể pháp giới…
Trong Phật
pháp, điều gì quí vị cũng muốn diễn bày
cho rõ ràng minh bạch thì thường bị đánh mất những
nghĩa lý sâu mầu vi diệu. Nay tôi dù có trình bày hết
về diệu lý của Phật pháp, nhưng nếu quí vị không
tin sâu và không hành trì thì điều tôi
giảng không còn là diệu pháp nữa. Hơn nữa
sự hành trì cần phải thường xuyên vào mọi
lúc, mọi nơi với tinh thần tinh tấn, không
lui sụt, không biếng nhác. Đây là điều khẩn
thiết nhất. Nếu quí vị mọi thời, mọi lúc đều hướng về
phía trước mà nỗ lực công phu thì nhất định một ngày
kia sẽ trực nhận ra “mặt mày xưa cũ” của chính
mình.
Bàn đà sa mế
dịch nghĩa là “đại quang minh” hay
“trường chiếu minh”, tiêu biểu cho nghĩa thứ năm
trong mười nghĩa của tâm, đó là “quán tâm không”.
Thông qua “quán tâm không”, hành giả mới có được trí
tuệ. Với trí tuệ, hành giả mới có được quang
minh. Có được quang minh, mới tỏa chiếu,
soi sáng khắp mọi pháp giới được. Tức là
không còn tối tăm, mê muội, tức là không
còn vô minh.
Sao gọi là
“vô minh”, vì tâm của quí vị không có được
sự tỏa chiếu soi sáng khắp mọi pháp giới, do vì quí
vị không có được “đại quang minh”. Nếu quí vị có được
“đại quang minh” thì tâm quí vị liền có được sự
tỏa chiếu soi sáng khắp mọi pháp giới, có
nghĩa là quí vị đã chuyển hóa được vô
minh. Một khi vô minh đã bị chuyển hóa
sạch rồi, thì pháp tánh hiển hiện, đây
chính là trí tuệ chân thật của quí vị.
Thuở xưa vào
triều đại nhà Lương ở Trung Hoa có Thiền
sư Chí Công là một bậc Đại đức cao tăng. Không sử
sách nào ghi lại song thân của Thiền sư là ai. Người
ta thường kể với nhau rằng: Một hôm nọ, có người phụ
nữ nghe tiếng khóc của một hài nhi trên
cành cây cao. Cô ta trèo lên, thấy một hài
nhi nằm trong tổ chim ưng, bèn đem hài
nhi về nuôi. Tuy thân thể hài nhi này hoàn
toàn giống như người nhưng những móng
tay, móng chân giống như móng chim ưng. Khi trưởng
thành, xuất gia tu đạo, chứng được ngũ nhãn lục
thông. Không biết cha mẹ Ngài là ai, chỉ biết Ngài
sinh trong tổ chim ưng nên mọi người đều phỏng
đoán Ngài được sinh ra từ trứng chim ưng
vậy.
Thời ấy, vua
Lương Vũ Đế cũng như mọi người đều rất
kính trọng và tin phục các Thiền sư. Bất luận khi họ
gặp những sự kịên gì trong đời sống, như sinh con,
cha mẹ qua đời, cưới hỏi… họ đều cung thỉnh các
Thiền sư đến để tụng kinh chú nguyện.
Một hôm, có
một gia đình giàu có thỉnh Thiền sư đến
tụng kinh chú nguyện nhân dịp đám cưới người con gái
của họ, đồng thời thỉnh Thiền sư ban cho vài lời
chúc mừng để mong rằng trong tương lai, việc hôn
nhân đều được tốt lành như ý. Thiền sư Chí Công
đến nhà ấy, khi nhìn thấy cô dâu chú rể,
Ngài liền nói:
“Thật cổ quái, thật cổ quái!”
“Cháu cưới bà nội”
“Thật cổ
quái” nghĩa là xưa nay chưa từng có một việc
như vậy. Đây không phải là chuyện xưa nay thường xảy
ra. Thật kỳ lạ khi nhìn một đứa cháu cưới bà nội
mình làm vợ. Trên thế gian này, nếu không thông đạt
những nhân duyên trong thời quá khứ thì
không thể nào lý giải được những mối quan
hệ cha con, mẹ con, vợ chồng, anh em, bè
bạn… của nhau. Vì sao? Vì mọi người đều có
thể là chồng hoặc vợ của nhau trong đời
trước. Một người có thể là cha hoặc là con của nhau
trong nhiều đời trước. Hoặc một người đều là mẹ và
con gái của nhau trong đời trước. Ông nội của quí vị
trong đời trước lại kết hôn với cháu gái
của quí vị trong đời này. Hoặc là bà ngoại
đời trước lại tái sinh làm con gái của
quí vị. Tất cả mọi việc đều có thể xảy ra,
và đều chịu sự biến hóa khôn lường.
Trong nhà
này, chuyện “cháu cưới bà nội” là do trước
kia, khi bà nội sắp mất, bà trăn trối lại với toàn
gia quyến: “Con trai ta vừa mới cưới vợ và đã có con
nối dòng. Con gái ta cũng đã có chồng, ta không còn
bận tâm gì nữa”. Bà ta hoàn toàn thỏa mãn
và đã gạt mọi sự bận tâm qua một bên,
ngoại trừ một điều: còn đứa cháu nội,
“tương lai rồi sẽ ra sao? Ai sẽ chăm sóc
nó? Liệu người vợ của nó có đảm đang hay không?
Ta không thể nào không lo cho nó được!”
Bà nắm tay
đứa cháu nội và qua đời. Người ta bảo rằng
nếu mọi việc đều toại nguyện, lúc lâm chung có được
tâm trạng thơ thới thì người chết sẽ nhắm mắt. Còn nếu
không, thì người chết không nhắm mắt được. Bà
lão nói: “Bà rất lo lắng cho cháu, bà chết
không nhắm mắt được”. Nói xong, bà ra đi
mà mắt vẫn mở. Thần thức của bà vẫn còn lo
âu. Khi đến gặp Diêm vương, bà ta than
khóc, thưa rằng:
- Tôi còn đứa cháu nội, không ai chăm sóc nó.
Diêm vương đáp:
- Được rồi, bà hay trở lại dương gian chăm sóc cho nó
Nói xong, bà
ta được đầu thai trở lại trong cõi trần.
Khi đến tuổi thành hôn, bà ta lấy người cháu nội trước
đây của bà ta. Vì vậy nên nói “cháu lấy bà nội”. Quí
vị thấy có phải là cổ quái thật không?
Chỉ vì một
niệm ái luyến không buông xả được mà tạo
nên biết bao duyên nghiệp buộc ràng về sau. Bà ta chỉ
vì bận tâm vì đứa cháu, mà về sau phải làm vợ cho nó.
Quí vị thử nghĩ lại xem, đây chẳng phải là
chuyện cổ quái hay sao?
Quí vị sẽ
hỏi: “Làm sao mà Thiền sư Chí Công biết được
điều ấy?” Thiền sư biết được là vì Ngài đã đạt được
ngũ nhãn và lục thông. Nên chỉ cần nhìn qua, là Ngài
liền biết được ngay kiếp trước của cô dâu vốn là
bà nội của chú rể. Chỉ vì bà nội đã khởi
một niệm ái luyến sai lầm nên nay phải đầu
thai trở lại làm người, và làm vợ của đứa
cháu nội mình. Một niệm lành còn như thế
huống gì là niệm ác, hoặc khởi trùng trùng
niệm ác thì luân hồi trong tam đồ lục đạo biết bao
giờ dứt, biết bao giờ mới mong ra khỏi.
Thiền sư lại
nhìn trong số khách đến dự đám cưới, có
một bé gái đang ăn thịt, Ngài nói: “Con gái ăn thịt
mẹ”.
Vì miếng
thịt mà em bé đang ăn là thịt dê, con dê
này vốn là mẹ của em bé đầu thai lại. Kiếp trước bà
ta đã tạo nghiệp ác quá lớn nên đã phải đọa làm dê.
Nay lại bị chính con mình ăn thịt. Vòng oán nghiệp
khởi dậy do vô minh của chúng sinh không
lời nào kể hết được. Chư Bồ Tát thương
xót, phát tâm cứu độ chúng sinh là do điểm
này.
Khi Thiền sư nhìn các nhạc công, thấy có vị đang đánh trống. Ngài nói:
“Con trai đang đánh bố”.
“Con trai đang đánh bố”.
Vì cái trống
ấy bịt bằng da lừa. Con lừa này chính là
cha của anh nhạc công đầu thai vào. Con lừa này bị
giết thịt, lấy da làm mặt trống. Thật là đau thương
cho kiếp luân hồi.
Ngài nhình quanh đám cưới, nói tiếp:
Ngài nhình quanh đám cưới, nói tiếp:
“Heo dê ngồi ở trên”
Ngài thấy có
vô số loài heo, cừu, dê, gà được đầu thai
trở lại làm người, nay họ đều là bà con thân
quyến của nhau nên cũng đến dự đám cưới này.
Nhìn trong bếp, Ngài nói:
“Lục thân bị nấu trong nồi”.
Chính là cha mẹ, anh em, bà con, bè bạn do
kiếp trước đã sát sinh heo, gà quá nhiều
để ăn, nay lại bị đọa làm heo, dê, gà trở
lại; rồi bị giết thịt, bỏ vào nồi chiên
nấu trở lại.
Ngài nói tiếp:
“Mọi người đều vui vẻ chúc mừng nhau”
Mọi người đến dự đám cưới đều rất vui vẻ mà chúc tụng nhau. Ngài tự than với mình rằng:
“Trông thấy cảnh ấy mà lòng đau xót, ta
biết đó chính là những oán nghiệp xoay vần
vay trả, tạo nên nỗi khổ chất chồng”.
Thiền sư Chí Công biết rõ nhân quả khi nhìn
vào gia đình này. Làm sao chúng ta có thể
hiểu được hết chuỗi nhân quả của từng gia
đình với trùng trùng khác biệt nhau ra
sao. Cho nên những người tu đạo phải rất
cẩn trọng trong khi tu nhân, vì khi nhân
duyên chín mùi sẽ gặt lấy quả tương ứng với nhân đã
gieo. Tại sao người lại trở lại làm người? Là để trả
nợ, trả những món nợ nhân quả ở thế gian. Nếu quí
vị không tìm cách trả món nợ này thì nợ
nần vẫn tiếp tục, như món nợ đã vay của
ngân hàng vậy.
Tôi nhớ một câu chuyện này nữa. Có một gia
đình nuôi một con lừa, dùng nó để kéo cối
xay và chuyên chở. Người chủ thấy lừa quá
chậm chạp nên thường dùng roi đánh nó để
thúc giục. Con lừa làm việc miệt mài trong
cực nhọc cho đến khi chết. Nó được đầu thai
làm người. Khi người chủ hay đánh đập lừa chết, lại
đầu thai làm một người phụ nữ. Khi cả hai người này
đến tuổi thành hôn thì họ cưới nhau.
Quí vị có biết cặp vợ chồng này sống với
nhau như thế nào không? Suốt ngày người
chồng đánh đập người vợ. Ông đánh vợ bất
kỳ lúc nào, bất luận đang cầm vật gì trên
tay, cả lúc đang ăn cơm cũng đánh vợ bằng
đũa. Ông ta vừa đánh vừa chửi, cho dù người vợ
chẳng làm điều gì sai trái.
Một hôm Thiền sư Chí Công đi qua nhà họ. Người phụ nữ bèn thưa với Ngài:
- Chồng con ngày nào cũng đánh và chửi con
qúa chừng mà con không biết tại sao. Bạch
Ngài, xin Ngài hãy dùng ngũ nhãn, lục
thông bảo cho con biết mối tương quan nhân
quả của chúng con đời trước ra sao mà đời
này chồng con đánh đập và chửi mắng con hoài vậy?
Thiền sư Chí Công đáp:
- Tôi sẽ nói rõ tương quan nhân quả của hai
người cho mà nghe. Trong đời trước, bà là
một người đàn ông. Ngày nào bà cũng đánh
đập chửi mắng con lừa, thúc giục nó phải
kéo cối xay bột.
Ông chủ ấy thường đánh con lừa bằng cái
chổi tre. Nay ông chủ được đầu thai lại
làm người phụ nữ, đó chính là bà. Còn con
lừa thì được đầu thai làm người chồng. Nay
ông ta thường hay đánh đập chửi mắng bà
cũng như kiếp trước bà đã thường đánh chửi ông tức
là con lừa vậy. Nay bà đã hiểu rõ nhân quả tương
quan với nhau rồi, tôi sẽ bày cho một cách để chấm
dứt vòng oán nghiệp này. Bà hãy cất giấu tất cả
mọi dụng cụ trong nhà ngoại trừ cái chổi
đuôi ngựa (chổi dây). Khi người chồng thấy
chẳng còn vật gì dùng để đánh cô, anh ta
sẽ cầm chổi dây này để đánh. Cứ để cho anh
ta đánh vài trăm roi, thì nợ cũ của bà mới
được trả. Lúc đó, bà mới báo cho anh ta biết nhân
đời trước và quả đời sau báo ứng với nhau rất rõ
ràng như tôi vừa giải thích cho bà. Anh ta sẽ không
còn đánh bà nữa.
Người phụ nữ làm đúng như lời Thiền sư Chí
Công chỉ dạy. Khi người chồng về đến nhà,
ông ta liền kiếm vật gì đó để đánh vợ. Chỉ
còn thấy chiếc chổi đuôi ngựa, ông ta cầm
lấy và đánh. Thông thường như mọi khi, cô
ta tìm cách chạy trốn. Nhưng lần này cô ta
kiên nhẫn ngồi đó chịu đòn cho đến khi ông chồng
ngừng tay.
Thấy lạ, ông ta hỏi tại sao bà không bỏ
chạy. Cô ta kể lại việc được Thiền sư Chí
Công giải thích cặn kẽ tương quan nhân quả
của hai người. Ông chồng nghe xong ngẫm
nghĩ: “Như thế thì từ nay ta không nên
đánh chửi cô ta nữa. Nếu còn đánh, thì kiếp sau cô
ta sẽ đầu thai trở lại rồi tìm ta để đánh chửi”. Từ
đó ông chồng không còn đánh mắng người vợ nữa.
Thế nên quí vị phải biết mọi người đều có
sự quan hệ với nhau tương ứng với nhân đã
tạo. Quí vị chẳng thể nào biết được trong
đời trước, ai đã từng là mẹ, là anh, là
cha hay là chị em của mình. Cái nhân đã tạo
ở đời trước sẽ tạo thành quả đời này và nhất định có
liên quan đến bà con quyến thuộc của mình. Nếu quí
vị hiểu được đạo lý nhân quả, thì quí vị có thể
chuyển hóa, biến cải được nhân bằng cách từ
bỏ những việc ác.
Còn một chuyện nữa về Thiền sư Chí Công.
Một ngày Ngài ăn hai con chim bồ câu. Ngài
rất thích món ăn này. Người đầu bếp nghĩ
rằng món thịt bồ câu chắc là rất ngon nên
ngày nọ anh ta quyết định nếm thử. Anh ta
làm việc này với hai ý nghĩ: một mặt là muốn thử
xem thức ăn hôm nay mình làm có ngon hay không? một
mặt khác anh ta nghĩ rằng Ngài Chí Công ngày nào
cũng thích ăn bồ câu, nhất định đây là một món
ăn rất ngon, nên muốn thưởng thức một chút
rồi mới đem đến cho Thiền sư dùng.
Khi người đầu bếp mang thức ăn đến. Ngài nhìn đĩa thức ăn và hỏi:
- Hôm nay có ai nếm trộm thức ăn này? Có phải chính anh không?
Người đầu bếp liền chối. Thiền sư liền bảo:
- Anh còn chối. Tôi sẽ cho anh thấy tận mắt ai là người nếm trộm. Hãy nhìn đây!
Ngài liền ngồi ăn. Ăn hết hai con bồ câu
rồi, Ngài liền há miệng rộng, trong đó,
một con bồ câu liền vẫy cánh bay ra còn
con kia thì bị mất một cánh, không thể bay
lên được.
Thiền sư mới bảo:
- Anh thấy đó, nếu anh không nếm trộm thì tại sao con bồ câu này không thể bay được?
Chính là vì ông đã ăn hết một cánh của nó.
Chuyện này làm cho anh đầu bếp biết Thiền
sư Chí Công không phải là người thường.
Ngài chính là hóa thân của Bồ – tát. Thế
nên Ngài có năng lực biến những con bồ câu
bị nấu thành thức ăn rồi thành bồ câu
sống. Không phải là Bồ – tát, không làm chuyện
này được.
Thiền sư Chí Công còn thường ăn một loại cá
gọi là Tuệ Ngư. Cũng đem cá ra nấu nướng
rồi Ngài ăn từ đuôi lên đầu. Nhưng sau đó
Ngài lại há miệng ra làm cá sống lại. Vì
vậy, những việc này là rất thường đối với
cảnh giới của hàng Bồ – tát. Thiền sư Chí
Công là một vị Bồ – tát, nhưng không bao giờ Ngài
nói: “Các ngươi biết không, ta là một vị Bồ – tát,
ta đang giáo hóa chúng sanh, ta có đại nguyện này,
hạnh nguyện kia…” Các vị không bao giờ mong
khởi ý niệm ấy. Cho nên chúng ta là hàng
phàm phu, dù có thấy Chư Phật hay Bồ – tát
cũng không thể nào nhận biết được. Việc
làm của Bồ – tát cũng gần như hành xử của
người thường, nhưng thực chất lại không giống
nhau. Là vì phàm phu khi hành động chỉ nghĩ đến lợi
ích của chính mình, không nghĩ đến sự giúp đỡ cho
người khác. Còn Bồ – tát thì chỉ nghĩ đến lợi ích
của người khác mà không nghĩ đến mình.
Khác nhau là ở điểm này. Bồ – tát thì tự
làm lợi ích cho mình còn lo làm lợi ích
cho người khác. Tự giác ngộ mình xong rồi
giúp cho người khác giác ngộ. Tự độ hoàn toàn,
lợi tha hoàn toàn. ý nghĩa của chú Đại Bi mà tôi
đang giảng cũng nằm trong đạo lý này vậy.
14. Tát bà a tha đậu du bằng
Câu chú này chia làm ba phần. Khi trì tụng lên, câu chú có ba nghĩa khác nhau:
Tát bà có nghĩa là “tất cả”. Còn có nghĩa là “bình đẳng”. Nên Tát bà biểu tượng cho ý thứ hai trong mười tâm, là “bình đẳng tâm”.
Tát bà có nghĩa là “tất cả”. Còn có nghĩa là “bình đẳng”. Nên Tát bà biểu tượng cho ý thứ hai trong mười tâm, là “bình đẳng tâm”.
A tha đậu
dịch nghĩa là “phú lạc vô bần” giàu có, an
lạc, không nghèo nàn về tâm linh, đạo lý, Phật pháp.
Còn dịch nghĩa là “như ý bất diệt”.
“Như ý” nghĩa là ước nguyện điều gì cũng đều được thành tựu.
“Bất diệt” nghĩa là sự thành tựu do nguyện ấy vĩnh viễn không tiêu mất.
Trong mười loại tâm thì đây là “vô vi tâm” nghĩa là “phú lạc vô bần” và “như ý bất diệt”.
Du bằng dịch
là “nghiêm tịnh vô ưu”, là thanh tịnh và
trang nghiêm. Trang nghiêm lại thêm thanh tịnh,
cho nên không có sự lo phiền, ưu não. Câu chú này biểu
tượng cho tâm thứ chín “Vô kiến thủ tâm”. Kiến thủ
là một trong năm món “ngũ lợi sử”. Nghĩa là
khi quí vị vừa trông thấy một vật gì, tâm
liền khởi niệm muốn chiếm đoạt, giữ lấy.
Nên với tâm thứ chín – vô kiến thủ tâm là
trạng thái không có mảy may vọng động về
sự chấp thủ đối với pháp và ngã; đối với chủ thể
cũng như khách thể; đối với ngoại cảnh cũng như dòng
chuyển biến của thức tâm.
15. A thệ dựng
A thệ dựng
la tiếng Phạn, dịch nghĩa “vô tỷ pháp”.
Không có pháp nào có thể so sánh được với pháp này.
Còn có nghĩa là “vô tỷ giáo” nghĩa là không có đạo
giáo nào có thể so sánh được. Câu chú này biểu tượng
cho tâm thứ bảy, được gọi là “ty hạ tâm”,
là tâm rất cung kính và tùy thuận bất kỳ
người nào mình gặp. Câu chú này còn biểu
tượng cho tâm thứ tám, gọi là “vô tạp loạn
tâm”. Đây chính là pháp thanh tịnh, không
chút cấu nhiễm, chính là pháp bát nhã tâm của
Quán Thế Âm Bồ – tát.
Mười loại
tâm này là tướng của Đà - la – ni, chúng
ta phải đem những đạo lý này hành trì không xao
nhãng và gián đoạn. Chúng ta tu tập theo tinh thần của
kinh Đại bi tâm Đà la ni thì chắc chắn sẽ thành tựu
đạo nghiệp, đắc thành chánh quả.
16. Tát bà tátđá, na ma bà tát đa, na ma bà già
Tát bà tát đá là tiếng Phạn, dịch là “Đại thân tâm Bồ – tát”.
Na ma bà tát
đa. Hán dịch là “đồng trinh khai sĩ”, là
tên gọi khác của pháp vương tử, cũng là hàng Bồ –
tát. “Đồng trinh” biểu tượng cho bản tánh. Còn “khai
sĩ” cũng là một danh hiệu khác của Bồ –tát, có nơi
gọi là “đại sĩ”. Các vị Bồ – tát lúc sắp
thành tựu Phật quả, đều được gọi là pháp
vương tử, tên gọi của hàng Thập địa Bồ –
tát.
Na ma bà
già. Hán dịch là “Vô đẳng đẳng”. Giống như
ý nghĩa trong Bát nhã tâm kinh “Cố tri Bát – nhã ba
– la – mật - đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú,
thị vô lượng chú, vô đẳng đẳng chú”.
Quí vị có
thể hỏi: “Cái gì không thể sánh bằng?” “Đó
là bà già, Hán dịch là Thế tôn”. Bà già là chư Phật
thường trụ ở khắp trong mười phương.
17. Ma phạt đạt đậu
Ma phạt đạt đậu dịch nghĩa là “Thiên thân, thế hữu”.
Câu chú này
có nghĩa là: “Kính lạy chư Bồ – tát, xin
hãy duỗi lòng từ cứu giúp con. Xin các Ngài hãy là
thân quyến ở cõi trời của chúng con và là người bạn
ở cõi thế gian này của chúng con, để hộ trì cho mọi
thiện pháp được thành tựu”.
Câu chú này thỉnh nguyện sự gia trì của mười phương chư Phật và chư Bồ – tát.
18. Đát điệt tha - án
Trong Bát nhã tâm kinh có nói: “Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết...”
Đát điệt tha
Hán dịch là “tức thuyết chú viết”. Còn
dịch là “Sở vị”. Bồ – tát Quán Thế Âm dùng Tâm đại
bi mà nói ra chơn ngôn này, nói bằng các chủng tự của
Phạm Thiên.
Đát điệt tha
còn có nghĩa là “thủ ấn” nghĩa là kết ấn
bằng tay. Cũng gọi là “trí nhân” nghĩa là khai mở
con mắt trí tuệ của chúng sinh.
Đát điệt tha
lại còn có nghĩa là vô lượng pháp môn tu
học và trí huệ nhãn vô lượng. Đó là ý nghĩa của
“Sở vị”.
Chữ án như
đã nói ở trước, khi quí vị trì niệm trì
niệm đến chữ án thì quỷ thần đều phải chắp tay cung
kính, lắng nghe người niệm chỉ giáo. Chữ án còn có
công năng lưu xuất nhiều pháp môn sau đây.
19. A bà lô hê
A bà lô hê
chính là Bồ – tát Quán Thế Âm. Có nghĩa là
“quán sát”. Dùng trí tuệ để quán sát mọi âm thanh
oqr thế gian. Trong thế gian có nhiều loại âm thanh.
Bồ – tát Quán Thế Âm quán sát âm thanh, tiếng kêu
than cầu xin cứu khổ của người ở thế gian
khi họ không thể vượt qua nổi những khổ
nạn.
20. Lô ca đế
Lô ca đế
nghĩa là “Tự tại” hoặc là “Thế Tôn”. Hợp lại
hai câu trên A bà lô hê lô ca đế nghĩa là Bồ – tát
dùng trí tuệ để quán sát âm thanh ở thế gian. Chính
là danh hiệu của Bồ – tát Quán Thế Âm.
21. Ca ra đế
Ca ra đế
dịch là “Bi giả” là người có lòng từ bi rộng
lớn, thường cứu giúp chúng sinh thoát khỏi khổ đau
và thất vọng. Người mà có thể cứu giúp cho chúng
sinh vơi bớt khổ đau là một người “đại bi”. Ca ra đế
còn có nghĩa là “tác giả”. Người có thể
làm cho đạo nghiệp sinh khởi, giúp cho mọi
chúng sinh đều phát tâm bồ - đề, phát
nguyện làm những việc khó làm như hành Bồ –
tát đạo để tiến tới tựu thành Phật quả.
22. Di hê rị
Di hê rị
dịch nghĩa là “Thuận giáo”. Khi quí vị trì
tụng đến câu chú này, nghĩa là quí vị tự phát nguyện:
“Con nhất quyết thực hành theo hạnh nguyện của Bồ –
tát Quán Thế Âm, sẽ giáo hoá cho tất cả chúng
sanh. Con nguyện nương theo giáo pháp Ngài
đã dạy mà tu hành”.
Di hê rị còn
có nghĩa là “Y giáo phụng hành”. Nương
theo lời dạy của Bồ – tát Quán Thế Âm cũng như Quán
Thế Âm của tự tâm để thực sự tu trì.
23. Ma ha bồ đề tát đoả
Ma ha có nghĩa là “đại” là to lớn.
Bồ - đề có nghĩa là “giác đạo”, là giác ngộ được đạo lý chân chính.
Tát đoả. Hán
dịch là “đại dũng mãnh giả”. Câu này có
nghĩa chư vị Bồ – tát là người phát tâm đại bồ - đề
rất dũng mãnh và phát tâm tu hạnh Bồ đề. Phát bồ đề
tâm nghĩa là gieo trồng nhân giác ngộ, tu bồ - đề
hạnh là vun trồng, tưới tẩm cho hạnt giống
bồ - đề đã gieo được nảy mầm, rồi mới
mong gặt được quả giác ngộ, tức là quả vị
Vô thượng bồ - đề.
Đây là ý
nghĩa của câu chú Ma ha Bồ đề tát đoả. Câu
chú này thuyết minh về công hạnh trang nghiêm viên
mãn của chư vị Bồ – tát là do định huệ song tu. Khi
Định đã lắng trong thì Huệ cũng được chiếu sáng. Khi
Huệ đã viên mãn, thì Định viên dung. Vì
Bồ – tát Quán Thế Âm đã đạt được định lực
viên mãn, nên xuất sinh trí tuệ sáng suốt.
Vì Bồ – tát đã đạt được trí tuệ viên mãn,
nên Ngài mới đạt được định lực lắng
trong. Không có Định thì chẳng có Huệ và không có Huệ
thì chẳng đạt được Định. Nên gọi định huệ không hai
là vậy.
Do nhờ tu
tập vô số công hạnh mà Bồ – tát được trang
nghiêm thân tướng nên chư vị không rời bỏ một pháp
nào dù nhỏ bé hoặc vô cùng vi tế. Dù một việc thiện
nhỏ nhất, cho đến lớn nhất, chư vị Bồ – tát đều hoàn
tất chu đáo. Nên kinh có dạy”
“Chớ khinh việc thiện nhỏ mà không làm
Chớ xem thường việc ác nhỏ mà không tránh”.
Các vị Bồ –
tát thường siêng năng làm các điều thiện
và dứt khoát từ bỏ các việc ác, chư vị phát bồ - đề
tâm và đạt được quả vị giác ngộ Vô thượng bồ - đề.
Chư vị trang nghiêm pháp thân bằng vô số công hạnh.
Chư vị phát đại bi tâm, thực hành đại pháp
vô duyên từ tuỳ theo tâm lượng của chúng
sinh mà làm Phật sự. Nhưng chính các vị Bồ
– tát, tự bản tánh và bản thể của các
Ngài không hề gợn một mảy may tướng trạng của
chúng sinh tâm. Các Ngài tự thấy mình và toàn thể
chúng sinh có đồng một thể tánh, không hề phân hai.
Các Ngài không chỉ chịu khổ cho riêng mình, mà ước
nguyện giúp cho chúng sinh thoát khỏi mọi
khổ luỵ. Dù các Ngài chuyển hoá tất cả
mọi sự thống khổ cho chúng sinh mà không
hề dính mắc chút nào vào việc mình có độ
thoát cho chúng sinh. Các Ngài không bao
giờ tự cho rằng:
“Tôi đã cứu
độ cho anh rồi, nay anh phải cám ơn tôi.
Tôi đã giúp anh thoát khỏi mọi phiền não, anh phải tỏ
ra biết ơn tôi”.
Chính vì chư
vị Bồ – tát không có tâm niệm như vậy,
nên các Ngài mới có thể ứng hiện ba mươi hai thân tướng,
để kịp thời đáp ứng mọi tâm nguyện của mọi loài
chúng sinh. Chẳng hạn như cần ứng hiện thân Phật để
độ thoát chúng sinh, thì chư vị Bồ – tát
liến ứng hiện thân Phật để giảng dạy giáo
pháp cho chúng sinh khiến họ được giải
thoát. Nếu cần thiết hiện thân Bích Chi
Phật, thì các Ngài liền ứng hiện thân Bích Chi Phật
để giáo hoá chúng sinh, giúp họ được giải thoát.
Cũng như vậy, các Ngài có thể ứng hiện thân A la hán,
vua chúa... để giúp cho chúng sinh được độ
thoát. Chư vị Bồ – tát có khả năng hóa
hiện thành ba mươi hai ứng thân để cứu độ
các loài chúng sinh. Các Ngài cũng có được
mười bốn pháp vô uý và bốn pháp bất khả
tư nghì. Đó là bốn loại thần thông diệu dụng không
thể nghĩ bàn. Các Ngài đã chứng đạt được quả vị chân
thật viên thông, đã thành tựu quả vị Vô thượng bồ -
đề. Đó là sự thành tựu quả vị của Bồ – tát
Quán Thế Âm.
24. Tát bà tát bà
Tát bà tát
bà. Hán dịch là “nhất thiết lợi lạc”. Câu
chú này bao hàm cả Bảo thủ nhãn ấn pháp, nghĩa là
mang đến mọi thứ lợi lạc cho mọi người.
Bằng cách
hành trì ấn pháp này, quí vị có khả năng
đem sự an vui lợi lạc đến cho hết thảy mọi loài
chúng sinh. Thiên vương, Diêm vương, Quỷ vương đều
chấp hành theo người trì tụng ấn chú này. Quí vị bảo
họ: “Hãy thả tội nhân này ra” thì Diêm vương
liền tức khắc thả ra liền. Vì sao vậy? Vì
quí vị đã có được Bảo ấn này.
Bảo ấn này
cũng như ấn của vua vậy. Trên chiếu thư có
ngọc ấn của vua thì khắp thiên hạ, ai có trách
nhiệm gì cũng phải tuân theo chiếu thư mà thi hành,
không ai dám chống lại. Với Bảo ấn, quí vị có thể
làm lợi lạc, an vui cho mọi loài chúng sinh. Quí
vị có thể chỉ bảo cho họ biết sự lợi lạc
để phát nguyện hành trì. Và sẽ đạt được sự
an lành. Vì vậy nên gọi là “Nhất thiết
lợi lạc”.
Người Trung
Hoa đều biết có một vị Tiên, biết sử dụng
một ấn chú gọi là “Phiên thiên ấn”. Người con của Quảng
Thành vương cũng có một phiên thiên ấn. Chính là ấn
này vậy. Đạo Lão gọi là “Phiên thiên ấn”. Bồ –
tát Quán Thế Âm gọi là “Bảo ấn”.
Nếu quí vị
dụng công hành trì thì nhất định sẽ thành
tựu Bảo ấn này. Khi thành tựu rồi, nếu có người vừa
mới chết hoặc sắp chết, quí vị chỉ cần trì ấn này
vào một tờ giấy, và viết vài dòng cho Diêm vương:
“Hãy tha cho người này sống lại ngay. Hãy tha
cho anh ta trở về dương gian”. Diêm vương
không dám từ chối. Diệu dụng của Bảo ấn có
thể giúp cho người chết sống lại. Nhưng
để sử dụng được Bảo ấn này, trước hết quí
vị phải thành tựu công phu tu tập đã. Nếu công
phu chưa thành tựu thì chẳng có kết quả gì.
Thế nào
nghĩa là thành tựu công phu tu hành? Cũng giống
như đi học. Trước hết, quí vị phải vào tiểu học, rồi
lên trung học, rồi thi vào đại học. Rồi cuối cùng có
thể được học vị Tiến sĩ.
Tu tập để
thành tựu Bảo ấn này cũng như đạt được học
vị Tiến sĩ vậy. Nhưng tạm ví dụ vậy thôi, chứ Bảo ấn
này không có gì so sánh được.
Tát bà tát
bà nghĩa là “lợi lạc cho tất cả mọi loài
chúng sinh”. Quí vị thấy sự diệu dụng vô biên đến
như thế. Nên gọi ấn này là Bảo ấn. Nếu quí vị muốn sử
dụng được Bảo ấn này thì phải công phu tu trì qua cả
bốn mươi hai thủ nhãn. Tát bà tát bà chỉ
là một trong bốn mươi hai ấn pháp ấy mà
thôi.
Có người
nghe tôi giảng như vậy sẽ khỏi nghĩ rằng:
“Ta sẽ tu tập Bảo ấn này ngay để bất kỳ lúc nào có
người sắp chết, ta sẽ sử dụng ấn này, ra lệnh cho
Diêm vương không được bắt người ấy chết”. Quí vị cứ
thực hành, quí vị có thể giúp người kia khỏi
chết, như ng đến khi quí vị phải chết, thì
chẳng có người nào giúp quí vị thoát khỏi
chết bằng Bảo ấn này cả.
Tôi đã có
dịp sử dụng ấn này hai lần. Một lần ở Mãn
Châu và một lần ở Hương Cảng. Lần ở Mãn Châu là trường
hợp cứu một người sắp chết. Người này chắc chắn sẽ
chết nếu tôi không sử dụng Bảo ấn này. Vào một
chiều trời mưa ngày 18 tháng 4 âm lịch.
Một người tên là Cao Đức Phúc đến chùa Tam
Duyên, nơi tôi đang ngụ. Anh ta quỳ trước
tượng Phật, cầm một cây dao bọc trong
giấy báo, chuẩn bị sẵn sàng chặt tay để cúng
dường chư Phật. Quí vị nghĩ sao? Anh ta khôn ngoan
hay không? Dĩ nhiên là quá ngu dại. Tuy nhiên sự ngu
dại của anh ta lại xuất phát từ lòng hiếu đạo.
Quí vị biết không. Mẹ anh ta bị bệnh trầm
trọng gần chết. Do vì thường ngày mẹ anh
ta nghiện thuốc phiện nặng. Nhưng bệnh bà
quá nặng đến mức hút thuốc phiện cũng
không được nữa. Bà ta nằm co quắp, chẳng ăn uống gì.
Đầu lưỡi đã trở sang màu đen, môi miệng nứt nẻ. Bác
sĩ Đông, Tây y đều bó tay, không hy vọng gì còn
chữa trị được. Nhưng người con trai của bà
nguyện: “Lạy Bồ – tát rất linh cảm, con
nguyện đến chùa Tam Duyên chặt tay cúng
dường chư Phật. Với lòng chí thành, con
nguyện cho mẹ con được lành bệnh”.
Ngay khi
chàng trai sắp chặt tay, có người nắm tay
anh ta lôi lại đằng sau rồi nói: “Anh làm gì thế,
anh không được vào đây mà tự sát”.
Anh ta trả lời:
- “Tôi chỉ
chặt tay cúng dường chư Phật, cầu nguyện
cho mẹ tôi được lành bệnh. Ông đừng cản tôi”.
Chàng trai
chống lại, nhưng người kia không để cho
anh ta chặt tay nên liền cho người báo cho Hoà thượng
trụ trì biết. Hoà thượng cũng không biết phải làm
sao, Ngài liền phái cư sĩ Lý Cảnh Hoa, người hộ pháp
đắc lực của chùa đi tìm tôi.
Dù lúc ấy,
tôi vẫn còn là chú Sa – di. Tôi được giao
nhiệm vụ như là tri sự ở chùa Tam Duyên, chỉ dưới
Hoà thượng trụ trì. Tôi chỉ là một chú tiểu, nhưng
không giống như những chú tiểu cùng ăn chung nồi,
cùng ngủ chung chiếu. Tôi thức dậy trước mọi
người và ngủ sau tất cả mọi người. Tôi làm
những việc mà không ai muốn làm và chỉ ăn
một ngày một bữa trưa, không ăn phi thời.
Tu tập chính là sửa đổi những sai lầm vi
tế. Nếu khi chưa chuyển hoá được những lỗi lầm
nhỏ nhặt ấy, có nghĩa là mình còn thiếu năng lực
trong công phu.
Hoà thượng trụ trì giao việc đó cho tôi. Tôi liền đến bạch Hoà thượng:
- “Phật tử đến cầu Hoà thượng cứu giúp. Nay Hoà thượng lại giao cho con. Hoà thượng làm cho con thật khó xử”.
Hoà thượng trụ trì bảo:
- “Con hãy đem lòng từ bi mà cứu giúp họ”.
Hoà thượng dạy những lời rất chí lý. Tôi
vốn chẳng ngại khó nhọc, nên khi nghe
những lời đó, tôi rất phấn khích, tôi
thưa:
- Bạch Hoà thượng, con sẽ đi.
Tôi bảo chàng trai:
- Anh hãy về nhà trước, tôi sẽ theo sau.
Anh ta nói:
- Nhưng thầy chưa biết nhà con?
Tôi đáp:
- Đừng bận tâm về tôi. Hãy cứ về nhà trước.
Lúc ấy là vào khoảng năm giờ chiều, mặt
trời vừa xế bóng. Anh ta đi theo đường lộ
chính, còn tôi đi theo đường mòn. Nhà anh
ta cách chùa chừng sáu dặm. Anh ta quá đỗi
sửng sốt khi về đến nơi, anh ta đã thấy
tôi ngồi đợi anh trong nhà.
- Bạch thầy, sao mà thầy biết nhà con mà đến sớm thế?
Tôi nói:
- Có lẽ anh vừa đi vừa chơi, hoặc anh ham xem bóng đá hay truyền hình gì đó.
Cậu ta đáp:
- Thưa không, con cố hết sức đi thật nhanh để về nhà.
Tôi nói:
- Có lẽ xe đạp của anh đi không được nhanh như xe tôi, nên tôi đến trước.
Ngay khi vào thăm bà mẹ, tôi thấy không thể
nào cứu sống bà ta được. Nhưng tôi vẫn
quyết định cố gắng hết sức để cứu bà. Tôi
dùng Bảo ấn viết mấy dòng:
“Chàng trai này có tâm nguyện rất trí
thành, nguyện chặt tay cúng dường chư Phật
để cứu mẹ sống. Tôi đã ngăn cản anh ta
chặt tay. Bằng mọi cách, xin cho mẹ anh ta
được sống”.
Tôi gửi Bảo ấn đi, sáng hôm sau bà ta vốn
đã nằm bất động suốt bảy, tám ngày nay,
chợt ngồi dậy gọi con trai bằng tên tục.
- Phúc ơi... Phúc ờ... mẹ đói quá, cho mẹ tí cháo...
Chàng trai suốt bảy, tám ngày nay không
nghe mẹ gọi. Nay cực kỳ vui sướng. Anh ta
chạy đến bên giường nói với mẹ:
- Mẹ ơi, mẹ đã nằm liệt giường suốt tám ngày nay. Nay mẹ khoẻ rồi chứ?
Bà ta trả lời:
- Chẳng biết bao lâu nữa. Mẹ bị rượt chạy
trong một cái hang tối đen thăm thẳm không
có ánh sáng mặt trời, mặt trăng ánh sao
hay đèn đuốc gì cả. Mẹ chạy và cứ chạy hết
ngày này qua ngày khác để tìm đường về
nhà mình. Mẹ có kêu, nhưng chẳng ai nghe. Cho đến
đêm hôm qua, mẹ mới gặp một vị sư khổ hạnh mang y cà
sa đã mòn cũ, vị này đã dẫn mẹ về nhà... Con cho mẹ
ăn tí cháo loãng để cho đỡ đói.
Người con nghe mẹ nói đến vị sư, liền hỏi:
- Nhà sư mẹ gặp dung mạo như thế nào?
Bà đáp:
- Ngài rất cao. Nếu mẹ được gặp lại, mẹ sẽ nhận ra ngay.
Lúc đó tôi đang nghỉ trên giường. Anh ta liền đến bên tôi, chỉ cho mẹ và hỏi:
- Có phải vị sư này không?
Bà nhìn tôi chăm chú rồi kêu lên:
- Đúng rồi, chính thầy là người đã đưa mẹ về nhà.
Lúc đó, toàn gia quyến chừng mười người, gồm cả già trẻ, đều quỳ xuống trước mặt tôi thưa:
- Bạch Thầy, Thầy đã cứu mẹ con sống lại.
Nay toàn gia đình chúng con cầu xin được
quy y thọ giới với Thầy. Bất luận nhà chùa
có việc gì, con nguyện đem hết sức mình
xin làm công quả, và tuân theo lời chỉ dạy
của Thầy để tu hành.
Về sau, dân cả làng này đều đến chùa xin quy y và cầu xin tôi chữa bệnh cho họ. Tôi bảo:
- Tôi chỉ có phép chữa bệnh bằng cách đánh đòn. Quí vị có chịu thì tôi chữa.
Họ đồng ý và tôi phải chữa. Có nghĩa là bắt
người bệnh nằm xuống, đánh một người ba
hèo bằng cái chổi tre. Đánh xong, tôi hỏi:
- Đã hết bệnh chưa?
Thật là ngạc nhiên. Họ lành bệnh thật!
Đó là một chuyện phiền phức xảy ra ở Mãn
Châu. Lần thứ 2 tôi dùng Bảo ấn này là ở
Hương Cảng. Khi bố của cô Madalena Lew 79
tuổi bị bệnh. Các vị bói toán đều bảo rằng
ông ta chắc chắn sẽ qua đời trong năm
nay. Ông ta đến gặp tôi xin quy y Tam Bảo để cầu
nguyện gia hộ cho ông được sống thêm ít năm nữa.
Ông thưa:
- Bạch Thầy. Xin Thầy giúp cho con được sống thêm một thời gian nữa.
Tôi bảo:
- Thế là ông chưa muốn chết. Tôi sẽ giúp cho ông sống thêm 12 năm nữa? Được chưa?
Ông rất mừng vội đáp:
- Thưa vâng, được như thế thật là đại phúc.
Rồi tôi chú nguyện cho ông ta và ông ta được sống thêm 12 năm nữa.
Tuy nhiên, quí vị không nên dùng ấn pháp này để giúp cho người ta khỏi chết hoặc là cứu họ sống lại khi họ đã chết rồi. Nếu quí vị làm như vậy, quí vị trở nên đối đầu với Diêm vương. Lúc ấy Diêm vương sẽ nói:
Tuy nhiên, quí vị không nên dùng ấn pháp này để giúp cho người ta khỏi chết hoặc là cứu họ sống lại khi họ đã chết rồi. Nếu quí vị làm như vậy, quí vị trở nên đối đầu với Diêm vương. Lúc ấy Diêm vương sẽ nói:
- Được rồi. Thầy đã giúp cho người ta khỏi chết, nay Thầy phải thế mạng.
Đến khi quí vị gặp cơn vô thường; chẳng có
ai dùng Bảo ấn này để giúp được cả. Nếu
quí vị nghĩ rằng mình có thể sử dụng Bảo
ấn để cứu mình khỏi chết là quí vị lầm.
Diệu dụng của ấn pháp cũng giống như lưỡi
dao, tự nó không thể cắt đứt được chuôi dao của
chính nó. Nên khi quí vị gặp bước đường cùng, thì
cũng giống như chuyện vị Bồ – tát bằng đất nung:
Bồ Tát bằng đất nung đi qua biển.
Khó lòng giữ thân được vẹn toàn.
Vậy nên nếu quí vị dù đã thông thạo trong
khi sử dụng ấn pháp này, cũng phải công
phu hành trì thêm. Vì lý do này mà tôi ít
để ý đến việc riêng của người khác nữa.
25. Ma ra ma ra
Hai câu chú này, Hán dịch là “tăng trưởng”.
Cũng có nghĩa là “như ý” hoặc “tuỳ ý”. Đó
là công năng của Như ý Châu thủ nhãn, làm
tăng trưởng phước huệ, làm cho mọi việc
đều được tốt lành như ý.
“Như ý” nghĩa là tuỳ thuận với tâm nguyện mà được đáp ứng.
Quí vị có thấy lợi ích vô biên của ấn pháp
này không? Vì vậy nên công năng ấn pháp
này là thứ nhất trong bốn mươi hai thủ
nhãn ấn pháp. Diệu dụng của Như ý Châu thủ
nhãn vượt ngoài sự diễn tả bằng ngôn ngữ.
Nếu quí vị muốn giàu có, hãy hành trì theo
thủ nhãn ấn pháp này. Một khi đã thành tựu
rồi, thì quí vị sẽ có được mọi thứ và
không còn bận tâm vì nghèo khổ nữa. Quí vị
luôn luôn giàu có và được vô lượng phước
lạc.
26. Ma hê ma hê rị đà dựng
Ma hê ma hê. Hán dịch là “Vô ngôn cực ý”
“Vô ngôn” nghĩa là không cần phải nói nữa.
“Cực ý” có nghĩa là ý niệm kia đã đạt đến chỗ tối thượng, đã đạt chỗ vi diệu rồi.
Ma hê ma hê
cũng còn có thể dịch là “tự tại”. Tự tại
như Đại Phạm Thiên Vương: không buồn, không phiền,
không lo, không giận. Suốt ngày đều được tự chủ và
an vui.
Đây là “ngũ sắc vân thủ nhãn”. Khi biết ấn này, sẽ làm lưu xuất ra mây lành ngũ sắc, và hành giả sẽ đạt được năng lực tự tại phi thường. Diệu dụng và năng lực tự tại của ấn pháp này thực là vô lượng vô biên.
Đây là “ngũ sắc vân thủ nhãn”. Khi biết ấn này, sẽ làm lưu xuất ra mây lành ngũ sắc, và hành giả sẽ đạt được năng lực tự tại phi thường. Diệu dụng và năng lực tự tại của ấn pháp này thực là vô lượng vô biên.
Rị đà dựng
là “Thanh Liên Hoa thủ nhãn”. Có nghĩa là
“Liên hoa tâm”. Khi quí vị hành trì ấn pháp này
thành tựu, sẽ được mùi hương hoa sen xanh toả ra, và
được mười phương chư Phật tán thán. Sự vi diệu thật
khó có thể nghĩ bàn. Đúng là:
Pháp Phật cao siêu thật nhiệm mầu
Trăm ngàn ức kiếp khó tìm cầu!
27. Cu lô cu lô yết mông
Cu lô cu lô.
Hán dịch là “tác pháp”, hoặc dịch là “tác
dụng trang nghiêm”, lại còn có nghĩa là “xuy
loa giải giới”. Đây ta chính là Bảo loa thủ nhãn ấn
pháp.
Nay chúng ta
đang sống trong thời mạt pháp. Nhiều
người nghĩ rằng chỉ cần trì tụng chú Đại Bi là khế hợp
với chân tinh thần Phật pháp rồi, nhưng thực ra
không phải thế. Chú Đại Bi là gọi thay cho bốn mươi
hai thủ nhãn ấn pháp và diệu dụng của chú
Đại Bi là diệu dụng của bốn mươi hai thủ
nhãn ấn pháp, đó chính là toàn thể của chú
Đại Bi. Nếu quí vị chỉ biết trì niệm chú
Đại Bi mà không hành trì bốn mươi hai thủ
nhãn ấn pháp thì như người có tay mà không có
chân, nên không thể đi được. Mặt khác, nếu quí vị chỉ
biết hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp mà không
trì niệm chú Đại Bi thì cũng như người có
chân mà không có tay, không làm gì được
cả. Cũng vô dụng mà thôi. Vậy nên để liễu
triệt chú Đại Bi, trước hết quí vị phải
thông đạt bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp
rồi phải trì tụng chú Đại Bi nữa, mới được gọi là
người thành tựu rốt ráo diệu pháp này của chư Phật.
Không phải chỉ vừa mới nghe pháp sư giảng về chú Đại Bi xong rồi liền nói:
- “à! Tôi đã hiểu được câu chú đó nghĩa là gì rồi”.
- “à! Tôi đã hiểu được câu chú đó nghĩa là gì rồi”.
Hiểu như thế
cũng chẳng ích lợi gì cả. Cũng giống như
người có thân thể nhưng chẳng có tay chân gì cả.
Quí vị đã có đủ cả thân thể, tay chân, phải giúp cho
chúng hoạt động phối hợp với nhau mới làm nên phước
đức được.
Bảo loa thủ
nhãn ấn pháp là dùng để tác pháp khi quý
vị kiến lập đạo tràng, quý vị nên dùng Bảo loa ấn
pháp này. Khi quý vị tác pháp này thì những âm thanh
vang lên tận cõi trời, thấu tận địa ngục. Khắp cõi
nhân gian, và khắp mọi nơi đều có ảnh hưởng.
Bất kỳ mọi nơi nào nghe đến âm thanh này
đều ở trong sự điều khiển của người trì ấn
pháp. Các loài yêu ma quỷ quái đều phải
tuân phục, không thể xâm hại. Đây còn gọi
là sự kiết giới.
ấn pháp này còn gọi là “tác dụng trang nghiêm”. Có nghĩa là dùng cơn lốc quang minh tâm lực của Bảo loa ấn pháp sẽ tạo nên một pháp âm vi diệu, khiến cho đất bằng hoá thành vàng ròng, đều được trang nghiêm bằng bẩy thứ châu báu. Thật là vi diệu khó thể nghĩ bàn. Quý vị Phật tử đang tu học Phật Pháp nên biết rằng trong 300 năm trở lại đây, không có ai hành trì được bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp và cũng chẳng có ai thông hiểu được các ấn pháp này.
ấn pháp này còn gọi là “tác dụng trang nghiêm”. Có nghĩa là dùng cơn lốc quang minh tâm lực của Bảo loa ấn pháp sẽ tạo nên một pháp âm vi diệu, khiến cho đất bằng hoá thành vàng ròng, đều được trang nghiêm bằng bẩy thứ châu báu. Thật là vi diệu khó thể nghĩ bàn. Quý vị Phật tử đang tu học Phật Pháp nên biết rằng trong 300 năm trở lại đây, không có ai hành trì được bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp và cũng chẳng có ai thông hiểu được các ấn pháp này.
Nay chúng ta
đã hiểu được chú Đại Bi, chúng ta nên chí
thành và phát tâm kiên cố hành trì bốn mươi hai
thủ nhãn ấn pháp này. Rồi sẽ có được diệu dụng.
Yết mông là
tiếng Phạn, vốn là ngôn ngữ của Đại phạm
thiên, chứ không phải là ngôn ngữ của ấn Độ, nhưng
văn pháp ngôn ngữ ấn Độ cũng căn cứ trên ngôn ngữ của
Đại phạm thiên.
Yết mông là
tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự”, cũng
dịch là “công đức”. Có nghĩa là làm tất cả mọi việc
có công đức lợi lạc cho mọi người. Làm việc lợi lạc
công đức cho mọi người cũng chính là tạo công đức
cho chính mình. Bồ – tát thực hành hạnh tư
lợi và lợi tha, tự giác ngộ giải thoát cho
mình và giác ngộ giải thoát cho người
khác.
Câu chú này
nói đến sự thực hành lục độ và vạn hạnh.
Đó chính là Bạch Liên Hoa thủ nhãn ấn pháp. Hãy tưởng
tượng quí vị đang cầm trong tay đoá hoa sen trắng.
Tay quí vị cầm cành hoa sen và miệng trì niệm chú
Yết mông yết mông...
Không những
quí vị trì tụng chú mà còn hành trì mật
ấn. Khi trì tụng cả hai pháp này, quí vị mới có thể
tạo nên mọi công đức. Khi quí vị trì tụng chú Đại
Bi, đồng thời cũng thông hiểu được cách hành trì bốn
mươi hai thủ nhãn ấn pháp thì quí vị mới có
thể thành tựu lục độ vạn hạnh. Diệu dụng
bất khả tư nghì, không bao giờ nói hết
được. Nếu có thể nói được chỗ nhiệm mầu ấy
thì nó phải có ngần mé. Mà những điều mầu
nhiệm thì không có hạn lượng, không có chỗ khởi đầu
và kết thúc. Với sự trì niệm Yết mông, quí vị có thể
thành tựu được vô lượng công đức. Trong nhiều đời
sau, quí vị mãi mãi được trang nghiêm bởi
hương thơm của hoa sen trắng và luôn luôn
được hộ trì.
Sự vi diệu,
mầu nhiệm của chú Đại Bi dù có tán thán
cũng không bao giờ hết, không bao giờ cùng tận.
28. Độ lô độ lô, phạt già ra đế
Độ lô độ lô.
Hán dịch là “độ hải” nghĩa là vượt qua
biển khổ sinh tử. Còn dịch nghĩa “minh tịnh”.
Khi đã vượt
qua biển khổ sinh tử rồi, quí vị sẽ đạt
được trí tuệ sáng suốt, chứng nhập bản thể thanh tịnh,
đến được bờ bên kia, tức thể nhập Niết Bàn. Từ trong
bản thể sáng suốt thanh tịnh ấy, trí tuệ sẽ được
lưu xuất, quí vị sẽ hiểu rõ được tất cả
mọi pháp môn, chắc chắn quí vị sẽ chấm dứt
được vòng sinh tử. Với đại định, tâm quí
vị hoàn toàn thanh tịnh. Đó là định lực, khi
quí vị có được định lực chân chánh thì có thể vãng
sanh ở cõi tịnh độ tươi sáng, đó là thế giới Cực Lạc.
Đây là
Nguyệt Tịnh Ma Ni thủ nhãn ấn pháp, là diệu
pháp Đà - la – ni do Bồ – tát Nguyệt Quang tuyên
thuyết. ấn pháp Nguyệt Tịnh thủ nhãn này có công
năng đưa mọi người đến chỗ sáng suốt và an lạc.
Phạt già ra đế là Bàng Bi thủ nhãn ấn pháp.
Phạt Già Ra
đế. Hán dịch là “Quảng bác trang nghiêm”,
còn có nghĩa là “Quảng đại”. Cũng dịch là “độ sinh tử”.
Nếu quí vị tu tập hành trì Bàng Bi thủ nhãn ấn pháp
này thì quí vị có thể vượt qua biển khổ sinh tử,
có nghĩa là giải thoát. Nếu quí vị không
công phu hành trì ấn pháp bàng bi thủ nhãn
này, thì không thể nào vượt thoát bể khổ
sinh tử, đến bờ giải thoát, niết bàn được.
29. Ma ha phạt già da đế
Câu chú này có nghĩa là “Tối thắng, đạipháp đạo”.
Pháp là
quảng đại, tối thắng và đạo cũng quảng đại,
tối thắng. Pháp đạo là chân lý vượt lên trên tất cả
mọi sự thù thắng nhất trên đời.
Đây là Bảo
Kích thủ nhãn ấn pháp. ấn pháp này có công
năng hàng phục các loại thiên ma và ngoại đạo.
Công năng của ấn pháp này rất lớn. Chẳng hạn ấn pháp
này có thể bảo vệ quốc gia chống nạn ngoại xâm. Nếu
quốc gia của quí vị sắp bị xâm lăng, và nếu
quí vị hành trì ấn pháp này thì vô hình
trung, quân giặc bắt buộc phải rút lui.
30. Đà la đà la
Tiếng Phạn
rất khó hiểu. Ngay cả những ai đã học tiếng
Phạn thông thạo rồi cũng khó có thể hiểu được mật
chú và giảng giải rõ ràng được. Tôi chỉ nhờ hiểu một
chút ít thần chú Đại Bi mà thôi.
Đà là đà la
là Tịnh bình thủ nhãn ấn pháp. Trong tịnh
bình này chứa nước cam lồ. Bồ – tát Quán Thế Âm dùng
cành dương liễu rưới nước cam lồ lên khắp chúng sanh
trong sáu đường. Bất luận ai gặp nạn khổ hay bệnh
tật gì, nếu được Bồ – tát Quán Thế Âm rưới
nước cam lồ thì đều giải thoát khỏi tai
nạn ấy.
Đà la đà la.
Hán dịch là “Năng tổng trì ấn”, là tâm
lượng của toàn chúng sinh. Chính là Bồ – tát Quán Thế
Âm dùng Cam lồ thủ nhãn ấn pháp, Tịnh bình thủ nhãn
ấn pháp và Dương chi thủ nhãn ấn pháp – tất cả ba
ấn pháp ấy để rưới nước cam lồ lên toàn
thể chúng sinh, cứu độ chúng sinh ra khỏi
tam đồ lục đạo.
31. Địa lỵ ni
Địa lỵ ni.
Hán dịch rất nhiều nghĩa. Thứ nhất là
“thậm dõng” nghĩa là dũng khí mãnh liệt. Cũng có
nghĩa là “tịnh diệt hoặc khiết tịnh”.
“Thậm dũng” là dạng tướng động.
“Tịnh diệt” là dạng tĩnh.
Còn dịch là “Gia trì và thôi khai”.
- “Gia trì”
có nghĩa là làm cho các ác pháp đều được
chuyển hoá, hướng về phụng hành theo thiện pháp.
- “Thôi khai” là làm cho các nghiệp chướng, tai nạn của chúng sinh đều được tiêu trừ.
Đây là Cu
thi thiết câu thủ nhãn ấn pháp. Gọi tắt là
thiết câu ấn pháp, có công năng làm cho tất cả quỷ
thần, thiên long bát bộ đến hộ trì cho hành giả. Nếu
quí vị công phu hành trì thành tựu thủ nhãn này,
thì có thể bảo thiên long làm mưa và sẽ có
mưa ngay, nếu hành giả cần có gió, họ sẽ
làm ra gió ngay, khi hành giả muốn mưa gió
đừng hoành hành thế gian nữa, mưa gió sẽ
hết ngay.
Quí vị sẽ
nói: “Tôi không tin như vậy”. Đúng vật! Đó
chính là lý do mà tôi muốn nói cho quí vị nghe, tất
cả chỉ là vì quí vị không tin. Không có niềm tin và
không ở trong cảnh giới này thì khó lòng hiểu nổi.
Nếu muốn,
quí vị có thể hỏi những người vừa mới từ
Đài Loan trở về ngày hôm nay về cơn mưa ở Đài Loan.
Khi tôi nói chuyện với Phật tử ở Đài Loan qua điện
thoại, họ cho biết trời đang mưa và rất lạnh. Họ
mong muốn thời tiết được ấm áp và bớt mưa. Tôi
bảo họ hãy yên tâm, chuyện đó sẽ xảy ra.
Họ lại thắc mắc:
- Sư phụ có thể khiến trời hết mưa hay sao?
Tôi chỉ nói vắn tắt:
- Quí Phật tử hãy đợi xem trời có tạnh mưa hay không?
Ngay khi tôi vừa cúp điện thoại, thì trời bắt đầu tạnh ráo. Họ đều cho đó là chuyện lạ kỳ.
(Những ai đã đến Đài Loan năm 1969 để dự
giới đàn, đều có thể chứng kiến chuyện
này. Trời mưa dầm ở Keelong Đài Loan ít
nhất cũng là 48 ngày, nhiều nhất là 53
ngày. Chúng tôi đang ở Đài Loan để thọ giới. Cả tự
viện không còn chất đốt, một khi củi đã bị ướt rồi,
thì không còn cách nào để sưởi cho khô lại được. Tuy
nhiên,vào sáng ngày 18/4 như đã nói ở
trên, đúng ngay lúc chúng tôi vừa chấm dứt
cuộc điện đàm thì mặt trời vừa hiện ra,
bầu trời trở nên sáng trong và khí trời
trở nên ấm áp liền. Chú thích của người dịch từ
Hoa văn sang Anh Ngữ).
Thực ra, đó
chẳng phải là gì khác, chính là năng lực
của thiết câu thủ nhãn ấn pháp. Quí vị chỉ cần kiết
ấn và gọi: “Thiên long, đừng làm mưa nữa!” thì trời
sẽ dứt mưa ngay. Loài rồng sẽ chấp hành theo lệnh
của quí vị và chỉ khi quí vị đã thành tựu
ấn pháp này và đã thông thạo thiết câu thủ
nhãn. Rồng phun mưa sẽ tuân theo ấn pháp
này và đình chỉ việc làm mưa liền.
Quí vị sẽ
nghĩ là tôi nói đùa nhưng đúng là như vậy.
Bây giờ, tôi đang giảng kinh cho quí vị nghe và tôi
đang nói với quí vị bằng chân ngữ. Đây không phải là
chuyện nói đùa.
32. Thất phật ra da
Mỗi khi quí
vị niệm Thất Phật ra da thì toàn pháp giới
này có một luồng chớp sáng phát ta. Cứ mỗi niệm Thất
Phật ra da là có một luồng quang minh phóng ra bao
trùm cả vũ trụ.
Thất Phật ra
da được dịch là “phóng quang”. Còn dịch
là “tự tại”. Phiên âm từ tiếng Phạn “Isara” như
trong chữ “Avalokihesvara”. ở đây có nghĩa là “Quán”,
vì có quán chiếu thâm sâu rồi mới được “tự tại”. Nếu
quí vị không có sức quán chiếu thâm sâu,
thì quí vị sẽ không đạt được năng lực tự
tại.
Quán chiếu
nghĩa là hướng vào bên trong tự tâm mà
công phu chứ không phải hướng ra ngoại cảnh bên
ngoài. Nghĩa là hướng vào bên trong mà quán chiếu
không ngừng. Hãy tự hỏi: “Ta có hiện hữu hay không?”.
Ông chủ có hiện hữu trong chính tự thân quí vị
hay không? Quí vị có làm chủ được mình
hay không? Mặt mũi xưa nay của ông chủ có
hiện hữu hay không? Thường trụ chơn tâm
thể tánh thanh tịnh có hiện hữu hay không?
Nếu những cái đó đều hiện hữu, có nghĩa là
quí vị đạt được tự tại. Còn nếu không hiện hữu, có
nghĩa là quí vị không có được tự tại.
Sự phóng
quang cũng mang ý nghĩa tự tại. Nếu quí vị
đạt được năng lực tự tại, thì quí vị có thể phóng
quang. Nếu chưa có được năng lực tự tại, thì không
thể phóng quang được.
Thất Phật ra
da cũng được dịch là “Hoả diệm quang”,
cũng gọi là Hoả quang. Đó là lửa, nhưng không phải
là lửa phát sinh từ tập khí phiền não, như quí vị
thường nói: “Tôi vừa nổi nóng như lửa”. Đó cũng
không phải là lửa xuất phát từ sự sân hận, phẫn
nộ, căm hờn của quí vị, mà đó chính là lửa
trí tuệ. Đó cũng chính là nước từ trí tuệ
tiết ra để dập tắt lửa vô minh. Trí tuệ
chân chính hiển lộ khi lửa vô minh bị dập
tắt. Đó chính là Hoả Diệm Quang.
Khi quí vị
trì tụng Thất Phật ra da tức là quí vị
đang phóng quang. Nhưng trước tiên quí vị phải có được
năng lực tự tại. Không có năng lực tự tại thì quí vị
không thể nào phóng quang được. Hãy nhớ kỹ điều
này.
Đây là Nhật
Tinh Ma Ni thủ nhãn ấn pháp. ấn pháp này
có công năng chữa trị bệnh mắt mờ không thấy rõ.
Dùng ấn pháp này khiến cho mắt được sáng lại.
33. Giá ra giá ra
Giá ra giá
ra dịch nghĩa là “hành động”. Đó là hành
động như quân đội thi hành một mệnh lệnh hành quân.
Hành quân là một mệnh lệnh nếu quí vị không tuân
hành, có nghĩa là chống lệnh.
Đây là Bảo
đạc thủ nhãn ấn pháp. Khi quí vị rung
chuông, âm thanh vang lên khắp không gian, thông cả
thiên đàng, chấn động cả địa giới. Nếu quí vị cần thực
hiện việc gì, chỉ cần rung chuông lớn, các loài
chư thiên, thiện thần, yêu ma quỷ quái đều
tuân theo mệnh lệnh của quí vị. Chẳng hạn
như khi có động đất, quí vị chỉ cần rung
chuông lên rồi ra mệnh lệnh: “Quả đất
không được rung lên như vậy”, trái đất trở về trạng
thái yên bình ngay.
Bảo đạc thủ nhãn ấn pháp cực kỳ diệu dụng. Nếu quí vị muốn hát với một âm điệu tuyệt vời, thì hãy công phu hành trì ấn pháp này. Khi công phu thành tưu rồi, tiếng hát của quí vị trong suốt như tiếng đại hồng chung vang lên trong không gian.
Bảo đạc thủ nhãn ấn pháp cực kỳ diệu dụng. Nếu quí vị muốn hát với một âm điệu tuyệt vời, thì hãy công phu hành trì ấn pháp này. Khi công phu thành tưu rồi, tiếng hát của quí vị trong suốt như tiếng đại hồng chung vang lên trong không gian.
34. Ma ma phạt ma la
Ma ma. Hán
dịch là “ngã sở thọ trì”. Đó chính là một
loại mệnh lệnh hành động. Có nghĩa là “mọi việc tôi
làm bảo đảm chắc chắn phải được thành tựu”.
Ma ma là
Bạch phất thủ nhãn ấn pháp. ở Trung Hoa,
các đạo sĩ và Tăng sĩ Phật giáo thường sử dụng phất
trần, các vị cao tăng thường cầm phất trần khi đăng
bảo toạ để thuyết pháp.
Bạch phất thủ nhãn ấn pháp có công năng trừ sạch mọi nghiệp chướng của thân, trừ được mọi chướng nạn và bệnh tật. Chỉ cần phất lên thân vài lần là có thể tiêu trừ mọi nghiệp chướng và chữa lành mọ ma chướng sinh ra bệnh tật.
Bạch phất thủ nhãn ấn pháp có công năng trừ sạch mọi nghiệp chướng của thân, trừ được mọi chướng nạn và bệnh tật. Chỉ cần phất lên thân vài lần là có thể tiêu trừ mọi nghiệp chướng và chữa lành mọ ma chướng sinh ra bệnh tật.
Bạch phất
thủ nhãn ấn pháp có rất nhiều công dụng,
nhưng người biết cách dùng ấn pháp này lại rất ít.
Tôi biết hiện nay có rất ít người sử dụng được ấn
pháp này.
Năm người Tây phương đầu tiên vừa đi thọ giới Cụ túc ở Đài Loan đã trở về. Họ đã trở thành những vị Tỷ Khưu, Tỷ Khưu Ni chân chính. Họ vừa về đến phi trường vào lúc 4 giờ 30 chiều nay, chuyến bay 910 của hãng hàng không Trung Hoa. Ngày nay Phật giáo Giảng Đường đã có được nhiều xe hơi nên toàn thể Phật tử hộ pháp trong đạo tràng cũng như toàn thể Phật tử ở San Francisco – Cựu Kim Sơn – Hoa Kỳ - đều có thể ra phi trường để đón mừng các vị tân Tỷ Khưu.
Năm người Tây phương đầu tiên vừa đi thọ giới Cụ túc ở Đài Loan đã trở về. Họ đã trở thành những vị Tỷ Khưu, Tỷ Khưu Ni chân chính. Họ vừa về đến phi trường vào lúc 4 giờ 30 chiều nay, chuyến bay 910 của hãng hàng không Trung Hoa. Ngày nay Phật giáo Giảng Đường đã có được nhiều xe hơi nên toàn thể Phật tử hộ pháp trong đạo tràng cũng như toàn thể Phật tử ở San Francisco – Cựu Kim Sơn – Hoa Kỳ - đều có thể ra phi trường để đón mừng các vị tân Tỷ Khưu.
Bình thường,
tôi chẳng muốn đến phi trường nhưng trong
chuyến bay ấy có chở về vài tượng Phật, nên
tôi ra phi trường để nghênh đón tượng Phật chứ không
phải để đón các đệ tử của tôi. Các đệ tử của tôi
cũng không cần tôi đón, cũng chẳng cần đưa. Khi họ
đi Đài Loan thọ giới, tôi đã nói với họ
rằng:
“Khi mê thì thầy độ
Khi ngộ rồi tự độ”.
Nay họ phải
tự độ chính họ, họ đã ra đi, nay lại trở
về. Chắc chắn họ phải tự tìm ra con đường từ phi trường
về chùa. Họ chẳng cần tôi phải chỉ dẫn: “Quẹo ở đó,
đi theo đường này, đó là đường về chùa”.
Điều buồn cười nhất là khi họ viết thư báo cho tôi biết họ đã bỏ quên một thùng Kinh. Tôi bảo:
“Bỏ quên
kinh chẳng có gì quan trọng. Điều quan trọng
chính là không có ai trong các con bị bỏ quên”. Năm
người đi thọ giới và nay năm người đều đã trở về.
Sao vậy? Vì tôi đã mua bảo hiểm ở chư vị Bồ – tát,
nên để cho bất kỳ ai bị bỏ sót lại là điều
không thể chấp nhận được. Nếu một người
không về, tức là chư vị Bồ – tát không
thực hiện đúng hợp đồng. Thế nên tôi rất
tin tưởng rằng tất cả các giới tử sẽ trở về và dịch
vụ bảo hiểm của chư vị Bồ – tát không cần phải thanh
toán hợp đồng.
Quí vị nên
nhớ một điều. Những người thọ giới Cụ túc
trở về hôm nay là những vị Tổ khai sơn của Phật giáo
Mỹ quốc. Đừng xem việc này đơn giản. Điều này rất
chân thực. Đừng như những kẻ tự cho mình là Phật tử,
chỉ nằm ở nhà mà thích gọi mình là “Tổ tại
gia”. Thực vậy, cách đây vài hôm, có một
vị Tổ sư tự phong đến đây và muốn hát tặng
cho tôi nghe. Tôi giễu cợt ông ta: “Thật
chán khi nghe ông hát”. Ông ta chỉ bật lên:
“ồ!”, một tiếng rồi bỏ đi.
Phạt ma ra
là “Hàng ma kim cang hộ pháp”, tay cầm
bánh xe bằng vàng. Vị hộ pháp này có thể hoá thân lớn
như núi Tu Di.
Phạt ma ra.
Hán dịch là “Tối Thắng Ly Cấu”, có nghĩa
đó là pháp thù thắng nhất, xa lìa tất cả mọi cấu nhiễm
ở thế gian. Còn có nghĩa là “vô tỷ như ý”. Vì không
có gì có thể sánh với pháp này và tuỳ tâm nguyện
của mình mà mọi điều xảy ra như ý muốn.
Đây là Hoá
cung Điện thủ nhãn ấn pháp. Nếu quí vị
hành trì được ấn pháp này thành tựu, thì đời đời quí
vị sẽ được sống cùng một trụ xứ với đức Phật (như
trong một cung điện), không còn phải thọ sinh vào
các loài thai sinh, noãn sinh và thấp sinh
nữa. Công dụng của sự thành tựu ấn pháp
này là đời đời được sống cùng chư Phật.
35. Mục đế lệ
Mục đế lệ là
Dương chi thủ nhãn ấn pháp của đức Phật.
Đó là nhánh cây mà quí vị thường thấy Bồ – tát Quán
Thế Âm cầm ở một tay, còn tay kia Bồ – tát cầm một tịnh
bình. Nhành dương này được Bồ – tát nhúng vào
tịnh bình rồi rưới lên cho tất cả mọi
chúng sinh bị đau khổ. Nước này không như
nước thường. Đó là nước cam lồ. Chúng sinh
nào được nước này tưới nhuận sẽ có nhiều
lợi lạc. Nước cam lồ có thể giúp cho mọi chúng
sinh thoát khỏi khổ luỵ đói khát và bản tâm đạt được
thanh lương.
Mục đế lệ
còn dịch nghĩa là “giải thoát”. Đó là giải
thoát khỏi mọi khổ nạn, bệnh tật và chướng ngại. Nên
Bồ – tát Quán Thế Âm thường dùng Dương chi thủ nhãn
ấn pháp này để giúp giải thoát cho chúng sinh khỏi
mọi bệnh tật, khổ nạn và những điều bất
như ý. Bề ngoài, chú này dường như không
có gì quan trọng lắm, nhưng một khi quí vị
công phu hành trì ấn pháp này thành tựu
rồi, thì không những quí vị có thể giúp giải thoát
cho chúng sinh khỏi bệnh tật và khổ nạn mà còn có thể
hàng phục cả thiên ma ngoại đạo. Khi những thiên ma
ngoại đạo được thấm nhuận nước cành dương
này, họ tự nhiên hồi tâm hướng thiện,
thực hành theo chánh pháp. Do vậy, Dương
chi thủ nhãn có diệu dụng vô cùng vô tận,
không thể nghĩ bàn.
Giọt nước
cam lồ từ bàn tay Bồ – tát Quán Thế Âm
không những chỉ giúp cho quí vị thoát khỏi mọi bệnh
tật, khổ nạn mà còn có một diệu dụng khác, khi một
người sắp chết, nếu có phước duyên, được Bồ – tát
Quán Thế Âm rảy nước lồ thì có thể sống lại.
Tất cả các loài cây cỏ thảo mộc đã khô héo
nếu được nước cam lồ tưới xuống cũng được
hồi sinh. Cây cỏ là loài vô tình, mà khi
được nước cam lồ tưới tẩm còn được nảy
mầm, đơm hoa, kết trái như vậy nên chúng sinh là
loài hữu tình sẽ được lợi lạc biết bao. Đó là diệu dụng
của Dương chi thủ nhãn ấn pháp.
36. Y hê y hê
Y hê y hê là Độc lâu trượng ấn thủ nhãn ấn pháp. Hán dịch là “thuận giáo”.
Nghĩa là một
khi quí vị nhờ ai làm việc gì đó, họ đều
ưng thuận. Khi quí vị dùng chánh pháp để giáo hoá, họ
đều vâng lời. Câu chú này còn dịch là “tâm đáo”.
Nghĩa là trong tâm hành giả ước nguyện điều gì, nhờ
năng lực của chú này đều được thành tựu.
Câu chú này khiến cho Ma – hê – thủ – la
vương, là một Thiên ma ngoại đạo thường
cho rằng mình là vĩ đại nhất, cũng phải
cung kính chắp tay đến nghe lời chỉ giáo khi
nghe có người trị tụng thần chú này, không dám trái
nghịch. Thế nên khi quí vị trì niệm câu Y hê Y hê,
thì Ma – hê – thủ – la vương liền đến, bất kỳ tâm
nguyện của hành giả như thế nào, vị này
liền thi hành ngay, đáp ứng đúng như sở
nguyện của người trì chú.
37. Thất na thất na
Câu chú này
được dịch là “Đại trí tuệ”, cũng dịch là
“Hoằng thệ nguyện”. Đây là Bảo cảnh thủ nhãn ấn pháp.
Bảo cảnh được ví như Đại viên cảnh trí của chư Phật.
Đại trí huệ
là gì? Đó là khi chúng sanh không còn dính
mắc vào vọng tưởng nữa. Có đại trí huệ, thì mỗi
niệm đều là biểu hiện của trí bát nhã, mỗi tâm niệm
đều lưu xuất từ Đại Quang Minh. Nếu quý vị có trí huệ
chân chính thì sẽ có được Quang Minh. Còn
nếu chưa thể nhập trí tuệ tự tánh, thì vẫn
còn trong màn tối tăm của vô minh.
Quang minh
là ánh sáng dương, còn bóng tối vô minh là
âm. Tại sao người ta ngủ tối? Bởi vì lực âm trồi
lên quá mạnh. Do đâu người ta có trí tuệ sáng suốt?
Bởi vì ánh sáng dương lớn mạnh hơn.
Những người
có trí tuệ không có lối suy nghĩ như những
kẻ phàm phu. Họ có khả năng phân biệt rõ ràng chính
tà. Họ không cần phải hỏi người khác, họ biết mọi điều
ngay nơi tự thân của mình. Họ không đi vào con
đường tẻ, họ bước đi vào ngay chính lộ và
hạ thủ công phu. Trong khi hành trì, trước
tiên quý vị phải đạt được trí tuệ. Rồi
quý vị phải biết rõ ràng chính tà để rồi
mới tiến vào con đường chánh lộ và tránh con đường
tà vạy.
Nhưng quý vị
không thể nào biết rõ việc làm nào hư
ngụy nên cứ mãi khăng khăng tạo nghiệp ác. Quý vị
kôhng thể nào biết được rõ ràng thế nào là phạm giới,
nên cứ thế mà làm, ráng hết sức để làm cho được, cứ
muốn nhìn cho được dù thực sự đó là những
thứ chướng ngại. Những hành vi như thế là
sự ngu muội tột cùng, biểu lộ hoàn toàn sự
non yếu trí tuệ.
Ồ! Không –
Quý vị có thể phản đối – Tôi là người có
trí tuệ, tôi chỉ sai lầm trong nhất thời thôi!
Chỉ sai lầm
một lần thôi cũng có nghĩa là vô minh,
không có trí tuệ rồi. Người có đại trí tuệ không hề
có tư tưởng sai lầm. Thế nên Tôn giả A Nan đã phát
nguyện:
Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng
Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân.
Nghĩa là:
“Giúp cho con tiêu trừ vọng tưởng sai lầm trong muôn ức kiếp”.
Khiến con chẳng cần trải qua a tăng kỳ kiếp mà chứng ngộ được pháp thân”.
Tôn giả đã
phát nguyện tiêu trừ vọng tưởng không những
chỉ một, hai, ba, bốn, năm hay một trăm kiếp nhưng
trong vô số kiếp.
Nhưng tại
sao trong tâm ta lại có quá nhiều vọng tưởng
như thế? Khi một vọng tưởng đi qua, vọng tưởng khác
kế tiếp theo, và khi vọng tưởng ấy tiêu mất, vọng tưởng
sau lại sinh khởi tiếp nối. Giống như sóng
trên mặt biển. Quý vị cứ nghĩ rằng đại
dương là vật vô tình, nhưng thực sự nó
chẳng phải là thứ ở ngoài tâm quý vị mà
có. Biển cả cũng được lưu xuất từ trong tâm niệm
của chúng sanh. Sóng biển không ngừng nổi lên rồi
chìm xuống, cũng hoàn toàn giống như vọng tưởng của
chúng sanh chẳng bao giờ ngừng. Nó liên tục
mãi. Vọng tưởng trước vừa biến mất, vọng
tưởng sau liền tiếp nối, vọng tưởng này
tiếp nối vọng tưởng kia, xoay vần tương
tục, nối theo nhau không dứt, như dòng thác
không bao giờ ngừng. Không có vọng tưởng nào muốn
rơi lại đằng sau cả, chúng đều hoàn toàn muốn phóng
vọt lên phía trước. Vì sao mà quý vị lại mắc phải
quá nhiều vọng tưởng như vậy? Chỉ vì không
có trí tuệ. Nếu quý vị có trí tuệ, thì
chẳng còn mảy may vọng tưởng và sóng cũng
không còn xao động nữa. Như trong câu thơ:
Thanh phong đồ lai
Thủy ba bất hưng
Nghĩa là:
“Gió trong lành thổi đến,
Biển không còn sóng xao”.
Khi trong
công phu mà quý vị đạt được định lực, cũng
như sóng biển đã lặng yên. Khi có được định lực thì
nước trí tuệ hiển hiện, không còn một gợn sóng, chẳng
còn một niệm vọng tưởng nào nữa. Lúc đó là thanh
tịnh chân thực. Đó là lúc:
“Nhất trần bất nhiễm
Vạn lự giai không”
Thực vậy,
khi một người không còn bị vướng dù chỉ một
hạt bụi vô minh thì chẳng còn phải lo nghĩ một điều
gì nữa cả, mọi thứ trên đời này đều là không. Đó
chính là biểu hiện của đại trí tuệ.
Người có trí
tuệ thường thành công trong bất kỳ mọi
việc, còn người thiếu trí tuệu thường bị thất bại
trong bất kỳ việc gì mà họ nhúng tay vào. Do vậy nên
trí tuệ là vô cùng quan trọng.
Ngu muội là
gì? Vô minh chính là ngu muội. Ngu muội
cũng chỉ là từ vô minh mà ra. Khi vô minh sinh khởi,
con người hoàn toàn bị mất sáng suốt. Quý vị hãy hỏi
một người vừa mới làm một việc sai lầm xong thì
rõ:
- Tại sao anh lại làm việc đó?
Họ sẽ trả lời:
- Tôi không rõ nữa …
Đó chính là do ngu muội, do sự thiếu sáng
suốt, thiếu trí tuệ. Nhưng dù họ hành động
mê lầm do vô minh, nhưng họ lại không
chịu từ bỏ vô minh. Họ lại khăng khăng:
-
Tôi biết chứ.
Tôi biết nó sai mà! Thật là quái lạ. Con
người mê muội chỉ do vì không có trí tuệ, không
đạt được Đại viên cảnh trí, vì họ không chịu công phu hành trì Bảo cảnh thủ nhãn ấn pháp. Nếu họ tu tập ấn pháp này, thì sẽ không còn ngu muội nữa; bất luận chuyện gì xảy ra. Đó là khi:
Phùng quỷ sát quỷ
Phùng Phật sát Phật
Đây cũng như việc cầm một cây dao thật bén,
chặt ngay mọi vọng tưởng vừa lóe lên. Đại
trí tuệ cũng như một con dao bén hay còn
được ví như thanh gươm.
Quý vị có thể nói: “Gươm trí tuệ rất nặng, không, không dễ gì cầm kiếm ấy được”!
Đó là vì quý vị chưa từng cầm nó. Thực
ra, sử dụng kiếm này chẳng cần sử dụng
chút sức lực nào cả. Nếu quý vị chưa từng
cầm nó lên thì thấy nó quá nặng. Nếu quý vị đã
cầm lên rồi, thì thấy nó nhẹ. Nếu quý vị không chịu
cầm lên, thì nhẹ biến thành nặng. Nếu quý vị chịu
cầm lên, thì nặng biến thành nhẹ. Sao vậy? Vì quý
vị đã cầm lên rồi!
Nếu quý vị nói: “Tôi biết rằng gươm trí tuệ
rất quan trọng, nhưng quá nặng. Tôi không
thể nhấc lên nổi”. Và quý vị không sờ tới
gươm. Thế nên gươm trí tuệ càng nặng
thật. Nhưng một khi quý vị đã sờ vào kiếm,
đã vung gươm lên rồi thì mọi sự hiểu biết đều bén
nhọn như lưỡi gươm, chẳng còn một chút rắc rối nào
nữa cả. Thế nên tôi thường nói với quý vị rằng:
“Mọi việc đều tốt đẹp cả”. Chính
là phát xuất từ đạo lý này. Nếu quý vị gặp
nhiều việc rắc rối, là vì quý vị không có thanh gươm
trí tuệ. Nếu quý vị có được thanh kiếm trí tuệ ấy,
thì sẽ chẳng còn chuyện gì rắc rối nữa cả. Màu
nhiệm là ở điểm này.
Núi sông đất liền, lâu đài nhà cửa, thế
giới y báo cũng như chánh báo đều không
vượt ra ngoài tâm niệm hiện tiền của chúng
ta.
Cái gì là thế giới ý báo? Núi sông, đất
liền, lâu đài nhà cửa gọi là thế giới y
báo. Thế giới chánh báo là thân tâm của
chúng ta, chính là nơi mà con người chúng
ta thọ nhận sự báo ứng. Nếu quý vị đã hiểu
được sự báo ứng khi chính mình thọ nhận, nghĩa
là quý vị không còn vô minh nữa. Không còn vô minh
nghĩa là có trí tuệ. Điều này được ví như tấm gương:
Vật lai tắc ánh
Vật khứ tắc không.
Nghĩa là:
“Vật đến liền chiếu. Vật biến hoàn không”.
Tấm gương chẳng lưu giữ dấu vết gì cả. Kẻ trí thường
thản nhiên với mọi chuyện và cứ để nó trôi qua mà
lòng chẳng còn vướng bận điều gì.
Mặc dù kẻ
trí chẳng lưu giữ điều gì lại trong lòng,
nhưng mọi vật thường tự hiển bày. Và mặc dù nó thường
tự hiển bày nhưng chẳng hề bị vướng mắc.
Chúng ta là
hàng phàm phu, chưa có được đại trí tuệ,
phải nỗ lực vượt bậc để thường nhớ trì tụng chú Đại
Bi, hoặc thường niệm câu: “Y hê, y hê, thất na, thất na”.
Khi đã tụng
một lần rồi là không còn quên nữa, đã tụng
được hai, ba lần, vài trăm lần rồi thì chẳng thể nào
quên được nữa. Đó là phải cố gắng để ghi nhớ. Còn
khi quý vị chỉ cần nhìn hoặc nghe lướt qua một lần
rồi nhớ mãi không quên, chẳng cần phải
dụng công ghi nhớ nữa, đó là khi trí tuệ
của quý vị chiếu sáng như một đài gương
trong.
Người có trí
tuệ đều biết rằng mọi hiện tượng đều lưu
xuất từ tự tâm của mình. Nếu quý vị hiểu được điều
này thì mình sẽ không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa.
Sao vậy? Vì mọi sự việc đều lưu xuất từ tâm mình,
nên những thứ vui buồn giận ghét đều là
sở hữu của chính mình. Dù nó tốt hay xấu,
cũng chẳng có vấn đề gì cả.
Mặc dù nói
về cảnh giới ấy thì rất dễ, nhưng tiếp xúc
với cảnh giới ấy không phải dễ dàng gì, cần phải
có công phu mới tiếp xúc được với cảnh giới ấy. Những
người không có công phu sẽ nói:
“Đối với tôi, chẳng có vấn đề gì rắc rối cả”.
Bên ngoài
thì như thế, nhưng vấn đề rắc rối đang
phát sinh và chống đối với nhau ở bên trong. Những
người có trí tuệ chân chính thì rất hiếm.
Quý vị cũng
nên phân biệt rõ trí tuệ thế gian và trí
tuệ xuất thến gian. Trí tuệ thế gian còn gọi là Thế trí biện thông,
là có thể nhào nặn ngay ra một đạo lý khi
nào cần đến. Nơi nào không có đạo lý, họ
có thể tạo dựng ra, khiến mọi người nghe rất hợp lý.
Những kẻ mê muội nghe họ nói liền nghĩ rằng:
“Ồ! Họ đề cập đến những đạo lý rất đúng”.
Thực ra, nếu quý vị có được trí tuệ chân chính, quý
vị sẽ không bị đắm chìm trong mớ lý luận ngu muội của
họ. Người ta thường nói: “Trong dương có âm”.
Cũng vậy,
trong trí tuệ cũng có sự ngu muội – sự ngu
muội một cách trí tuệ. Mặt khác, trong âm có dương.
Bên trong sự ngu muội ẩn chứa một trí tuệ. Chẳng hạn
như quý vị có thể thấy một người chẳng nói năng gì
cả, dường như là kẻ quê mùa dốt nát,
nhưng anh ta làm những việc chân chính.
Anh ta có thể hiện thân một kẻ hồ đồ mê
muội, nhưng luôn luôn ứng xử khế hợp với đạo lý.
Có rất nhiều người như vậy.
Khi quan sát
người khác, quý vị sẽ tự chiêm nghiệm ra
chính tự thân mình có được trí tuệ sáng suốt hay
không. Nếu quý vị có trí tuệ chân chính, thì quý vị
không bị người klhác sai sử, dẫn dắt đến chỗ sai lầm.
Còn nếu quý vị không có trí tuệ, quý vị sẽ
bị người khác xui khiến làm điều xằng bậy.
Trí tuệ và
ngu muội có một mối quan hệ trực tiếp. Đó
là hai mặt của một chỉnh thể. Vắng bóng vô minh thì
trí tuệ hiển bày. Và vô minh sinh khởi khi thiếu vắng
trí tuệ. Trong vô minh có trí tuệ và chính trong
trí tuệ có bóng dáng của vô minh. Sao lại
như thế? Vì trí tuệ và vô minh là một. Nếu
quý vị biết vận dụng, thì đó là trí tuệ.
Còn nếu không biết vận dụng thì đó là vô
minh. Chẳng hạn như khi quý vị nâng thanh
gươm trí tuệ lên thì đó chính là trí tuệ; còn khi
quý vị buông thanh gươm ấy xuống thì đó là vô minh.
Đó không phải là hai mà chỉ là một. Thế nên quý vị
đừng bao giờ nói rằng mình đang đi tìm
kiếm trí tuệ và đang xua đuổi vô minh.
Không ai làm được việc ấy bao giờ. Chủ yếu
chỉ là sự “hồi đầu”.
Có thể lấy
ví dụ của bàn tay để biểu tượng cho trí
tuệ và mặt kia là biểu hiện cho vô minh. Nếu quý vị
muốn cầm nắm một đồ vật bằng mặt kia của bàn tay thì
không thể nào làm được cả, nhưng nếu quý vị dùng
chính bàn tay của mình thì mới lấy được đồ
vật. Việc không lấy được đồ vật là biểu
tượng cho vô minh và việc sử dụng bàn tay
để lấy được vật là biểu tượng cho trí tuệ.
Đó là hai khía cạnh của chỉ một ý nghĩa
chung nhất, tùy thuộc vào sự vận hành của quý vị.
Có người lại nói: “Nay tôi đã hiểu rồi. Vô minh và trí tuệ chính là bàn tay của tôi”.
Lại sai lầm nữa! Bàn tay chỉ là ví dụ.
Đừng nên cho rằng trí tuệ và vô minh chính
là bàn tay. Cũng giống như ví dụ ngón tay
và mặt trăng (trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm).
Đức Phật lấy ví dụ dùng ngón tay để chỉ cho người
thấy mặt trăng. Đừng nhầm lẫn ngón tay chính là mặt
trăng.
Thất na thất na
là “đại trí tuệ” và còn có nghĩa là “hoằng thệ nguyện”
– là phát nguyện rộng lớn. Khi muốn hoàn thành một
việc gì, phải phát thệ nguyện làm cho đến cùng.
Như đức Phật A Di Đà trước khi thành chánh
giác, khi đang tu tập nhân địa với hình
tướng của một Tỳ kheo, Ngài đã phát 48 lời
nguyện rộng lớn. Bồ tát Phổ Hiền cũng đã
phát 10 Đại nguyện Vương. Bồ tát Quán Thế Âm
cũng phát vô số lời nguyện cũng như các vị Tổ sư đã
từng phát nguyện. Tôi đang giảng cho quý vị nghe về
việc phát đại nguyện. Còn có lập nguyện được hay
không là do ở quý vị. Tôi đưa đề tài này
ra giảng vì tôi đoán chắc là quý vị chưa
được thông hiểu. Nhưng không phải là tôi
bắt buộc quý vị phải phát nguyện. Nay quý
vị đang tu học Phật pháp, mỗi người nên tự
mình lập hạnh nguyện, càng lớn càng tốt. Lập nguyện
càng lớn thì sự thành tựu càng cao. Hiện nay chúng
ta đều đang tu nhân và chưa ai thành Phật cả, chúng
ta nên phát lời nguyện ở nơi nhân địa mà
tu hành. Mỗi người nên viết rà lời nguyện
của mình thật chi tiết. Đừng phát nguyện
một cách hời hợt, qua loa, cho có nguyện
mà phải thiết thực như: “Con nguyện cứu độ tất cả mọi loài chúng sanh”.
Thật chứ?
Làm sao quý vị có thể độ chúng sanh được.
Khi suốt ngày quý vị cứ tìm mọi cách để được ăn ngon,
mặc đẹp, ở nơi xa hoa tráng lệ. Việc cứu độ chúng
sanh trước hết là độ chúng sanh nơi cái miệng chuyên
nói lời vọng ngôn của quý vị, độ cái bụng
ham ăn, độ cái thân ham thích sung sướng
của chính mình trước đã. Cho nên quý vị
phải thẳng thắn và minh bạch trong khi
phát nguyện. Hiện tại mình phát nguyện gì?
Tương lai sẽ ra sao? Như ở trong quá khứ, chúng ta
có thể quên lãng những gì đã từng ứng dụng tu hành.
Nhưng trong tương lai chúng ta sẽ thực hành điều gì?
Mỗi người Phật tử đều phải nên có lời
phát nguyện. Nay ở trong nhân địa, lời
phát nguyện càng lớn thì trong tương lai,
kết quả sẽ càng cao. Nếu quý vị đặt tất cả
nguyện lực của mình vào một lỗ chân lông, thì
quý vị có thể phát một thệ nguyện lớn ngay từ trong
lỗ chân lông.
Phát nguyện
là một lời hứa thiêng liêng mà mọi người
Phật tử đều nên thực hiện. Phát nguyện rất quan trọng,
vì không có nó cũng như không có người hướng dẫn. Giống
như đi đường mà không biết mình sẽ đi hướng
nào, chẳng biết nên rẽ phải hay nên quẹo
trái để đến đích. Nếu quý vị phát nguyện,
cũng như khi du lịch có người hướng dẫn
đường đi và nơi đến.
Tại sao chư
Phật và chư Bồ tát đều phát nguyện khi tu
đạo? Vì khi đã phát nguyện rồi, mình mới tự mình
hành động tương ứng với nguyện đã lập. Ví dụ như Bồ
tát Địa Tạng khi tu hành ở nhân địa, Ngài đã phát lời
nguyện vĩ đại:
…“Địa ngục vị không
Thệ bất thành Phật
Chúng sanh độ tận
Phương chứng Bồ đề”.
Nghĩa là:
“Chúng sanh độ hết
Mới chứng Bồ đề
Địa ngục nếu còn
Con chưa thành Phật”.
Nguyện lực
này cực kỳ vĩ đại. Chúng ta cũng nên phát
nguyện. Mỗi quý vị nên phát một hạnh nguyện phù hợp
với những việc hằng ngày quý vị thích làm.
38. A ra sam Phật ra xá lợi
A ra sam
dịch là “Chuyển luân pháp vương”, tức là vị Đại Pháp
Vương thường chuyển cỗ xe đại pháp, thường tuyên
thuyết diệu nghĩa Đại thừa. Giáo nghĩa này thậm thâm
vi diệu, không ai có thể diễn nói tường
tận được, nhưng hiện nay quý vị đang được
nghe giảng từng chi tiết rõ ràng.
Đó là ý nghĩa của câu chú này. Đây là “Chưởng thượng hóa Phật ấn thủ nhãn ấn pháp”. Quý
vị nên hành trì ấn pháp này. Khi thành
tựu rồi, đời đời khi được sinh ra liền
thân cận bên Phật để học hỏi giáo pháp.
Có rất nhiều
cách để giảng giải chú Đại Bi. Chẳng hạn
có một vị pháp sư khác giảng mỗi thủ nhãn này là
danh hiệu của một vị Bồ tát. Chẳng hạn vị ấy cho rằng:
Chưởng thượng hóa Phật thủ nhãn này là Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát.
Đây chính là trường hợp sai một ly đi một
dặm. Sao vậy? ở đây hoàn toàn chẳng có một
vị Bồ tát nào cả. Quý vị có thể đọc hết cả Tam tạng
kinh điển nếu quý vị muốn nhưng sẽ chẳng thấy vị Bồ
tát nào có danh hiệu là Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát cả.
Có thể nói như thế này: Chưởng thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp là
pháp tu của chư vị Bồ tát, chứ không thể
gọi đó là Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát. Nếu
gọi như thế là một sai lầm.
Nên khi nói Bảo bát thủ nhãn ấn pháp quý vị có thể hiểu rằng: Bảo Bát ấn pháp là
pháp tu của chư vị Bồ tát. Còn Bảo Bát
không phải là danh hiệu của một vị Bồ tát.
Mới đây tôi được xem qua bộ “Đại Bi Kinh
giảng nghĩa” ở Hồng Kông gửi sang, trong
kinh này họ đã giảng bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp
là danh hiệu của bốn mươi hai vị Bồ tát. Đó hoàn
toàn sai lầm. Bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp trong
kinh là các pháp tu của hàng Bồ tát. Người học
Phật pháp nên ghi nhớ kỹ điểm này, không
nên xác tín mà không căn cứ trên sự thực
hiển nhiên. Trong khi giải thích Phật pháp
cho người nghe, quý vị phải có một lập
trường vững chãi, chính xác về những gì mình đưa ra,
còn không quý vị sẽ phạm sai lầm.
A ra sam là Chưởng thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp mà các vị Bồ tát đều phải tu hành.
Quý vị lại hỏi: “Bồ tát nào?”
Đây chẳng
phải là một vị Bồ tát nào riêng biệt cả. Bất
kỳ người nào hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp
thì người ấy chính là Bồ tát. Bất luận người nào
không tu tập bốn mươi hai ấn pháp thì người ấy không
phải là Bồ tát. Nếu quý vị tu tập bốn
mươi hai thủ nhãn ấn pháp được thành tựu
thì có thể minh chứng rõ ràng quý vị đã dự
vào hàng Bồ tát rồi.
Phật ra xá lợi dịch là “giác thân tử”. Đây là Sở châu thủ nhãn ấn pháp hoặc là Niệm châu ấn pháp,
là pháp môn của chư vị Bồ tát tu tập. Khi
Bồ tát tu tập thủ nhãn này thành tựu, thì
chư Phật trong mười phương nhiếp thọ và
tiếp dẫn hành giả đến các thế giới Phật
khắp trong mười phương.
39. Phạt sa phạt sâm
Phạt sa, phạt sâm
dịch là “Hoan ngữ hoan tiếu”. Có nghĩa là rất hoan hỷ
khi giảng nói. Còn dịch nghĩa là “Đại trượng phu” và
“Vô thượng sĩ”.
Đây là Bảo cung thủ nhãn ấn pháp.
Khi hành trì thành tựu ấn pháp này, nếu
là người tại gia thì có thể được làm quan
cận thần, người xuất gia có thể chứng được
quả vị A la hán.
40. Phật ra xá da
Ở câu trên, Phật ra xá lợi. “Xá lợi”dịch nghĩa là “Giác thân tử”. Còn trong câu Phật ra xá da,
“xá da” dịch là “Tượng”: con voi. Nghĩa
là khi quý vị đã giác ngộ rồi, thì tâm thể quý
vị được ví như một con voi chúa, còn được gọi là
Pháp vương tử. Quý vị có thể là Pháp vương tối cao
trong tất cả các pháp môn. Nói chung, ý nghĩa của
câu chú này là: Tâm giác ngộ như một tượng
vương cao quý.
Phật ra xá da
là nói về bổn thể của đức Phật A Di Đà. Đức Phật A
Di Đà là bổn sư của Bồ tát Quán Thế Âm. Vì Bồ tát
Quán Thế Âm tỏ lòng tôn kính đức bổn sư của mình nên
Bồ tát đã đảnh lễ đức Phật A Di Đà trong
khi tuyên thuyết chú Đại Bi. Nên đức Phật A
Di Đà phóng hào quang để tiếp độ cho
người trì chú này.
Phật ra xá da là Tử liên hoa thủ nhãn ấn pháp.
Trong bốn mươi hai thủ nhãn, có Bạch liên
hoa thủ nhãn, Thanh liên hoa thủ nhãn,
Hồng liên hoa thủ nhãn ấn pháp. Khi hành
trì thành tựu các ấn pháp này, hành giả sẽ
được diện kiến mười phương chư Phật. Vì vậy Tử liên hoa thủ nhãn ấn pháp rất trọng yếu.
41. Hô lô hô lô ma ra
Hô lô hô lô ma ra. Hán dịch là “Tác pháp như ý”. Cũng dịch là “Tác pháp mạc ly ngã”.
Đây là Kim trọc ngọc hoàn thủ nhãn ấn pháp.
Trong bốn mươi hai ấn pháp, khi hành giả
hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp này
được gọi là “tác pháp”. “Như ý” nghĩa là
tùy theo tâm nguyện đều được như ý. Khi
hành giả tu tập thành tựu ấn pháp này rồi, thì mọi
việc đều được như tâm nguyện nên gọi là “Như ý”.
Còn “Tác
pháp mạc ly ngã” có nghĩa chính hành giả là
người tu tập, không phải người nào khác. Nên khi
hành giả tác pháp này, thì ấn pháp không rời khỏi
hành giả và hành giả không rời khỏi ấn pháp. Pháp và
ngã là một. Thế nên chẳng có pháp và cũng
chẳng có ngã, pháp chấp và ngã chấp đều
không. Đó là ý nghĩa của “Tác pháp mạc ly
ngã”.
Hành trì “Kim trọc ngọc hoàn ấn pháp”.
Có thể khiến tất cả chúng sanh đều vâng
theo sự giáo hóa của hành giả. Dạy họ tu
pháp gì, họ đều tu theo pháp môn ấy không
sai lệch.
42. Hô lô hô lô hê rị
Hô lô hô lô. Hán dịch là “tác pháp vô niệm” cũng dịch là “tác pháp tự tại”. Trong câu chú Hô lô hô lô ma ra
đã giảng ở trước có nghĩa là “tác pháp như ý”, khi
tác pháp vẫn còn khởi lên ý niệm. Còn trong câu chú Hô lô hô lô hê rị
thì vắng bặt sự khởi niệm khi tác pháp.
Nếu khi hành trì ấn pháp này, mà còn khởi
niệm tức là còn vọng tưởng. Nếu hành giả
không khởi niệm, tức là không còn vọng tưởng nên đạt
được khả năng “tác pháp tự tại” và trở thành người
có năng lực Quán Tự Tại. Đó chính là vị Bồ tát
thường quán sát âm thanh ở thế gian để cứu
độ một cách tự tại, Bồ tát Quán Thế Âm.
Câu chú này là Bảo bát thủ nhãn ấn pháp,
là ấn pháp thứ ba trong số bốn mươi hai
thủ nhãn ấn pháp. Ấn pháp này có công năng
giải thoát cho chúng sanh khỏi những tai
ương bệnh hoạn.
Các vị xuất
gia khi gặp người bệnh, trì chú này vào
trong ly nước, cho người bệnh uống thì có thể được
khỏi bệnh. Nếu bệnh không lành, thì phải quán sát lại
toàn bộ nhân duyên. Nếu gặp duyên lành, khi quý vị
uống nước có trì chú Đại Bi thì liền được
lành bệnh, là do đã đặt hết niềm tin vào
Bồ tát Quá Thế Âm. Nếu không được lành
bệnh, có thể là do quý vị thiếu lòng tin
nơi Bồ tát.
Sự thực là
như vậy, nay tôi sẽ truyền pháp này cho
quý vị luôn. Để cho ly nước có trì chú Đại Bi, có được
năng lực như vậy, quý vị không cần phải trì tụng
toàn văn bài chú này, mà chỉ cần trì tụng câu Hô lô hô lô hê rị
năm lần rồi dùng tay kiết ấn ba lần búng
vào phía trên ly nước. Rồi trao cho người
bệnh uống sẽ được khỏi hẳn. Có khi bệnh không
lành, có khi bệnh lành hẳn. Tất cả đều tùy thuộc vào
nhân duyên giữa hành giả và người bệnh. Nếu quý vị
có nhân duyên sâu dày với người bệnh, thì khi họ
uống xong nước có trì chú Đại Bi liền
được khỏi bệnh. Còn nếu người bệnh không
có duyên với hành giả, thì dù họ có uống
nước đã trì chú, nhưng vì họ không có niềm
tin ở Bồ tát Quán Thế Âm, thì bệnh họ không được
lành hẳn.
Nói chung có
vô lượng nhân duyên để tạo thành pháp
duyên cơ bản này. Nếu người bệnh đã có công phu hành
trì và phát tâm chí thành, khi uống nước có trì chú
vào là liền khỏi bệnh. Còn nếu quý vị có tu tập
nhưng thiếu lòng chí thành, thiếu sự tin
tưởng vào chú Đại Bi thì dù uống nước đã
trì chú cũng chẳng ích lợi gì. Còn nếu quý
vị có tâm chí thành và dù không tu tập đi
nữa, thì khi uống nước đã trì chú cũng có
được sự lợi ích. Những người vốn đã tạo nghiệp
chướng sâu dày, nếu được uống nước đã trì chú vào
thì không đủ tạo nên nặng lực để chuyển hóa bệnh của
họ. Còn nếu người có nghiệp nhẹ khi uống nước
đã trì chú vào thì có thể phát sinh năng
lực to lớn. Đó là năng lực do thường xuyên
trì niệm chú Đại Bi, đã tạo ra một năng
lực cảm ứng đạo giao. Chính năng lực này
đã chữa lành bệnh.
Thế nên bất
luận trường hợp nào, có trùng trùng duyên
khởi quyết định sự thành công. Đừng nghĩ rằng:
“Tôi đã hành trì Bảo bát thủ nhãn ấn pháp,
tôi đã trì chú Đại Bi vào trong nước, tại sao chẳng
có chút nào hiệu nghiệm?”
Đó chẳng
phải là nước trì chú Đại Bi không có hiệu
nghiệm. Chỉ vì công phu của quý vị chưa được đắc lực,
nên hiệu quả không được bao nhiêu.
Có một số
phái ngoại đạo cũng dùng pháp trì chú Đại
Bi vào nước để chữa bệnh và đạt được công hiệu linh
ứng. Đó là vì họ có sự trợ giúp của loài thiên ma
khiến cho người được lành bệnh tin vào họ, rồi dẫn dắt
vào hàng quyến thuộc của thiên ma ngoại
đạo. Vì thế, tuy cũng hành trì một pháp
môn mà có thiên sai vạn biệt kết quả.
Dùng nước
Đại Bi để chữa bệnh cho người là một pháp
môn thực hành Bồ tát đạo. Nhưng quý vị muốn tu pháp
này trước hết phải thực hành mọi hạnh nguyện của
hàng Bồ tát. Phải luôn luôn giữ tâm niệm “vô ngã”,
“vô nhân”. Nghĩa là trong tâm không còn bốn
tướng: ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả nữa.
Quý vị đừng nghĩ rằng: “Tôi chữa lành
bệnh của chúng sanh được, khi tôi trì chú
Đại Bi, tôi tạo ra được sự cảm ứng vô
cùng lớn lao”.
Nếu quý vị
khởi niệm như thế, nghĩa là quý vị đã khởi
dậy ngã chấp. Với ngã chấp ấy, liền bị rơi vào ma
chướng, dù quý vị không có tâm niệm ngã chấp nhưng rất
dễ bị gặp ma chướng khi tu tập pháp môn này. Bệnh
nào cũng do nghiệp chướng hoặc ma chướng.
Nếu bệnh vì nghiệp, thì chẳng có vấn đề gì
khi quý vị chữa trị cho họ. Còn nếu bệnh
do ma chướng, khi quý vị chữa trị cho họ
có nghĩa là quý vị tuyên chiến với ma
vương, nó có thể hãm hại quý vị. Nếu đạo lực của quý
vị chưa đầy đủ, quý vị có thể bị thu phục vào cảnh
giới của ma. Còn nếu quý vị có được đạo lực và tạo
được đôi chút ảnh hưởng với chúng, thì
chúng sẽ liên tục tìm mọi cách để đánh bại
quý vị.
Tôi vốn
thích chữa bệnh cho mọi người nên khi có ai
bị bệnh, tôi tìm mọi cách để chữa cho họ. Nhưng sau
đó, tôi phải đối đầu với ma chướng rất trầm trọng. Ở
Mãn Châu, có một loài thủy quái muốn dìm chết
tôi, nhưng nó thất bại. Tuy vậy, có 50 –
60 người bị chết và hơn 800 căn nhà bị
thủy quái này phá hủy. Sau đó, trên đường
đi từ Thiên Tân đến Thượng Hải, loài thủy
quái đó lại tìm cách lật thuyền của tôi, chỉ chút
xíu nữa là tôi biến thành thức ăn của cá. Từ đó mỗi
khi đi hoằng hóa đây đó, tôi thường ít khi chữa bệnh.
Thế nên chữa
bệnh là cách tốt nhất để kết duyên, nhưng
đó cũng rất dễ kết oán với quyến thuộc nhà ma.
Nó có điểm tốt và cũng có điểm không hay. Nếu quý vị
làm việc đó mà tâm niệm không vướng mắc vào bốn tướng:
ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả thì quý vị
có thể xoay chuyển mọi tình huống. Còn nếu
quý vị không tự chuyển hóa mọi tâm niệm
của chính mình khỏi bốn tướng trên thì rất
dễ rơi vào ma chướng. Cho nên, kết duyên
với chúng sanh qua việc chữa bệnh cho họ là một
vấn đề đòi hỏi năng lực tu tập rất cao.
43. Ta ra ta ra
Quý vị nghe âm vang của câu chú này rất hùng, phải không? Ta ra Ta ra dịch
là “Kiên cố lực”, là thần lực rất mạnh
mẽ, không một thứ gì có thể lay chuyển
được.
Kiên cố lực này có thể phá hủy và hàng phục tất cả các loài thiên ma ngoại đạo.
Đây là Kim cang xử thủ nhãn ấn pháp. Công năng của ấn pháp này là hàng phục tất cả các loại ma oán.
44. Tất lỵ tất lỵ
Tất lỵ Tất lỵ có ba nghĩa: Thứ nhất là “dõng mãnh” như
trong chiến trận, người dõng mãnh là luôn
luôn chiến thắng, không hề bị đánh bại.
Nghĩa thứ hai là “thù thắng” nghĩa là vượt lên trên tất cả sự hoàn hảo, không bao giờ bị thất bại. Thứ ba nghĩa là “cát tường”.
Vì khi hành giả có được sự dõng mãnh mới
có được sự thắng vượt mọi chướng ngại, mới
có được sự cát tường.
Tôi thường
nói với các đệ tử của tôi rằng khi làm bất
kỳ việc gì, dù ở cương vị nào cũng phải phát tâm
dõng mãnh, thắng vượt chứ không bao giờ được thoái
thất. Nếu ai lui sụt, đừng trở về gặp mặt tôi nữa.
Những người yếu đuối, bại hoại thì có ích gì?
Họ chẳng khác gì một thứ mà người Quảng
Đông thường gọi là “thủy bì” là túi da
đựng nước mềm nhũn. Còn ở Đông Bắc thì gọi
là “thảo bao”, là cái túi rơm để đựng hạt giống
mềm yếu và vô dụng. Nên hãy nhớ điều này: bất kỳ ai
muốn phát nguyện trở thành đệ tử của tôi là phải
luôn luôn vượt thắng mọi điều, phải có tâm kiên
cố như chùy Kim Cang vậy. Còn như “thủy
bì” và “thảo bao” thì không thể nào theo
nổi.
Tất lỵ tất lỵ là Hợp chưởng thủ nhãn ấn pháp.
Có thể khiến cho tất cả long xà, hổ lang,
sư tử, nhân cùng phi nhân ph1t tâm kính
ngưỡng. Tuy nhiên, hành giả phải thực sự
có tâm dõng mãnh, vượt thắng và tâm bất thối
chuyển. Công năng của ấn pháp này không phải là ở chỗ
ngôn thuyết mà phải bằng nỗ lực hành trì.
45. Tô rô tô rô
Tô rô tô rô. Hán dịch là “cam lồ thủy”. Đây cũng chính là Cam lồ thủ nhãn ấn pháp. Trước
đây tôi đã giảng về diệu dụng của nước
cam lồ rồi. Có thể giúp cho các loài quỷ
đói được no đủ và mọi tâm nguyện đều được
như ý, làm tiêu tan mọi sự đói khát, thọ nhận được
nhiều điều tốt lành khác nữa.
Nước cam lồ
này còn gọi là “Bất tử dược”. Nếu có người
sắp chết uống nước cam lồ này thì sẽ được sống lại.
Nhưng không dễ gì gặp được nước cam lồ này nếu không
có duyên lành.
46. Bồ đề dạ - Bồ đề dạ
Bồ đề dạ.
Hán dịch là “Giác đạo”. Muốn thành tựu
giác đạo thì trước hết, quý vị phải có
được giác tâm. Nếu không có giác tâm, thì
không thể nào tu tập để thành tựu đạo giác
ngộ. Hành giả trước hết phải có tâm liễu ngộ
chân thực rồi mới có thể tu tập đến chỗ thành tựu đạo
nghiệp được. Hai câu chú này gọi là Bất thối kim luân thủ nhãn ấn pháp. Đó chính là tâm bồ đề kiên cố không bao giờ thoái chuyển.
Từ nay cho
đến khi thành tựu quả vị Phật, quý vị phải
phát tâm dõng mãnh ngày càng tinh tất hơn. Đừng nên
dừng lại hoặc lui sụt. Chẳng hạn như khi quý vị nghe
giảng kinh, hãy khởi tâm niệm rất khó có dịp được
nghe giảng kinh Phật. Rất hiếm khi được
gặp pháp hội. Mặc dù chuyện này xem có vẻ
bình thường, nhưng nếu quý vị lắng lòng
suy gẫm kỹ sẽ thấy giá trị vô cùng. Thử
xem có nơi đâu trên thế giới này có được một
pháp hội tinh tấn như thế này, ngày nào cũng đến đây
để nghe giảng kinh? Còn có nơi đâu khác trên thế giới
mà pháp âm tuôn trào như thác, như sông mãi
không ngừng như ở đây?
Nên khi đã
có duyên ngặp gỡ được pháp hội, quý vị phải
thu xếp công việc, dù có bận rộn bao nhiêu, bất luận
pháp sư giảng đề tài gì, người nào giảng cũng phải đến
nghe. Đừng có phân biệt giữa pháp sư giảng hay
và người giảng kém, rồi chỉ đến nghe
người giảng hay. Nếu quý vị vẫn kiên trì
đến nghe bất luận pháp sư nào giảng, lâu
ngày chày tháng, chắc chắn quý vị sẽ thâm nhập
được vào dòng đạo lý chân thật. Dù ai giảng đi nữa,
quý vị cũng nên đến nghe để hộ trì cho pháp hội. Nếu
một tuần có giảng pháp bảy đêm thì quý vị cũng
nên tham dự cả bảy đêm. Đừng nên lười
biếng!
Pháp môn này
khó gặp được đã từng hằng triệu kiếp nay
rồi. Một khi đã có duyên được gặp thì phải nên
tinh tấn tu học. Sự tinh tấn chính là “tâm Bồ đề”
kiên cố dõng mãnh vậy.
Nếu bỏ mất
tâm Bồ đề mà mong ngày thành đạo thì không
khác gì nấu cát mà mong thành cơm. Nên trong
Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy:
“Vong thấ Bồ đề tâm, tu chư thiện pháp, thị chư ma nghiệp”.
Nghĩa là: “Bỏ quên tâm Bồ đề dù tu ngàn thiện pháp như làm việ ma vậy”.
Về bất thối, có ba dạng:
- Thứ nhất
là vị bất thối: Nếu hành giả đã chứng quả A
la hán tồi, thì không còn trở lại hàng phàm phu nữa,
Nếu hành giả đã chứng quả Bồ tát rồi thì không còn
rơi lại hàng A la hán nữa. Nếu hành giả đã chứng
đắc quả vị Phật rồi thì không còn trở lại
hàng Bồ tát nữa. Trừ những vị muốn thị
hiện hóa thân để giáo hóa chúng sanh. Ví
dụ như hành giả có thể phát nguyện: “Nay
tôi đã thành tựu quả vị Phật rồi, tôi muốn hiện
thân Tỳ kheo để giáo hóa chúng sanh”. Điều ấy hoàn
toàn đúng.
- Thứ hai là
niệm bất thối: Đôi khi hành giả phát khởi
tâm niệm: “Tu học Phật pháp thật chán, tôi không còn
muốn tu hành hoặc đi giảng pháp gì nữa cả!”. Đây là
niệm thoái thất. Khi hành giả khởi niệm thoái
thất, thì ma chướng liền theo ngay, vì ma
vương rất vui khi người tu hành khởi niệm
lui sụt.
Một khi quý vị đã đạt được “niệm bất thối”, thì càng nghe pháp, càng muốn được nghe nhiều hơn.
Niệm bất
thối là tâm lượng của hành giả không còn bị
trôi lăn trong dòng thức biến “bất giác vọng động nữa”,
không còn trải qua bốn tướng sinh trụ dị diệt của niệm
khởi nữa. Niệm bất thối luôn được lưu xuất
từ Bồ đề tâm, là bạn đồng hành của tâm
kiên cố. Kiên cố là nét đặc trưng của tâm
Bồ đề. Niệm bất thối và tâm kiên cố là nền
tảng của đại nguyện Bồ tát. Niệm bất thối
là niệm mà vô niệm. Vô niệm mà tự niệm “niệm vô
niệm, vô niệm nhi tự niệm”. Niệm này là niệm vi mật
hiện tiền, không thể suy lường. Niệm bất thối luôn
luôn đi với hạnh bất thối.
- Thứ ba là
hạnh bất thối: Nghĩa là thực hành đạo Bồ
tát. Tuy làm mọi việc trong vô số cảnh giới mà không
hề rời bản tâm, rời đại nguyện, rời niệm bất thối.
Niệm Kim cang nguyện, thực hành Kim cang hạnh không
thể nghĩ bàn.
Đứng trên
nhân thừa mà luận, thì hạnh bất thối là sự
hành trì tinh tấn, miên mật với tâm tinh tấn dõng
mãnh hướng tới Phật thừa.
Khi quý vị hành trì Bất thối Kim Luân thủ nhãn ấn pháp, thì
từ nay cho đến khi thành tựu quả vị Phật,
quý vị sẽ không còn thối chuyển. Nhưng quý vị phải
tinh tấn hành trì!
47. Bồ đà dạ - Bồ đà dạ
Câu chú này với câu trước giống nhau, chỉ khác âm giữa Bồ đà dạ. Hán dịch là “trí giả” và “tác giả”.
-
Trí là hiểu biết
chân chính, là trí tuệ.
- Giác là sự tỉnh thức.
Người có được sự hiểu biết chân chính là người đã giác ngộ đích thực và có được trí tuệ.
Đây là Đảnh thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp. Chữ hóa Phật trong Dảnh thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp chính là “giác giả”.
Vị Bồ tát hành trì thành tựu Đảnh thượng
hóa Phật ấn pháp cũng chính là “trí giả”.
Cơ bản, “trí” và “giác” vốn chẳng khác
nhau.
Giác là sự giác ngộ, là giai đoạn sau của cái biết tròn đầy chân thực (trí).
Tri là cái
biết toàn triệt, là giai đoạn trước của
giác ngộ. Nếu quý vị tu tập Đảnh thượng hóa Phật ấn
pháp thành tựu rồi thì quý vị sẽ là người có trí tuệ
chân chính, là người đã tự mình giác ngộ rồi. Nếu
quý vị tu tập ấn pháp này thì mười phương
chư Phật sẽ liền đến xoa đầu thọ ký cho
quý vị trong tương lai sẽ chứng được quả
vị Phật.
Trong khi
đang niệm Phật hoặc trì chú, hoặc tọa thiền,
hành giả đôi khi có cảm giác là lạ trên đỉnh đầu,
như thể có một loài côn trùng bò quanh đầu vậy,
nhưng khi quý vị lấy tay sờ đầu thì thấy không có gì
lạ. Tôi sẽ nói cho quý vị biết đó là gì. Lúc
ấy, chính chư Phật trong mười phương đến
xoa đầu thọ ký cho quý vị sẽ thành tựu
Phật quả trong tương lai. Nhưng vì quý vị
chưa có được thiên nhĩ thông nên không
nghe được; vì chưa có được thiên nhãn thông
nên quý vị không thấy được. Tuy vậy, chư Phật trong
mười phương thực sự đã rời bổn độ du hành đến đạo
tràng xoa đầu thọ ký cho quý vị. Thế nên nếu quý vị
có phước duyên gặp được, thì đây là một
cảm ứng xuất phát từ công phu hành trì của
quý vị. Nhưng quí vị không được khởi tâm
mê đắm, hay ngã mạn mà nghĩ rằng: “À! Chư Phật vừa đến xoa đầu thọ ký hộ trì cho tôi”.
Nếu quý vị khởi niệm vui mừng hay hãnh diện
vì điều này cũng đều là chấp trước. Dù đây là triệu
chứng tốt lành, mà khi quý vị đã khởi tâm đắm chấp rồi,
thì cũng trở nên xấu.
Trong chương
cuối của Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Đức Phật
trìh bày rất nhiều cảnh giới, tất cả đều là cảm ứng
xuất phát từ nỗ lực dụng công tu hành. Nhưng nếu
hành giả nghĩ rằng mình đã chứng được cảnh giới vi
diệu, thì hành giả trở nên bị chấp trước và
liền lạc vào tà ma ngoại đạo, liền bị ma
chướng. Do vậy, khi tu tập pháp này, quý
vị phải tự an trú trong trạng thái “như
như bất động”. Cho dù có gặp cảnh giới tốt
hoặc xấu, cũng giữ tâm kôhng dao động. Khi tâm không
dao động, là quý vị có được định lực, trí tuệ sẽ
phát sinh. Có trí tuệ chân chính, quý vị sẽ trở
thành “trí giả” và “tác giả”.
48. Di đế rị dạ
Di đế rị dạ.
Hán dịch là “ chánh lượng”. Cũng dịch là “đại lượng”;
nghĩa là số lượng rất nhiều, không đếm được. Còn dịch
là “đại từ bi tâm” nghĩa là tâm từ bi quá rộng
lớn, không có ngằn mé. Tâm từ bi này bảo
hộ che chở cho tất cả mọi loaì chúng sanh
và giúp cho họ được an vui, khiến cho
chúng sanh thể nhập với bản tâm của mình,
thoát khỏi sợ hãi và tránh xa mọi tai ương.
Đây là Tích thượng thủ nhãn ấn pháp.
Trên đầu tích trượng có chín vòng tròn
bằnh đồng. Lúc xưa, người xuất gia đi đâu
cũng mang theo tích trượng. Mỗi khi đi
đường, chín vòng kim loại này sẽ tạo nên âm
thanh, báo động cho các loài côn trùng tránh xa để
khỏi bị dẫm đạp lên mình. Tích trượng là một loại
pháp khí trong Phật giáo. Bồ tát Địa Tạng thường
dùng tích trượng như là chìa khóa để mở cửa
các địa ngục. Vì vậy nên hành giả tu tập
ấn pháp này phải nuôi dưỡng lòng từ bi
rộng lớn, phát nguyện cứu giúp cho toàn
thể mọi loài chúng sanh.
49. Na ra cẩn trì
Na ra cẩn trì.
Hán dịch là “Hiền ái” hoặc là “Hiền thủ” cũng dịch
là “Thiện hộ”, “Thiện đảnh”. Nghĩa là người đứng đầu
trong các bậc Thánh hiền, họ là thượng thủ, là bậc
khó tìm cách bảo bọc, che chở cho chúng
sanh, khéo độ thoát cho chúng sanh đến quả
vị tối cao.
Đây là Bảo bát thủ nhãn ấn pháp.
Cũng gọi là Hồ Bình ấn pháp. Bình nước
này có thể tẩy trừ mọi uế trược ở thế
gian, cứu giúp chúng sanh thoát khỏi bệnh
khổ. Bồ tát tu tập thành tựu ấn pháp này sẽ có năng
lực hộ niệm cho toàn thể chúng sanh. Khi quý vị tu tập
pháp ấn này thành tựu rồi, quý vị sẽ có khả năng
cứu giúp mọi loài chúng sanh, giúp họ ngăn
ngừa được mọi tai ương, chướng nạn. Nên
còn được gọi là “Thiện hộ”, “Thiện đảnh”.
50. Địa lỵ sắt ni na
Địa lỵ sắt ni na. Hán dịch là “Kiên lợi”. Còn có nghĩa là “Kiếm”. Đây là Bảo kiếm thủ nhãn ấn pháp.
Trước đây khi giảng về bốn mươi hai thủ
nhãn ấn pháp, tôi có nói rằng ấn pháp này
có công năng hàng phục mọi loài ly, mỵ,
võng lượng. Khi quý vị utu tập thành tựu ấn pháp này
rồi, tất cả các loài thiên ma ngoại đạo, ly mỵ vọng
lượng đều ngoan ngoãn quy phục bởi vì họ sợ ấn pháp
Bảo kiếm này của hành giả. Ấn pháp này
rất oai hùng. Nếu có loài thiên ma ngoại
đạo nào không tuân phục ấn pháp, hành giả
có thể trừng phạt ngay bằng Bảo kiếm này.
51. Ba da ma na
Ba da ma na
có ba ý: Thứ nhất là “danh văn” nghĩa là tên của
hành giả được lưu truyền khắp mười phương thế giới.
Nghĩa thứ hai là “Hỷ xưng” là mười phương thế giới đều
vui mừng khen ngợi công đức của hành giả.
Thứ ba là “thành danh”, “nhất thiết nghĩa
thành tựu”. Có nghĩa là mọi danh tiếng,
mọi công hạnh đều được thành tựu thật
nghĩa và rốt ráo.
Đây là Bảo tiễn ấn pháp.
Nếu quý vị hành trì ấn pháp này thành tựu
sẽ liền gặp được thiện hữu tri thức.
52. Ta bà ha
Trong chú Đại bi, câu Ta bà ha rất là quan trọng. Câu này được lặp lại đến mười bốn lần.
Ta bà ha. Hán dịch có sáu nghĩa. Bất kỳ chữ này xuất hiện ở bài chú nào cũng có đủ sáu nghĩa này.
Nghĩa thứ
nhất là “thành tựu”. Khi trì niệm câu chú
này, tất cả sở cầu, sở nguyện của hành giả đều được
thành tựu. Nếu quý vị chưa có được sự cảm ứng khi
hành trì, là do vì tâm chưa đạt đến sự chí thành. Nếu
quý vị có tâm chí thành và có niềm tin
kiên cố, thì chắc chắn sẽ được thành tựu.
Nhưng chỉ cần móng khởi một chút tâm niệm
không tin vào chú này, thì không bao giờ
được thành tựu.
Nghĩa thứ
hai là “Cát tường”. Khi hành giả niệm câu
chú này thì mọi sự không tốt lành, đều trở thành tốt
lành như ý. Nhưng quý vị phải có lòng thành tín. Nếu
quý vị có lòng thành tín hoặc nửa tin nửa ngờ khi
trì chú này thì chư Bồ tát đều biết rõ. Vì
thế nếu quý vị muốn mọi việc đều được đến
chỗ thành tựu thì trước hết phải có niềm
tin chắc thật. Ví như khi cha của quý vị
có bệnh, muốn cha mình được khỏi bệnh thì
quý vị phải hết sức thành tâm và chánh tin. Trì tụng
chú này mới có cảm ứng.
Hoặc khi quý vị nghĩ rằng: “Từ lâu mình chưa được gặp người bạn thân. Nay rất muốn gặp anh ta”. Quý vị niệm chú này một cách chí thành, liền gặp bạn ngay. Hoặc quý vị nghĩ: “Ta chẳng có người bạn nào cả, muốn có người bạn tốt”.
Quý vị trì chú này một cách thành tâm và
liên tục, liền có được bạn lành, ngay cả
gặp được thiện tri thức.
Nghĩa thứ ba của Ta bà ha là “viên tịch”.
Khi các vị
Tỳ kheo xả bỏ báo thân hoặc nhập Niết bàn
thì được gọi là “viên tịch”. Nhưng ở đây, chữ “viên
tịch” không có nghĩa là chết. Chẳng phải niệm câu
chú Ta bà ha là để cầu sự viên tịch. Thế thì công dụng của câu chú này là gì?
“Viên tịch”
có nghĩa là “công vô bất viên”. Là công
đức của hành giả hoàn toàn viên mãn; “đức vô bất tịch”
là đức hạnh của hành giả đạt đến mức cao tột cực điểm.
Chỉ có chư Phật và Bồ tát mới biết được công
hạnh rốt ráo tròn đầy ấy chứ hàng phàm phu
không suy lường được.
Nghĩa thứ tư là “tức tai”, nghĩa là mọi tai nạn đều được tiêu trừ.
Nghĩa thứ năm là “tăng ích”, là sự tăng trưởng lợi lạc của hành giả. Khi niệm câu Ta bà ha thì công hạnh đều được tăng trưởng, hành giả sẽ đạt được chỗ lợi lạc an vui.
Nghĩa thứ
sáu của câu này, tôi thiết nghĩ trong quý
vị ít có ai biết được. Vì trước đây tôi chưa từng
nói bao giờ.
Ta bà hà
có nghĩa là “vô trú”. Nghĩa “vô trú” này nằm trong ý
nghĩa của câu “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” trong
Kinh Kim Cang.
“Vô trú” nghĩa là không chấp trước, không vướng mắc hay bám chấp một thứ gì cả.
Tâm vô trú
là không có một niệm chấp trước vào việc
gì cả. Không chấp trước nghĩa là tâm tùy thuận với mọi
việc, thấy mọi việc đều là tốt đẹp. Đây chính là trường
hợp: “Vô vi nhi vô bất vi” (không khởi niệm tác ý nhưng điều gì cũng được thành tựu). Vô trú chính là vô vi theo nghĩa ở trên, và vô vi chính là vô trú.
Khi quý vị
vừa móng khởi lên một niệm tưởng, đừng nên
vướng mắc vào một thứ gì cả, đó là nghĩa thứ sáu
của Ta bà ha. Quý vị đừng nên trụ vào
các niệm tham, sân, si, mạn, nghi. Nếu quý
vị có tất cả các tâm niệm trên thì phải
nhanh chóng hàng phục chúng, chuyển hóa
chúng để tâm mình không còn trụ ở một niệm
nào cả. Hàng phục, chuyển hóa được những
tâm niệm chúng sinh ấy gọi là vô trú. Dùng cái gì để
chinh phục chúng? Dùng Bảo kiếm ấn pháp này để
hàng phục. Quý vị nói rằng tâm quý vị bị đầy
dẫy niệm tham chế ngự. Tôi sẽ dùng Bảo
kiếm này để cắt sạch. Nếu tâm quý vị có
đầy ma oán, tôi cũng sẽ dùng Bảo kiếm này
đuổi sạch. Nếu tâm quý vị bị ma si mê chiếm
đoạt, tôi sẽ dùng kiếm trí tuệ này chặt đứt chúng từng
mảnh.
Tôi sẽ chặt
đứt tất cả các loài ma ấy bằng Bảo kiếm
Kim cang vương này, tức là dùng kiếm Trí tuệ để hàng
phục. Nếu quý vị muốn hàng phục thiên ma ngoại đạo
thì trước hết quý vị phải chuyển hóa được mọi vọng
tưởng của mình. Khi quý vị chuyển hóa được
vọng tưởng trong tâm mình, thì thiên ma
ngoại đạo cũng được hàng phục luôn, cho dù
chúng có muốn đến để quấy phá, chúng cũng
chẳng tìm được cách nào để hãm hại được cả.
Trên đây là sáu nghĩa của Ta bà ha. Bất luận câu chú nào dưới đây có chữ Ta bà ha đều mang đầy đủ sáu nghĩa trên.
53. Tất đà da
54. Ta bà ha
55. Ma ha tất đà da
56. Ta bà ha
Chữ Tất đà da có năm nghĩa: Thứ nhất là “Thành tựu đốn kiết”. Thứ hai là “thành biện”. Thứ ba là “thành lợi”.Thứ tư là “nhất thiết nghĩa thành tựu” và thứ năm là “sở cung xưng tán”.
Thành tựu
đốn kiết nghĩa là khi sử dụng thần chú này,
thì mọi sở cầu, sở nguyện của hành giả liền tức khắc
(đốn) được an lành (kiết), toại nguyện.
Có người hỏi: “Tại sao tôi cũng trì chú Đại Bi, mà không được toại nguyện tức thì”?
Vì sự trì niệm chú Đại Bi đòi hỏi phải có
sự tương ứng từ nỗ lực dụng công. Nếu
không có sự nỗ lực hành trì tương ứng, thì
sẽ không có sự thành tựu. Nếu có sự cảm ứng, dung
thông thì mọi sở cầu, sở nguyện của hành giả đều được
thành tựu.
Tất đà dạ
còn có nghĩa là “thành biện”. Nghĩa là hành giả làm
bất cứ việc gì thì kết quả đều đạt được viên mãn.
Cũng gọi là “thành lợi” là vì mọi việc làm đều được thành tựu lợi ích.
Nhất thiết nghĩa thành tựu có nghĩa là làm bất kỳ việc gì cũng đều được thành tựu.
Sở cung xưng
tán có nghĩa là mọi người đều đến khen
ngợi, cung kính tán dương công đức của hành giả.
Ma ha tất đà dạ. Ai cũng đều biết Ma ha
có nghĩa là lớn. Câu chú này có nghĩa là
hành giả đạt được mọi sự nghiệp to lớn,
thành tựu được công đức thù thắng và đạo
nghiệp viên mãn. Trong mọi việc, hành giả đều đạt
được sự thành tựu viên mãn cao tột.
Cả hai câu chú hợp lại Tất đà dạ ta bà ha Ma ha tất đà dạ ta bà ha là Bảo kinh thủ nhãn ấn pháp.
Bảo Kinh là sự quý giá vô ngàn của Kinh
điển, chính là Pháp bảo. Nếu quý vị tu tập ấn
pháp này thì sẽ đạt được lợi lạc vô cùng vô tận.
Trong tương lai, trí tuệ và sức ghi nhớ của quý vị sẽ
rất tinh anh. Nghĩa là có được khả năng “bác văn
cường ký” – nghe nhiều, nhớ kỹ.
Ký ức của
chúng ta thường hoạt động theo một lối
riêng. Cũng như không thể nào đi nếu không có cây gậy.
Sau khi đọc được điều gì, chúng ta không thể nhớ rõ
ràng hết được. Chỉ khi nào cần cho sự học tập của
mình, chúng ta mới lục lại tìm kiếm hay
tra cứu lại những ghi chép. Tại sao trí
nhớ của mình lại quá kém. Vì quý vị chưa
từng hành trì Bảo kinh thủ nhãn ấn pháp này.
Nếu quý vị hành trì ấn pháp này, quý vị
sẽ đạt được sự hiểu biết thông tuệ và kiến thức
rất đa dạng. Giống như Tôn giả A Nan, là đệ tử đa
văn đệ nhất của đức Phật. Có thể nói Ngài A Nan đã
hành trì Bảo kinh ấn pháp mà chẳng nghi
ngờ gì. Ngài đã thành tựu ấn pháp này từ
vô lượng kiếp rồi, nên khi nghe được điều
gì, thì không còn quên nữa. Ngay cả Ngài
có thể nhớ được những điều Ngài chưa từng
nghe. Tại sao tôi nói như vậy? Vì Tôn giả A Nan ra đời
cùng ngày đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo. Như thế
nên hai mươi năm trước, khi A Nan chưa xuất
gia, thì những bài thuyết pháp của đức
Phật Ngài A Nan chưa được nghe. Thế thì
làm sao A Nan có thể kết tập toàn bộ Kinh
điển sau khi đức Phật nhập Niết bàn? Vì A
Nan được nghe các vị trưởng lão giảng lại những bài
Kinh mà đức Phật đã thuyết từ trước, hoặc chính do đức
Phật giảng lại cho A Nan nghe khi A Nan nhập định
nên A Nan thừa biết rõ nguyên nhân của sự
nhớ giỏi này là nhờ đã hành trì Bảo kinh thủ nhãn ấn pháp thành tựu.
Có người hỏi tôi: “Làm thế nào để có được trí nhớ tốt?” Câu trả lời đơn giản là hãy hành trì Bảo kinh ấn pháp. Những người nhớ được Kinh rõ ràng là có duyên với ấn pháp này.
Ở trong đồ
hình mạn đà la, đây là ấn pháp Bồ tát
phóng quang. Ngài phóng ra hào quang và tay cầm một
tràng phan màu đỏ. Toàn thân Bồ tát phóng ra những
luồng hào quang sáng chói biểu tượng cho sự khai mở
trí tuệ, sự cường ký, trí lực đa văn quảng
kiến và công đức thành tựu viên mãn.
57. Tất đà du nghệ
58. Thất bà ra dạ
59. Ta bà ha
Tất đà. Hán dịch là “thành tựu lợi ích”.
Du nghệ. Hán dịch là “Vô vi” hay còn gọi là “hư không”.
Thất bàn ra dạ. Hán dịch là “Tự tại”. Đây là Bảo hiếp thủ nhãn ấn pháp.
Hành giả thành tựu ấn pháp này có thể sử dụng
lấy tất cả các thứ châu báo ẩn giấu trong lòng đất để
làm lợi ích cho chúng sanh. Ý của câu chú này nói rằng
ở nơi thể tánh mà thường được tự tại và
thành tựu vô lượng công đức.
60. Na ra cẩn trì
61. Ta bà ha
Na ra cẩn trì.
Hán dịch là “ái hộ” nghĩa là thường nỗ
lực bảo bọc che chở tất cả chúng sanh. Câu
chú này cũng mang ý nghĩa đại Từ Bi.
Đây là Bảo bình thủ nhãn ấn pháp.
62. Ma ra na ra
63. Ta bà ha
Ma ra. Hán dịch là “Như ý”
Na ra. Hán dịch là “Tôn thượng”.
Đây là Quyến sách thủ nhãn ấn pháp.
Ấn pháp này có công năng mang lại sự an
vui như ý đến cho hành giả, khiến cho các
thứ bệnh tật, chướng nạn đều được tiêu
trừ.
Quyến sách thủ nhãn ấn pháp
có rất nhiều diệu dụng. Hành giả có thể kết một sợi
dây ngũ sắc rồi hành trì quyến sách ấn pháp vào sợi
dây ấy. Thành tựu rồi thì khi phóng sợi dây này ra,
các loài yêu ma quỷ quái, ly mỵ vọng
lượng đều bị trói chặt. Không thể nào chạy
thoát được. Từ đó sẽ tìm cách giáo hóa
cho các loài ấy hồi tâm hướng thiện. Đây
là diệu dụng của ấn pháp này. Mới xem qua thì có
vẻ bình thường nhưng công năng thật khó lường.
Trong đạo giáo gọi ấn pháp này là “Khổn tiên thằng”.
64. Tất ra tăng a mục khư da
65. Ta bà ha
Tất ra tăng.
Hán dịch là “thành tựu – ái hộ”. Nghĩa là
thường đem hết sức mình để bảo hộ che chở
cho tất cả chúng sanh.
A mục khư da. Hán dịch là “bất không, bất xả”.
Bất không có nghĩa là hữu. Nhưng đây có nghĩa là diệu hữu.
Bất xả có
nghĩa là “Bất xả nhất pháp”. Không từ bỏ một
việc gì, phải thông thạo tất cả các pháp. Nên có câu
kệ:
“Chân như lý thượng bất lập nhất trần.
Phật sự môn trung bất xả nhất pháp”.
Nghĩa là:
“Trên
phương diện bản thể, lý tánh tức chân như, thì
không cần lập một thứ gì nữa cả, dù chỉ là hạt bụi.
Nhưng về mặt sự tướng, có nghĩa là việc hành trì, tu đạo thì không được bỏ qua một pháp nào cả”.
A mục khư da
còn có nghĩa nữa là “ái chúng, hòa hợp”. Nghĩa là
thương yêu, hòa hợp, thường cứu giúp tất cả chúng
sanh.
Câu chú này
còn có nghĩa khác là trong tự tánh của mỗi
chúng sanh đều có đủ tánh tự tại và tánh công đức
thường vẫn tròn đầy.
Đây là Bảo phủ thủ nhãn ấn pháp.
Khi hành trì ấn pháp này thành tựu, hành
giả có thể tránh được nạn tù tội, bất kỳ
nơi đâu, bất kỳ mọi lúc, hành giả đều
không bị vướng phải các chướng nạn về quan quyền nữa.
Quý vị sẽ
hỏi: “Nếu tôi tu tập ấn pháp này, liệu tôi
có thể phạm pháp mà vẫn không bị bỏ tù hay sao?”
Không! Là
Phật tử, quý vị không được phạm pháp. Nếu
quý vị đã thông hiểu Phật pháp và phát tâm tu học Phật
pháp rồi, thì làm gì có chuyện phạm pháp nữa? Còn nếu
quý vị làm chuyện phạm pháp, tất nhiên phải bị
bắt và ở tù.
Tuy nhiên, đôi khi có những người vô tội bị bắt ở tù. Đây là vì họ chưa bao giờ tu tập Bảo phủ thủ nhãn ấn pháp này.
66. Ta bà ma ha a tất đà dạ
67. Ta bà ha
Như quý vị
đã biết, thế giới chúng ta đang sống là
thế giới Ta bà. Ta bà có nghĩa là “kham nhẫn”. Còn
được dịch là “nhẫn ái”. Còn dịch là “Thiện thuyết,
thiện đáo”.
Kham nhẫn có
nghĩa là chúng sanh như chúng ta khó có
thể chịu đựng nổi những sự thống khổ ở cõi giới Ta
bà này.
Nhẫn ái có
nghĩa là chúng sanh thế giới Ta bà này
không những có thể chịu đựng mọi khổ đau mà còn sanh
khởi lòng thương yêu mọi loài nữa.
Thiện
thuyết, thiện đáo nghĩa là, luôn luôn nói lời
tốt đẹp, lợi ích khi ở trong thế giới Ta bà. Cùng
khuyến khích mọi người hiện thân đến ở cõi giới Ta
bà này.
Ma ha là lớn. Đây có nghĩa là pháp Đại thừa, tức là Bồ tát đạo.
A tất đà dạ.
Hán dịch là “vô lượng thành tựu”. Nghĩa
là tu tập pháp Đại thừa của hàng Bồ tát có
công năng đưa hành giả đến bờ bên kia một
cách rốt ráo và thành tựu vô lượng công
đức.
Đây là Bồ đào thủ nhãn ấn pháp.
Khi quý vị tu tập thành tựu ấn pháp này
thì trong miệng hành giả thường có vị ngọt
của nho, còn hơn vị ngọt của đường. Quý
vị hãy chú ý điểm này, trong khi hành trì ấn
pháp này mà thấy trong miệng có vị ngọt nghĩa là bắt
đầu có sự cảm ứng. Khi thành tựu ấn pháp này rồi,
khi quý vị có trồng trọt các loại nông sản, ngũ
cốc, thì sâu bọ côn trùng không thể phá
hoại mùa màng của quý vị. Còn các loại cây
ăn quả như cam, đào, hạnh, lê, … sẽ sinh
trưởng rất nhanh và có vị ngọt khác
thường. Công năng của Bồ đào ấn pháp này rất lớn và sự thành tựu của pháp Đại thừa là vô lượng vô biên.
Tất la tăng a mục khư da.
Ở trong đồ hình mạn đà la là hình ảnh
biểu tượng cho bổn thể của Dược Vương Bồ
tát, người đã dùng vô số phương tiện, dược
liệu để chữa bệnh cho chúng sanh.
Ta bà ma ha a tất đã dạ ta bà ha
là bổn thể của Bồ tát Dược Thượng, người cũng thường
dùng vô số phương thuốc để chữa lành bệnh cho chúng
sanh.
68. Giả kiết ra a tất đà dạ
69. Ta bà ha
Giả kiết ra a tất đà dạ.
Hán dịch là “Kim cang luân”. Còn gọi là
Kim cang Bạt chiết la. Kim cang luân này
có hình tròn nhưng có khác so với Kim cang
luân khác. Câu chú này còn có nghĩa là
“Hàng phục oán ma”. Khi trong tâm luôn luôn
sinh khởi xung khí và bất bình thì gọi là ma. Khi ấy
họ thường phê phán mọi điều. Họ nói “Chư Phật thường
làm những việc sai trái, cho đến hành Bồ tát, A
la hán, chư Thiên, Diêm Vương cũng đều như
thế”. Họ phản đối kịch liệt và hằn học
đối với tất cả mọi điều. “Tất cả đều là tà
vạy”. Họ giống như kẻ cuồng si, chẳng để ý
gì đến pháp luật nữa. Họ luôn xung khắc với
toàn cả thế gian. Trong nhân gian gọi loại người này
là điên cuồng. Trong hàng quỷ thần thì hạng người
này được gọi là Ma. Nộ khí của loài ma oán này
thường xôn g khắp cõi Trời. Nó thường giận
dữ: :Ai cũng đều quá vô lễ với ta!”. Hoặc
nó nói: “Phật hả? Ta sẽ đánh bại ngay. Bồ
tát hay A la hán ta cũng hạ gục luôn. Còn
loài người, ta sẽ ăn thịt hết. Ma quỷ thì
ta sẽ chà nát dưới gót chân. Ta sẽ xé nát thân chúng
ra cho đến chết!” Oán khí loại ma này thật ghê rợn.
Đây là Bạt chiết la thủ nhã ấn pháp.
Với Kim cang luân, hành giả có thể đập
tan các loài thiên ma ngoại đạo, quỷ thần
thành từng mảnh vụn. Bất luận đó là loại
ma nào, nó đều bị thu phục và vâng lời khi
hành giả dùng Kim cang luân để thi hành ấn pháp này.
Ma oán sẽ cung kính đảnh lễ hành giả và thưa: “Con
nguyện quy phục ấn pháp. Nguyện theo mọi quy luật,
không dám xâm hủy”.
Kim cang luân ấn pháp
không những chỉ có công năng hàng phục thiên ma ngoại
đạo, mà còn có công năng phát ra âm thanh chấn động.
Đạo giáo gọi âm thanh này là “Ngũ Lôi Oanh
Đảnh”.
Sấm sét vốn
thường phát sinh từ trên Trời, nhưng các
Đạo sĩ Lão giáo có thể phóng ra tiếng sấm từ lòng
bàn tay khi họ kết một loại ấn gọi là Chưởng tâm lôi.
Tiếng sấm sét vang ra khiến cho thiên ma bị chấn
động, thậm chí còn có thể khiến thịt da nó
bị tan tành từng mảnh.
Khi giảng
Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tôi có nói về một
người bạn thân, có khả năng sử dụng được ấn pháp này.
Khi quý vị hành trì thành tựu ấn pháp này rồi, thì sấm
sét sẽ vang rền khi quý vị sử dụng ấn pháp và
tiếng vang của nó sẽ hàng phục được tất cả
các loài ma oán.
A tất đà dạ.
Hán dịch là “Vô tỷ thành tựu”. Hành giả
trì chú này sẽ được thành tựu công đức rất
lớn; không có gì so sánh được, cho nên
mới khiến cho các loài ma oán đều quy đầu
phục thiện.
70. Ba đà ma yết tất đà dạ
71. Ta bà ha
Ba đà ma. Hán dịch là “Hồng liên hoa”.
Yết tất đà dạ. Hán dịch là “Thiện trắng”.
Hồng liên hoa này là siêu việt tất cả mọi loài và thành tựu vô lượng công đức. Khi quý vị tu tập Hồng liên hoa thủ nhãn ấn pháp
này thành tựu rồi, nếu quý vị muốn sanh ở
cõi Trời thì ước nguyện ấy rất dễ thành
tựu như ý.
72. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ
73. Ta bà ha
Na ra cẩn trì. Hán dịch là “Hiền thủ”.
Hiền là thánh hiền.
Thủ là giữ gìn, canh giữ hộ trì.
Bàn đà ra dạ dịch nghĩa là Quán Thế Âm, Quán Tự Tại.
Đây là Thí vô úy thủ nhãn ấn pháp mà
Bồ tát Quán Thế Âm thường dùng để cứu độ
chúng sanh, giúp cho mọi loài không còn sợ
hãi trong mọi lúc, mọi nơi.
74. Ma bà lợi thắng yết ra da
75. Ta bà ha
Ma bà lợi thắng.
Hán dịch là “Đại dõng”, cũng dịch là “anh
hùng đức”, nghĩa là đức hạnh của bậc đại
anh hùng. Bồ tát Quán Thế Âm cũng được gọi
như thế.
Yết ra da.
Hán dịch là “sinh tánh” hoặc là “bổn
tánh”. Nghĩa là tự tánh bản hữu của chúng
sanh vốn sẵn có đức hạnh của bậc đại anh
hùng. Đức hạnh của đại anh hùng chính là
do hành trì Tổng nhiếp thiên tý thủ nhã ấn pháp,
ấn pháp này có công năng hàng phục mọi loài ma oán
không chỉ ở thế giới này mà khắp cả đại thiên
thế giới.
Hành giả tu
tập ấn pháp này nên biết đây là ấn pháp
quan trọng nhất trong tất cả bốn mươi hai ấn pháp.
Vì khi hành trì ấn pháp này, thì tất cả bốn mươi hai
ấn pháp kia đều có đủ trong ấn pháp này.
Quý vị có thể thắc mắc: “Thế
thì tôi chỉ cần hành trì một ấn pháp này
thôi cũng đủ, chẳng cần hành trì bốn mươi
mốt ấn pháp kia nữa”.
Nếu quý vị
lười biếng thì cứ làm. Nếu không phải là
kẻ lười biếng, thì nên hành trì tất cả bốn mươi hai
ấn pháp. Mặt khác, quý vị muốn làm kẻ lười biếng và
thích tu tập để trở thành một vị Bồ tát lười thì cứ
tu tập ấn pháp cuối cùng này trong bốn
mươi hai ấn pháp kia. Sẽ phải mất khá
nhiều thời gian mới thành tựu được. Tuy
nhiên, vì quý vị là người lười biếng nên
sẽ không được thành tựu sớm là điều hiển nhiên.
Thế nên các pháp đều là bất định. Nếu quý vị không
muốn trở thành một vị Bồ tát lười, quý vị sẽ chẳng bận
tâm thời gian lâu hay mau để tu tập các ấn
pháp này.
76. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da
Câu này đã
được giảng rõ ở phần đầu Kinh văn rồi.
Nhưng có trường hợp quý vị bị quên, nên tôi sẽ giảng
lại lần nữa. Những người tuy có nhớ, nhưng không được
rõ ràng, nghe lại lần này sẽ được rõ thêm. Những
người đã nhớ kỹ rồi, nghe được một lần này
nữa lại càng hiểu sâu hơn.
Nếu tôi
giảng chưa rõ, quý vị cứ hỏi tôi ngay tức khắc,
vì cách tôi giảng Kinh hoàn toàn khác với các Pháp
sư. Tôi không dùng tài liệu hoặc các luận giải.
Nam mô có nghĩa là “Quy y”. Quy y gì? Con xin uy y Tam bảo.
Hắc ra đát na có nghĩa là “bảo”: quý báu.
Đá ra dạ dịch là “Tam”: ba
Toàn câu
nghĩa là con nguyện quy y Tam bảo. Con nguyện
đem cả thân tâm tánh mạng để quy y. Như những Phật tử
tại gia đã quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Đó là
quy y Tam bảo.
Quy y Tam
bảo tức là quy y với toàn thể chư Phật
trong ba đời, khắp cả mười phương, cùng tận hư không
pháp giới. Cũng tức là quy y với tất cả pháp trong
ba đời, mười phương, cùng tận hư không pháp giới.
Cũng chính là đem hết thân tâm tánh mạng quy
y với tất cả các bậc Hiền thánh tăng
trong ba đời, mười phương, cùng tận hư
không pháp giới.
Hư không,
chẳng bao giờ cùng tận. Tất cả các cõi nước
đều nằm trong pháp giới này. Có tất cả mười pháp giới,
trong đó bốn cõi giới của các bậc Thánh Hiền và sáu
cõi giới của chúng sanh phàm phu. Bốn cõi giới
của bậc Hiền Thánh là: Phật, Bồ tát, Thanh
văn, Duyên giác.
Sáu cõi giới phàm phu là: Trời, người, A tu la, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục.
Mười phương
là: Bắc, Đông, Nam, Tây, Đông Bắc, Tây Bắc,
Đông Nam, Tây Nam, đó là tám. Thêm phương trên và
phương dưới tất cả là mười.
Ba đời là
quá khứ, hiện ại, vị lai. Chúng ta quy y với
Phật bảo trong suốt khắp mười phương ba đời. Những lời
đức Phật dạy được gọi là Pháp bảo. Tam tạng Kinh điển
được diễn đạt qua mười hai phần Kinh văn (bộ
Kinh). Tất cả Kinh điển do đức Phật nói
ra được gọi là Pháp bảo. Pháp bảo không
chỉ hiện hữu và lưu hành trong nhân gian
mà còn lưu hành khắp cả hư không và pháp
giới.
Khi nào quý
vị có được ngũ nhãn, lục thông rồi thì quý
vị mới thâm nhập được vào chân Kinh. Có nghĩa là
quý vị đọc được “vô tự chân Kinh”. Trong hư không, bất
kỳ lúc nào thích, quý vị đều đọc được chân kinh mà
không cần hở môi. Lục Tổ đã từng nói:
“Khi mê Pháp Hoa chuyển
Khi ngộ chuyển Pháp Hoa”.
“Vô tự”
không có nghĩa là Kinh không có chữ. Mà
chính là hàng phàm phu không thấy được chữ. Tuy
nhiên, khi quý vị nhìn sâu vào hư không, quý vị có
thể thấy được chư Phật đang tụng Kinh. Một số vị
đang tụng Kinh Pháp Hoa, một số vị đang tụng Kinh
Thủ Lăng Nghiêm và một số vị khác đang
tụng Kinh Hoa Nghiêm. Chư Phật đều đang
tụng Kinh và trì chú như thần chú Thủ Lăng
Nghiêm. Chư Phật luôn luôn hành trì các
thời khóa tụng ấy. Nhờ thế nên Pháp bảo được
hiện hữu và lưu truyền suốt khắp tận hư không pháp
giới.
Chúng ta
cũng quy y Tăng bảo suốt cả ba đời, cùng tận
hư không pháp giới. Thành phần nào tạo thành Hiền
Thánh Tăng? Chính là các đại Bồ tát, các đại A la
hán, các đại Tỳ kheo tăng.
Đá ra dạ
có nghĩa là “tam”: ba. Chúng ta quy y với Tam Bảo
trong suốt mười phương, ba đời cùng tận hư không
pháp giới.
Da có nghĩa là “đảnh lễ”. Là quy y và cung kính đảnh lễ trước Tam Bảo.
77. Nam mô a lị da
Nam mô. Hán dịch là “quy y”.
A lị da.
Hán dịch là “Thánh giả”, cũng có nghĩa là
“Thánh Hiền”. Câu chú này thể hiện sự quy
y với tất cả các Hiền Thánh Tăng.
78. Bà lô kiết đế
Bà lô kiết đế. Hán dịch là “quán”.
79. Thước bàn ra da
Thước bàn ra da. Hán dịch là “tự tại”. Toàn câu Bà lô kiết đế thước bàn ra da có nghĩa là Quán Tự Tại tức là Bồ Tát Quán Thế Âm.
80. Ta bà ha
Bồ tát Quán Tự Tại đã thành tựu tất cả mọi công đức. Ta bà ha có nghĩa là thành tựu công đức vô lượng vô biên.
81. Án tất điện đô
Nay phần
kinh văn của thần chú đã được tụng rồi. Tiếp
theo là phần chân ngôn. Thông thường có chữ Án luôn luôn dẫn đầu cho phần chân ngôn này. Nên chữ Án mang ý nghĩa “dẫn sinh nghĩa”.
Tất nghĩa là “thành tựu”.
Điện đô.
Hán dịch là “ngã giới” là đạo tràng, lãnh
thổ, cương vực của mình đã được kiết giới
thành tựu. Phạm vi kiết đại giới là 800
do tuần (yojanas) và trung giới là 600 do
tuần. Trong phạm vi đã được kiết giới này,
hành giả thường được an lạc và yên tịnh, tất cả mọi
công đức đều được thành tựu và bản nguyện đều được
như ý.
Chẳng hạn
như khi tôi đã kiết giới đạo tràng trong
phạm vi địa hạt San Francisco (Cựu Kim Sơn) thì
trong toàn bộ vùng này sẽ không xảy ra động đất hoặc
những thiên tai khác. Vì các vị hộ pháp, thiện thần
đều phải hộ trì cho nguyện lực của đạo tràng
được thành tựu.
Phạm vi và ý
nghĩa kiết giới lớn làm sao! Một hạt vi
trần cũng rộng lớn bao la rồi. Vì một hạt vi trần của
hành giả là bao hàm vô lượng vi trần vô lượng thế giới,
và vô lượng vi trần trong thế giới cũng chỉ
hàm ẩn trong một vi trần. Vì vậy, nếu một
vi trần hoại diệt thì vô lượng vi trần đều
hoại diệt. Một hạt vi trần tồn tại thì vô
lượng vi trần cũng tồn tại. Đó là sự vi
diệu của sự kiết giới.
82. Mạn đà ra
Mạn đà ra.
Hán dịch là “đạo tràng”, cũng dịch là
“Pháp hội”. Nghĩa là đạo tràng của hành
giả nhất định phải thành tựu. Pháp hội của
hành giả nhất định phải thành tựu.
83. Bạt đà da
Bạt đà da
dịch là “Toại tâm viên mãn”. Chẳng hạn như khi tôi
muốn một vi trần kh6ng hoại thì nó sẽ không hoại. Nếu
tôi muốn tất cả các vi trần không bị tan hoại thì
các vi trần ấy sẽ kết hợp lại với nhau.
Khi tôi niệm Án, tất điện đô mạn đà ra bạt đà da ta bà ha
với tâm nguyện sẽ không có nạn động đất xảy ra ở San
Francisco (Cựu Kim Sơn), hoặc nếu có nạn động đất lớn
thì nạn ấy biến thành nhỏ, nạn nhỏ thì biến
thành không có. Nhờ vậy nên không có nạn
động đất, không có ai sợ hãi. Thế nên gọi
là sự thành tựu. Tùy theo tâm nguyện mà
đều được như ý (toại tâm viên mãn). Nếu
quý vị có niềm tin chí thành, thì thấy rất là màu
nhiệm. Còn nếu quý vị không tin, là vì quý vị chẳng
thích thú gì với những điều mầu nhiệm như trên.
84. Ta bà ha
Ta bà ha
dịch là “thành tựu”. Thành tựu điều gì? Thành tựu mọi
thệ nguyện của hành giả. Bất luận quý vị phát tâm
nguyện gì, quý vị sẽ đạt được như ý khi niệm Án tất điện đô mạn đà ra bạt đà da ta bà ha.
Những vị khi
làm lễ thế phát xuất gia cũng trì niệm
câu chú này. Có nghĩa là ước nguyện việc xuất gia tu
học Phật pháp sẽ được như ý thành tựu viên mãn.
Đến đây thì
Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni và chú Đại Bi đã
được giảng giải xong. Nay tôi cũng đã giảng hết bốn
mươi hai thủ nhãn ấn pháp, đó là phần sau của Kinh Đại
Bi Tâm Đà La Ni. Còn phần sau nữa là khoa nghi
hành trì, là phương pháp tu hành, nay tôi
không nhắc lại nữa.
Năm trước,
một số đệ tử có tâm nguyện được nghe giảng
chú Đại Bi. Đến nay quý vị nghe giảng gần một năm.
Pháp hội này được xem như thành tựu viên mãn.
Tôi nguyện rằng quý vị có phát tâm hành trì điều gì cũng được như ý, tất cả đều được Bạt đà da ta bà ha,
tức là thành tựu viên mãn tâm nguyện của
mình. Mỗi người có sự phát nguyện khác nhau, nên
sự thành tựu cũng không đồng, nhưng đều viên mãn cả.
Nguyện cho
tất cả Phật tử có duyên được nghe Kinh Đại
Bi Tâm Đà La Ni này đều sớm thành tựu quả vị Phật,
vì đây là ước nguyện của những người thâm tín chư Phật.
Một khi quý vị đã chứng được quả vị Phật tức là mọi việc đều “toại tâm mãn nguyện” rồi.
No comments:
Post a Comment