Chú Đại Bi Giảng Giải(1)
(Giảng giải từng câu của HT Tuyên Hóa)
1. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da
Hàng ngày
chúng ta vẫn thường tụng Nam mô A – di -
đà Phật. Nam mô Bổn sư Thích – ca Mâu – ni Phật.
Nhưng quí vị có biết Nam – mô có nghĩa là gì không?
Chắc là rất ít người biết được. Cách đây vài năm, có
lần tôi đã đặt vấn đề này trong một pháp hội
nhưng chưa một người nào có được câu trả
lời hoàn chỉnh cả.
Nam – mô,
phiên âm chữ Nama từ tiếng Phạn. Trung Hoa
dịch là “Quy y”; cũng dịch là “Quy mạng kính đầu”.
Có nghĩa là: “Con xin đem toàn thể sinh mạng của con
về nương tựa vào chư Phật”. Cái bản ngã của chính
mình không còn nữa. Mà con xin dâng trọn
vẹn thân mạng mình lên chư Phật. Nếu chư
Phật cho con sống thì con sống; bảo con
chết thì con chết. Con hoàn toàn tin vào
chư Phật. Đó gọi là “Quy mạng”.
Còn “Kính
đầu” có nghĩa là hết sức cung kính và
nương tựa vào đức Phật. Đó là ý nghĩa của Nam – mô.
Còn “Quy y”
có nghĩa là đem hết thân và tâm của mình,
đem hết cả mạng sống của mình trở về nương tựa vào đức
Phật.
Nói tổng
quát. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da có
nghĩa là “Xin quy y Tam Bảo vô biên vô tận trong khắp
mười phương”.
Đó chính là
bản thể của Bồ – tát Quán Thế Âm. Quí vị
nên khởi tâm Từ Bi mà trì niệm. Mặc dù đó là bản thể
của Bồ – tát Quán Thế Âm, nhưng cũng có nghĩa là quy
y với toàn thể chư Phật trong mười phương, suốt cả
ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Khi
quí vị trì niệm thần chú này. Không những
chỉ nhắc nhở mình quy y với Tam Bảo thường
trụ trong khắp mười phương vô biên vô tận
mà còn khiến cho tất cả mọi loài hữu tình khi
nghe được thần chú này cũng đều quay về quy y, kính
lễ mười phương ba đời thường trụ Tam Bảo.
Quí vị có
biết Tam bảo là gì không? Đó là Phật bảo,
Pháp bảo và Tăng bảo. Quí vị nên biết rằng, trên thế
gian này Phật bảo là cao quý nhất. Cũng thế, Pháp bảo
và Tăng bảo là điều cao thượng và quý báu nhất.
Không những cao quý ở thế gian mà còn cao
quý đối với những cảnh giới xuất thế gian,
cho đến đối với cõi trời phi tưởng phi
phi tưởng nữa. Không còn có gì cao quý hơn
Tam bảo trong Phật pháp nữa. Trong mười
pháp giới thì cảnh giới Phật là cao nhất. Thế nên
chúng ta cần phải cung kính quy ngưỡng và tín thọ
nơi Tam bảo cao quý, phát khởi tín tâm kiên cố và
thâm sâu, không một mảy may nghi ngờ.
Có người sẽ hỏi: Quy y Tam bảo sẽ có lợi ích gì? Tối thiểu nhất là khi quí vị quy y Phật rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào địa ngục nữa; khi quí vị quy y Pháp rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào hàng ngạ quỷ (quỷ đói) nữa; khi quí vị quy y Tăng rồi thì quí vị không còn bị đọa làm loài súc sinh nữa. Đây là những đạo lý căn bản của việc quy y Tam bảo.
Có người sẽ hỏi: Quy y Tam bảo sẽ có lợi ích gì? Tối thiểu nhất là khi quí vị quy y Phật rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào địa ngục nữa; khi quí vị quy y Pháp rồi thì đời đời kiếp kiếp không còn đọa vào hàng ngạ quỷ (quỷ đói) nữa; khi quí vị quy y Tăng rồi thì quí vị không còn bị đọa làm loài súc sinh nữa. Đây là những đạo lý căn bản của việc quy y Tam bảo.
Nhưng khi đã
quy y rồi, quí vị phải tự nguyện và tinh
tấn thực hành các việc lành, tương ứng với lời
dạy của đức Phật thì mới xứng đáng gọi là quy y. Nếu
quí vị vẫn còn giữ nguyên các tập khí ngày trước như
sát sanh, trộm cắp, tà hạnh dâm dục, nói dối,
nghiện ngập và làm mọi điều mình thích để
thỏa mãn ngũ dục thì quí vị không thể nào
tránh khỏi đọa vào 3 đường ác (ngạ quỷ,
địa ngục, súc sinh). Bở vì trong Phật pháp
không có sự nhân nhượng. Quí vị không thể nói:
“Tôi đã quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng rồi, nên
tôi sẽ không bao giờ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh nữa. Vậy nên tôi có quyền làm điều gì
tôi muốn…”
Quí vị phải
thay đổi, chuyển hóa mọi tập khí xấu của
mình và tích cực thực hành những việc thiện, dứt
khoát không bao giờ làm những việc ác nữa. Nếu quí vị
còn tiếp tục làm những việc xấu ác, thì quí vị sẽ bị
đọa ngay vào địa ngục.
Đạo Phật
không giống như ngoại đạo. Họ tuyên bố rằng:
“Quan trọng nhất là niềm tin. Nếu có niềm tin thì dù
có làm việc ác, cũng có thể vào được thiên đường.
Còn ngược lại, nếu ai thiếu lòng tin, dù có gắng
sức làm việc phúc đức, thì cũng sẽ rơi vào
hỏa ngục”.
Nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn tạo các nghiệp ác thì nhất định quí vị sẽ bị đọa vào địa ngục. Dù quí vị không tin vào đức Phật, mà vẫn gắng sức làm việc phước thiện thì quí vị vẫn được lên thiên đàng. Phật pháp không bao giờ mê hoặc con người bằng cách nói: “Nếu quí vị tin vào đức Phật, thì mọi điều sẽ được như ý.” Ngược lại, nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn không chịu từ bỏ các việc ác thì quí vị vẫn phải bị đọa vào địa ngục.
“Được rồi”. Quí vị lại thắc mắc: “Nếu đã tin Phật rồi mà cũng đọa vào địa ngục như không tin, thì tại sao phải quy y Tam bảo?”
Nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn tạo các nghiệp ác thì nhất định quí vị sẽ bị đọa vào địa ngục. Dù quí vị không tin vào đức Phật, mà vẫn gắng sức làm việc phước thiện thì quí vị vẫn được lên thiên đàng. Phật pháp không bao giờ mê hoặc con người bằng cách nói: “Nếu quí vị tin vào đức Phật, thì mọi điều sẽ được như ý.” Ngược lại, nếu quí vị tin vào đức Phật mà vẫn không chịu từ bỏ các việc ác thì quí vị vẫn phải bị đọa vào địa ngục.
“Được rồi”. Quí vị lại thắc mắc: “Nếu đã tin Phật rồi mà cũng đọa vào địa ngục như không tin, thì tại sao phải quy y Tam bảo?”
Chân chính
quy y Tam bảo có nghĩa là phải từ bỏ việc
ác, quay về đường thiện, sửa đổi mọi lỗi lầm. Như một
người được khai sinh lại với tên mới, từ đây chỉ làm
thuần túy những việc lành. Không làm những việc
xấu ác nữa. Như thế mới đạt được lợi ích
thiết thực. Chính vì vậy mà câu chú: Nam
mô hắc ra đát na đá ra dạ da có nghĩa là:
“Quy y Tam bảo vô cùng vô tận trong khắp
mười phương”.
Khi quí vị
trì niệm chú này, cũng có thể giúp tiêu
trừ được những ách nạn cho quí vị. Lúc gặp tai chướng,
quí vị hay thường trì niệm: Nam mô hắc ra đát na đá
ra dạ da thì tai chướng ấy liền được tiêu trừ.
Tai nạn lớn sẽ biến thành tai nạn nhỏ, và
nếu gặp tai nạn nhỏ thì cũng sẽ được tiêu
sạch. Chú này được gọi là “Tiêu tai pháp”,
là một trong năm bộ chú hộ ma.
Nam mô hắc
ra đát na đá ra dạ da cũng còn được gọi là
“Tăng ích pháp”. Nghĩa là từ trước đến nay quí vị
đã từng gieo trồng nhiều thiện căn, và vẫn thường
trì tụng chú này, thì thiện căn của quí vị sẽ tăng
trưởng thêm gấp nhiều lần, lợi lạc không kể
xiết. Nên chú này được gọi là “Tăng ích
pháp”.
Quí vị có
thể niệm toàn bộ chú Đại Bi, hoặc chỉ cần
niệm câu chú đầu tiên này thôi: Nam mô hắc ra đát na
đá ra dạ da là “Thành tựu pháp”, bất luận quí vị muốn
điều gì, thì sở nguyện sở cầu của quí vị đều được
thành tựu như ý muốn. Nếu quí vị không có
con trai mà muốn cầu sinh con trai, hay
niệm Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da sẽ
sinh được con trai. Nhưng quí vị phải trì
niệm với tâm trí thành, không phải chỉ
niệm một hai ngày rồi thôI, mà phải niệm liên tục ít
nhất là trong ba năm. Nếu quí vị không có được bạn tốt,
mà muốn gặp được một người, hay niệm Nam mô hắc
ra đát na đá ra dạ da thì liền gặp được
ngay bạn lành. Nếu quí vị trì niệm được
toàn thể bài chú Đại Bi thì quá tốt, nếu
không chỉ cần niệm câu đầu tiên Nam mô hắc
ra đát na đá ra dạ da, cũng sẽ thành tựu những
công đức không thể nghĩ bàn.
Câu chú này
cũng còn được gọi là “Hàng phục pháp”.
Năng lực của câu chú đó có thể hàng phục thiên ma,
chế phục ngoại đạo khi nó nghe đến câu chú này.
Tuy vậy, câu
chú này không phải là “Câu triệu pháp”.
Khi quí vị trì niệm một câu chú thuộc trong “Câu triệu
pháp” thì tất cả các loại yêu ma quỷ quái khắp nơi đều
đến trình diện và có thể bắt giữ, hoặc sai
khiến được chúng.
Vậy nên, câu
chú Nam mô hắc ra đát ra đá ra dạ da này
có công năng rất mạnh, không thể suy lường được.
Nếu nói chi tiết, thì không thể nào cùng tận được.
Tóm lại,
trong câu Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da,
thì Nam mô có nghĩa là “quy mạng kính đầu”. Hắc ra
đát na là “bảo”. Đá ra dạ có nghĩa là “Tam”. Da
nghĩa là “Lễ”.
Nghĩa toàn
câu là: “Xin đem hết thân, tâm, tính mạng
của mình quy y và kính lễ Tam Bảo vô tận vô biên
trong khắp cả mười phương, suốt cả ba đời”. Chúng ta
phải cúi đầu đảnh lễ thường trụ Tam bảo.
Vì sao gọi
là vô tận vô biên? Vì chư Phật trong thời
quá khứ là vô cùng vô tận. Chư Phật trong thời hiện
tại là vô cùng vô tận. Chư Phật trong thời vị lai là
vô cùng vô tận. Cho nên Tam bảo là vô biên vô tận.
2. Nam mô a rị da
Nam mô như
đã giảng ở trên, nghĩa là “đem hết thân
tâm, tánh mạng quy y và kính lễ, học tập chư Phật và
chư Bồ – tát”.
A rị có
nghĩa là “Thánh giả”. Có nghĩa là người xa
lìa tất cả các ác pháp. Nên Nam mô A rị da có nghĩa
là kính lễ các bậc Thánh giả, người đã xa lìa tất cả
các pháp bất thiện.
3. Bà lô yết đế thước bát ra da
Bà lô yết đế
có nghĩa là “quán” trong danh hiệu Quán
Thế Âm Bồ – tát. Cũng được dịch là “quang” từ danh
hiệu Vairocana (Tỳ – lô - giá - na) nghĩa là Quang
Minh Biến Chiếu – hào quang chiếu khắp mọi nơi. Còn
được dịch là: “Sở quán sát” nghĩa là cảnh
giới được quán chiếu, được quán sát đến.
Thước bát ra da có nghĩa là “tự tại”.
Ý nghĩa toàn
câu là quán chiếu quán sát một cách rộng
khắp và tự tại. Đó chính là ý nghĩa của danh hiệu Bồ
– tát Quán Tự Tại, Bồ – tát Quán Thế Âm. Có nghĩa là
quan sát, lắng nghe âm thanh ở cõi thế gian để cứu
độ một cách tự tại.
4. Bồ đề tát đỏa bà da
Mọi người đều biết Bồ đề xuất phát từ tiếng Phạn là Bodhi. Có nghĩa là Giác.
Tát đỏa có
nghĩa là “độ” là vượt qua (bể khổ) cũng
như đưa người khác vượt qua (bể khổ) đến bờ giải
thoát.
Bồ Đề tát
đỏa bà da có nghĩa là một vị Bồ – tát đã tự
giác ngộ giải thoát và giúp cho mọi chúng sinh được
giác ngộ giải thoát như mình.
Bà da có nghĩa là “đảnh lễ”.
Da có nghĩa
là khấu đầu đảnh lễ. Cúi đầu đảnh lễ ai?
Đảnh lễ các vị Bồ – tát đã tự giác ngộ giải thoát
cho chính mình rồi, còn giúp cho người khác được
giác ngộ giải thoát.
Câu thần chú này là muốn nhắc đến Bồ – tát Bất Không Quyến Sách áp đại binh. Nghĩa là khi quí vị tụng câu thần chú này thì Bồ – tát Bất Không Quyến Sách đem binh tướng của cõi trời đến để hộ trì cho quí vị.
Câu thần chú này là muốn nhắc đến Bồ – tát Bất Không Quyến Sách áp đại binh. Nghĩa là khi quí vị tụng câu thần chú này thì Bồ – tát Bất Không Quyến Sách đem binh tướng của cõi trời đến để hộ trì cho quí vị.
5. Ma ha tát đỏa bà ha
Ma – ha có 3 nghĩa: Đại: lớn; Đa: nhiều; và Thắng: hoàn hảo.
Ma – ha với nghĩa là Đại: tức chỉ cho người phát tâm bồ đề rộng lớn.
Ma – ha với nghĩa là Đa: tức chỉ cho số lượng. Có rất nhiều người phát tâm bồ đề.
Ma – ha với
nghĩa là Thắng: tức nói đến những người đã
phát tâm bồ đề rộng lớn đều đạt đến chỗ thành tựu
viên mãn, được nhiều lợi lạc rất thù thắng.
Tát - đỏa
nghĩa của chữ Tát - đỏa trong câu chú này
không giống như nghĩa trong câu trên. Trong câu chú
trên, Tát - đỏa có nghĩa là “độ” – vượt qua bờ bên
kia. Có nghĩa là giải thoát. Còn trong câu chú này.
Tát - đỏa có nghĩa là “Dõng mãnh giả” là
người can đảm, không sợ hãi. Cũng có nghĩa
là “Tinh tấn giả”, là người tu hành rất
siêng năng.
Bà - Da Hán
dịch là “Hướng tha đảnh lễ” nghĩa là: “Con
xin đê đầu đảnh lễ các vị đại Bồ – tát, là những
người rất dõng mãnh, rất tinh tấn, không bao giờ sợ
hãi, và nguyện phát tâm bồ đề trước chư vị Bồ – tát
này.”
Các vị đại
Bồ – tát đã tự giác ngộ, giải thoát cho
chính mình rồi còn phát nguyện giúp cho vô số chúng
sanh khác được giác ngộ và giải thoát như mình.
6. Ma ha ca lô ni ca da
Ma – ha có 3 nghĩa: lớn, nhiều và thù thắng như trên đã giảng.
Ca – lô Hán dịch là “Bi”.
Ni – ca nghĩa là “Tâm”.
Hợp lại, Ma ha ca lô ni ca có nghĩa là “Tâm đại bi”.
Da có nghĩa
là đảnh lễ, như đã giảng ở trên. Toàn câu
chú Ma ha ca lô ni ca da có nghĩa là: “Cúi đầu đảnh
lễ thần chú Đại bi tâm Đà - la – ni.”
7. Án
Án nghĩa là
“Bổn mẫu”, là “Chú mẫu” mẹ của tất cả mọi
thần chú; cũng chính là “Phật mẫu” mẹ của tất cả chư
Phật.
Mẹ của chư
Phật có nghĩa là mẹ của nguồn tâm trong mọi
loài chúng sinh, vì nguồn tâm của chúng sinh vốn có
sẵn mọi trí tuệ, thường xuất sinh các pháp lành, nên
gọi là “Bổn mẫu”.
Thông qua năng lực của thần chú mà mười pháp muôn được hiển bày.
Thông qua năng lực của thần chú mà mười pháp muôn được hiển bày.
1. Pháp môn thứ nhất là “Tự”: là đầu nguồn, làm xuất sinh mọi chủng tự.
2. Thứ hai là “Cú”. Trong kinh văn hoặc trong thần chú, “Cú” có nghĩa là một câu.
3. Thứ ba là “Quán”: là quán chiếu, quán sát, vận dụng năng lực quán chiếu mà hành trì.
4. Thứ tư là
“Trí”: là trí tuệ, dùng thanh gươm trí
tuệ để cắt đứt tất cả phiền não. Trí tuệ tức là pháp
môn lưu xuất từ Bát Nhã Ba La Mật, đó là trí tuệ
viên mãn nhất. Còn “quán” là lưu xuất từ pháp môn
Thiền định Ba La Mật.
5. Thứ năm là “Hành”: nghĩa là tu tập, nương theo giáo pháp mà hành trì.
6. Thứ sáu
là “Nguyện”: nghĩa là cần phải phát nguyện,
nương theo giáo pháp chân chính mà tu hành.
7. Thứ bảy
là “Giáo”: nghĩa là y cứ theo giáo pháp
chân chính mà tu hành. Nếu quí vị không nương theo lời
dạy của đức Phật mà tu hành, thì dù quí vị có tu
hành đến nhiều kiếp như số cát sông Hằng đi nữa thì
vẫn không có kết quả gì cả. Cũng như thể
nấu cát mà mong thành cơm vậy.
Tuy nhiên,
để có thể tu tập xứng hợp với giáo lý chân
chính của đức Phật thì trước hết, quí vị phải
thông hiểu về giáo pháp đó một cách tường tận.
8. Thứ tám
là “Lý”: nghĩa là đạo lý. Nếu quí vị có
thể nhập được vào Phật pháp vi diệu thì mới có được
sự hiểu biết thông đạt về giáo pháp ấy. Nếu quí vị
không khế hội được diệu pháp này, thì quí vị chỉ là
người tu tập trong sự mù quáng. Dù quí vị
có tu hành bao lâu đi nữa, cũng không đạt
được sự thành tựu.
9. Thứ chín
là “Nhân”: Trong đời này quí vị phải gieo
trồng những nhân thù thắng, nhân tốt lành, nhân
thanh tịnh, thì quá khứ quí vị sẽ gặt được quả thù
thắng, quả vi diệu và quả thanh tịnh.
10. Thứ mười
là “Quả”: Quả tương ứng sẽ đạt được sau
khi đã gieo trồng nhân. Đó là diệu quả, quả vị giác
ngộ tối thượng.
Như vậy từ
chữ án, xuất sinh ra mười pháp môn vi diệu.
Nên khi quí vị trì niệm thần Chú Đại Bi, niệm đến chữ
án thì tất cả các loài quỷ thần đều chắp tay vô cùng
cung kính, không dám tỏ ra khinh suất hoặc lơ
là khi nghe hành giả trì tụng thần Chú Đại
Bi. Chữ án có một năng lực mạnh mẽ mà đến
nỗi khiến cho các loài ác quỷ, ác thần
đều phải cung kính chấp trì. Công năng của
thần chú thật to lớn, thần lực thật không thể nghĩ
bàn.
8. Tát bàn ra phạt duệ
Tát bàn ra,
Hán dịch là “tự tại”. Nghĩa là khi quí vị
trì tụng thần chú này, thì Tứ đại thiên vương đều đến
làm Hộ pháp cho quí vị.
Phạt duệ, Hán dịch là Thế tôn, cũng dịch là Thánh tôn.
Nguyên câu
chú này có nghĩa là Tự tại Thế tôn. Tự tại
Thánh tôn, tức là Đức Phật tự tại, ý là xưng tán Phật
bảo.
9. Số đát na đát tả
Chữ Số có hai âm là Shù và Shùo. Người ta thường niệm là “Shù”.
Số Đát Na có
nghĩa là “pháp” (Dharma). Pháp gì? Pháp
này còn gọi là “Diệu thắng pháp”. Cũng gọi là “Cao
thượng thắng sinh”. Có nghĩa là không có gì vượt trội
hơn pháp này nữa. Thắng sinh có nghĩa là từ pháp
này xuất sinh ra năng lực rất thù thắng.
Còn một cách dịch khác của chữ Số là “Diệu sinh” hoặc “Thắng thân”. Diệu sinh tức là vượt lên trên mọi sự vi diệu. Thắng thân nghĩa là thể của pháp ấy rất thù thắng.
Còn một cách dịch khác của chữ Số là “Diệu sinh” hoặc “Thắng thân”. Diệu sinh tức là vượt lên trên mọi sự vi diệu. Thắng thân nghĩa là thể của pháp ấy rất thù thắng.
Còn có một
cách dịch khác nữa của chữ Số, là “Tối
thượng thừa địa”. Nghĩa là cảnh giới của hành giả sẽ
trải qua sau khi chứng được Thập địa của hàng Bồ –
tát.
Đát Na là biểu tượng của Pháp bảo.
Đát Tả là biểu tượng cho Tăng bảo.
Cho nên toàn
thể câu chú án tát bàn ra phạt duệ số đát
na đát tả là biểu tượng cho Tam bảo. Có nghĩa là
chúng ta phải nên ngưỡng nguyện đến sự gia hộ của
Tam bảo. Nên khi trì niệm đến câu thần chú này, có
nghĩa là thỉnh cầu, ngưỡng nguyện đến lực gia
trì của Tam bảo.
Đát tả còn
có nghĩa là dùng giáo pháp để răn dạy các
loài quỷ thần và dùng thần chú để triệu tập quỷ thần
đến mà dạy bảo chúng theo tinh thần chánh pháp.
10. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a lị da
Xưa nay
dường như quí vị luôn luôn Nam mô với một
người nào khác chứ chưa bao giờ Nam mô với chính
mình. Người tu hành không cần phải đi Nam mô một
khách thể nào khác mà phải Nam mô ngay với chính
mình.
Nam mô có nghĩa là tôi, chính tôi quay trở về quy y với Tam bảo vô cùng vô tận khắp mười phương.
Nam mô còn
có nghĩa là đem tự ngã của chính mình thể
nhập trọn vẹn vào cả pháp giới khắp cả mười phương.
Tức là thể nhập vào Tam bảo vô cùng vô tận khắp cả
mười phương.
Tất kiến lật
có nghĩa là “hoàn toàn”. Tức là đem hết
toàn tâm, toàn ý để quy y và đảnh lễ Tam bảo.
Đỏa y mông
có nghĩa là “Ngã”. Đó chính là cái Ngã của
Vô Ngã. Nên quí vị phải đem toàn tâm toàn ý đảnh lễ
bản ngã của chính mình, nhưng đảnh lễ cái ngã của vô
ngã. Như thế có nghĩa là không có mình hay sao? Ví
như khi có người đánh quí vị, quí vị
không cảm thấy đau; nếu họ mắng chửi, quí
vị không thấy khó chịu; nếu họ nhục mạ,
quí vị thấy như thể không có việc gì xảy
ra. Quí vị không nhất thiết cần phải nhẫn nhục, vì nếu
dùng phép nhẫn nhục, là quí vị đã rơi vào “đệ nhị
nghĩa” rồi. Trong trường hợp này, quí vị không nhất
thiết cần phải “nhẫn”, vì vốn không có
một bản ngã để dùng pháp nhân và không có
một bản ngã để cho pháp nhẫn ấy tác động
tới. Có nghĩa là quí vị phải hành pháp
nhẫn trong “vô nhẫn”.
Đó gọi là Ngã của vô ngã vậy.
A lị da ở
trên đã giảng qua, có nghĩa là “Thánh giả”.
ở đây tức là phải hết lòng đảnh lễ “cái ngã” ấy của
Thánh giả. Vô lượng vô biên chư Bồ Tát, hết thảy
Thiên Long bát bộ đều phải đảnh lễ cái ngã trong vô
ngã của bậc Thánh giả. Cái ngã ấy bao trùm
khắp vô lượng vô biên vũ trụ. Có rất nhiều
bậc Thánh giả. Họ là ai? Dưới đây, tôi sẽ
giảng rõ.
11. Bà lô kiết đế thất phật ra lăng đà bà
Bà lô kiết đế dịch là “Quán”.
Thất Phật ra dịch là “Tự tại” hoặc là thế âm. Âm thanh ở trong thế gian. Đây chính là Bồ – tát Quán Thế Âm.
Bà lô kiết đế thất Phật ra là Quán Thế Âm,
cũng chính là Quán Tự Tại. Hai danh hiệu
này không nhất định phải là Bồ – tát Quán
Thế Âm mới được gọi là Quán Tự Tại hay
Quán Thế Âm, mà nếu khi quí vị đã đạt được
tự tại rồi, thì quí vị chính là Bồ – tát
Quán Tự Tại. Khi quí vị có được năng lực cứu độ tất
cả mọi loài chúng sinh, thì quí vị chính là Bồ Tát
Quán Thế Âm. Vì vậy, một khi quí vị đã thể nhập và
vận dụng trọn vẹn pháp này rồi thì chính quí
vị là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Nếu tôi đạt được tự tại trong việc vận
dụng pháp này thì chính tôi cũng là hóa
thân của Bồ – tát Quán Thế Âm.
Lăng đà bà dịch là “hải đảo”, chỉ cho núi
Phổ Đà (Potala), nơi Bồ – tát Quán Thế Âm
thường thị hiện. Có sách nói núi Phổ Đà ở
nước Trung Hoa. Phổ Đà có nghĩa là “hoa
trắng nhỏ” vì nơi núi ấy có loài hoa trắng nở
rất nhiều. Trên núi có một cung điện được kiến tạo ở
trong hang đá gọi là “Cung Từ Bi”, đó là nơi Bồ Tát
Quan Thế Âm thường thị hiện. Nơi đó được trang
hoàng bằng bảy thứ châu báu: vàng, bạc, xà
cừ, pha lê, trân châu, ngọc bích, mã não.
Nhưng không phải ai cũng đến được nơi
cung điện này.
Bà lô kiết đế thất Phật ra là vị Bồ – tát có đầy tâm nguyện đại từ bi.
Lăng đà bà là cung điện Từ Bi, nơi Bồ – tát Quan Thế Âm thường thị hiện.
12. Nam mô na ra cẩn trì
Trong câu chú này, Nam mô vẫn có nghĩa là “quy y” và “quy mạng kính đầu”.
Na ra dịch nghĩa là “Hiền” – bậc hiền giả, chỉ cho hàng Bồ Tát.
Cẩn trì dịch là “ái”, có nghĩa là tình
thương yêu. Trong ý niệm lòng Từ Bi bảo
hộ, che chở cho mọi loài. Thế nên lòng từ
bi của bậc Hiền giả (Bồ – tát) thường đem
đến sự bao bọc, che chở cho chúng sinh.
Trước đây tôi đã giảng về 10 loại tâm được đề cập
trong Kinh Đại Bi Tâm Đà - la – ni. Quí vị nên y cứ
theo mười loại tâm này mà công phu tu tập.
Na ra cẩn trì, Hán dịch là “Hiền ái thiện
hộ” có liên quan đến nghĩa thứ nhất, nghĩa
là thứ 6 và nghĩa thứ 10 trong 10 loại
Tâm: Đó chính là Tâm Đại Bi, Tâm Cung Kính
và Tâm Vô Thượng bồ đề.
Câu chú này đại biểu cho 3 loại tâm như trên.
13. Hê rị ma ha bàn đa sa mế
Hê rị có
nghĩa là “Tâm”. Tâm này có ý nghĩa gì trong
10 nghĩa? Nghĩa thứ 4 là vô nhiễm trước tâm. Tâm này
giúp cho quí vị duy trì bản tâm thanh tịnh của mình.
Khi quí vị khởi tâm niệm tham, sân, si, mạn,
nghi… thì tâm quí vị liền bị ô nhiễm,
không còn thanh tịnh nữa. Khi tâm quí vị
không mong khởi những niệm ô nhiễm ấy, thì
tâm quí vị được thanh tịnh.
Ma ha có nghĩa là “Đại”, cũng có nghĩa là “Trường”.
Bàn đà sa mế
nghĩa là sao? Nếu tôi không nói, chắc
chắn quí vị chẳng thể nào biết được. Nên quí vị muốn
biết thì trước tiên tôi phải giảng. Lúc đó quí vị mới
hiểu được. Quí vị mới nói rằng: “Thì ra ý nghĩa
của cân chú ấy là như thế”. Bàn đà sa mế
có nghĩa là “đại quang minh” nghĩa là hào
quang rực rỡ chiếu khắp.
Bàn đà sa mế
lại còn được dịch là “Trường chiếu mệnh”
nghĩa là ánh sáng thường chiếu soi rộng khắp mọi nơi.
Nguyên câu
Hê rị ma ha bàn đa sa mế có nghĩa là “Tâm
đại quang minh”. Nghĩa là ánh sáng của tâm lực,
quang minh của tâm lực thường chiếu rộng khắp, mãi
mãi siêu việt cả không gian vô cùng, thời gian vô tận;
từ một vi trần cho đến vô cùng vô tận thế
giới đều có sự hiện hữu của ánh sáng ấy.
Quí vị sẽ
nói: “à, cái đại quang minh của tâm ấy,
tôi đã nghe trong kinh giảng nói rất nhiều rồi, và…”
Vâng, nhưng
trừ phi quí vị không nghe tôi giảng giải
thần Chú Đại Bi thì quí vị không thể nào biết được.
Tôi sẽ giảng cho quí vị rõ. Thật là khó gặp được người
nào có thể giảng giải về Chú Đại Bi một cách rõ
ràng tường tận. Thực vậy, hoàn toàn thực
tình mà nói, không mấy người thể nhập được
rốt ráo ý nghĩa của thần chú Đại Bi hoặc
là chuyển được ý nghĩa của thần chú.
Sẽ có người hỏi: “Thế làm sao Sư phụ biết được?”
Quí vị khỏi
cần phải hỏi tôi. Vì tôi đã không hỏi thì
thôi, chứ quí vị đừng nên hỏi tôi tại sao mà tôi
biết được. Dĩ nhiên là tôi phải biết. Nếu tôi không
biết, tôi không thể nào giảng giải cho quí vị nghe
được. Vì thế đừng nên hỏi tại sao tôi lại
biết.
Thay vì quí
vị hỏi tại sao tôi biết, thì quí vị hãy
quay trở lại hỏi chính mình. Tại sao mình lại không
biết? Nếu quí vị biết được lý do tại sao mình không
biết, thì quí vị sẽ rõ được tại sao tôi biết. Trái
lại, nếu quí vị không thể nào rõ được tại
sao quí vị không biết, thì quí vị cũng
không thể nào rõ được lý do tại sao tôi
biết. Đó chính là điều làm nên sự kỳ diệu
vậy.
Chẳng hạn có
người đã hỏi tôi rằng: “Tại sao Thầy làm
người xuất gia?” Tôi đã không trả lời câu hỏi đó
mà hỏi lại rằng: “Tại sao anh lại không làm người xuất
gia? Nếu anh biết được lý do vì sao anh không xuất
gia, thì anh sẽ hiểu được vì sao tôi lại
xuất gia”. Hỏi về đạo lý trong Phật pháp
cũng như vậy. Thay vì quí vị hỏi: “Làm sao
mà tôi hiểu được đạo lý ấy?”, thì quí vị
hãy tự hỏi lại chính mình tại sao mình
không hiểu được. Khi quí vị đã hiểu được tại sao
mình không biết thì quí vị sẽ hiểu được tại sao tôi
lại biết được đạo lý ấy. Nay quí vị đều là những người
có nhiều thiện căn nên được dự pháp hội
giảng chú Đại Bi. Vậy quí vị phải nên hộ
trì, bảo trọng cho thiện căn của mình. Tự
mình phải khéo vận dụng thiện căn ấy để tu
học và liễu nhập Phật pháp, đừng để hoài
phí một phút giây nào cả.
Hiện tại
chúng ta đang sống vào thời mạt pháp. Chư
Phật và Bồ – tát rất ít thị hiện ở thế gian. Thời
gian này, lòng người đang tiến dần đến chỗ hoang
liêu, điêu tàn, không dễ gì gặp được chánh pháp,
cũng không dễ gì gặp được bậc chân thiện tri thức.
Có lần tôi
bảo các đệ tử rằng: “ở Đài Loan có mở Đại
giới đàn, năm huynh đệ các con nên đến đó cầu thỉnh
để được thọ giới pháp”. Các đệ tử gửi thư cho tôi biết
nhiều người ở Đài Loan nói với họ rằng: “Chẳng
cần phải tu hành gì cũng có thể thành tựu
đạo nghiệp”. Các đệ tử của tôi trả lời
rằng: “Chúng tôi cũng là những con người
như những con người khác, nếu không chịu
tu hành thì làm sao có thể tựu thành Phật đạo?
Nếu không công phu hành trì thì làm sao liễu ngộ được
chánh pháp”. Nếu quí vị nói rằng không cần phải dụng
công tu tập mà cũng thành Phật, liễu đạo thì
trước đây đức Phật chẳng cần vào núi
Tuyết tu suốt sáu năm làm gì, rồi sau đó
đến ngồi dưới cội bồ đề tinh chuyên thiền
định suốt 49 ngày, đến khi sao Mai vừa mọc
thì Ngài tựu thành chánh giác.
Đức Phật còn
phải tu hành mới thành tựu chánh giác.
Còn mỗi chúng sinh như chúng ta, nếu không tinh tấn
tu hành thì làm sao có thể thành Phật được? Ai ai
cũng đều biết phải nhờ vào tu hành mới đạt được Phật
quả, nhưng người chân thật tu hành thì rất
ít; và ai cũng đều biết nếu không chịu tu
hành thì đều có thể bị đọa vào địa ngục,
nhưng người không chịu tu hành thì không
sao kể xiết. Nghiệp lực thế gian thật là
không thể nghĩ bàn!
Quí Phật tử!
Sống trong thời mạt pháp mà có được điều
kiện để nghiên cứu Phật pháp thì nên dõng mãnh tinh
tấn lên, không nên biếng nhác, hãy siêng năng công
phu, tinh cần đạo nghiệp mới mong có ngày thành tựu.
Nếu không tinh tấn dõng mãnh mà mong thành
tựu đạo nghiệp thì không thể nào có
được.Vì thế nên quí vị đừng ngại gian nan,
khổ nhọc, chướng duyên, tai ách… mọi thứ
nên quên. Phải đánh trống dõng mãnh lên để cho
tinh thần phấn chấn, chỉ một hướng thẳng đến công
phu mới mong có ngày thành tựu quả vị Phật.
Tôi đang nói
về sự vi diệu của Phật pháp. Nếu quí vị
không phát khởi niềm tin vào trí tuệ siêu việt thì đạo
lý này đối với quí vị cũng chẳng có lợi ích gì. Quí
vị có thể thâm nhập Phật pháp từ mọi sinh hoạt
trong cuộc sống, từ mỗi bước chân lặng lẽ
của thời gian trong toàn thể pháp giới…
Trong Phật
pháp, điều gì quí vị cũng muốn diễn bày
cho rõ ràng minh bạch thì thường bị đánh mất những
nghĩa lý sâu mầu vi diệu. Nay tôi dù có trình bày hết
về diệu lý của Phật pháp, nhưng nếu quí vị không
tin sâu và không hành trì thì điều tôi
giảng không còn là diệu pháp nữa. Hơn nữa
sự hành trì cần phải thường xuyên vào mọi
lúc, mọi nơi với tinh thần tinh tấn, không
lui sụt, không biếng nhác. Đây là điều khẩn
thiết nhất. Nếu quí vị mọi thời, mọi lúc đều hướng về
phía trước mà nỗ lực công phu thì nhất định một ngày
kia sẽ trực nhận ra “mặt mày xưa cũ” của chính
mình.
Bàn đà sa mế
dịch nghĩa là “đại quang minh” hay
“trường chiếu minh”, tiêu biểu cho nghĩa thứ năm
trong mười nghĩa của tâm, đó là “quán tâm không”.
Thông qua “quán tâm không”, hành giả mới có được trí
tuệ. Với trí tuệ, hành giả mới có được quang
minh. Có được quang minh, mới tỏa chiếu,
soi sáng khắp mọi pháp giới được. Tức là
không còn tối tăm, mê muội, tức là không
còn vô minh.
Sao gọi là
“vô minh”, vì tâm của quí vị không có được
sự tỏa chiếu soi sáng khắp mọi pháp giới, do vì quí
vị không có được “đại quang minh”. Nếu quí vị có được
“đại quang minh” thì tâm quí vị liền có được sự
tỏa chiếu soi sáng khắp mọi pháp giới, có
nghĩa là quí vị đã chuyển hóa được vô
minh. Một khi vô minh đã bị chuyển hóa
sạch rồi, thì pháp tánh hiển hiện, đây
chính là trí tuệ chân thật của quí vị.
Thuở xưa vào
triều đại nhà Lương ở Trung Hoa có Thiền
sư Chí Công là một bậc Đại đức cao tăng. Không sử
sách nào ghi lại song thân của Thiền sư là ai. Người
ta thường kể với nhau rằng: Một hôm nọ, có người phụ
nữ nghe tiếng khóc của một hài nhi trên
cành cây cao. Cô ta trèo lên, thấy một hài
nhi nằm trong tổ chim ưng, bèn đem hài
nhi về nuôi. Tuy thân thể hài nhi này hoàn
toàn giống như người nhưng những móng
tay, móng chân giống như móng chim ưng. Khi trưởng
thành, xuất gia tu đạo, chứng được ngũ nhãn lục
thông. Không biết cha mẹ Ngài là ai, chỉ biết Ngài
sinh trong tổ chim ưng nên mọi người đều phỏng
đoán Ngài được sinh ra từ trứng chim ưng
vậy.
Thời ấy, vua
Lương Vũ Đế cũng như mọi người đều rất
kính trọng và tin phục các Thiền sư. Bất luận khi họ
gặp những sự kịên gì trong đời sống, như sinh con,
cha mẹ qua đời, cưới hỏi… họ đều cung thỉnh các
Thiền sư đến để tụng kinh chú nguyện.
Một hôm, có
một gia đình giàu có thỉnh Thiền sư đến
tụng kinh chú nguyện nhân dịp đám cưới người con gái
của họ, đồng thời thỉnh Thiền sư ban cho vài lời
chúc mừng để mong rằng trong tương lai, việc hôn
nhân đều được tốt lành như ý. Thiền sư Chí Công
đến nhà ấy, khi nhìn thấy cô dâu chú rể,
Ngài liền nói:
“Thật cổ quái, thật cổ quái!”
“Cháu cưới bà nội”
“Thật cổ
quái” nghĩa là xưa nay chưa từng có một việc
như vậy. Đây không phải là chuyện xưa nay thường xảy
ra. Thật kỳ lạ khi nhìn một đứa cháu cưới bà nội
mình làm vợ. Trên thế gian này, nếu không thông đạt
những nhân duyên trong thời quá khứ thì
không thể nào lý giải được những mối quan
hệ cha con, mẹ con, vợ chồng, anh em, bè
bạn… của nhau. Vì sao? Vì mọi người đều có
thể là chồng hoặc vợ của nhau trong đời
trước. Một người có thể là cha hoặc là con của nhau
trong nhiều đời trước. Hoặc một người đều là mẹ và
con gái của nhau trong đời trước. Ông nội của quí vị
trong đời trước lại kết hôn với cháu gái
của quí vị trong đời này. Hoặc là bà ngoại
đời trước lại tái sinh làm con gái của
quí vị. Tất cả mọi việc đều có thể xảy ra,
và đều chịu sự biến hóa khôn lường.
Trong nhà
này, chuyện “cháu cưới bà nội” là do trước
kia, khi bà nội sắp mất, bà trăn trối lại với toàn
gia quyến: “Con trai ta vừa mới cưới vợ và đã có con
nối dòng. Con gái ta cũng đã có chồng, ta không còn
bận tâm gì nữa”. Bà ta hoàn toàn thỏa mãn
và đã gạt mọi sự bận tâm qua một bên,
ngoại trừ một điều: còn đứa cháu nội,
“tương lai rồi sẽ ra sao? Ai sẽ chăm sóc
nó? Liệu người vợ của nó có đảm đang hay không?
Ta không thể nào không lo cho nó được!”
Bà nắm tay
đứa cháu nội và qua đời. Người ta bảo rằng
nếu mọi việc đều toại nguyện, lúc lâm chung có được
tâm trạng thơ thới thì người chết sẽ nhắm mắt. Còn nếu
không, thì người chết không nhắm mắt được. Bà
lão nói: “Bà rất lo lắng cho cháu, bà chết
không nhắm mắt được”. Nói xong, bà ra đi
mà mắt vẫn mở. Thần thức của bà vẫn còn lo
âu. Khi đến gặp Diêm vương, bà ta than
khóc, thưa rằng:
- Tôi còn đứa cháu nội, không ai chăm sóc nó.
Diêm vương đáp:
- Được rồi, bà hay trở lại dương gian chăm sóc cho nó
Nói xong, bà
ta được đầu thai trở lại trong cõi trần.
Khi đến tuổi thành hôn, bà ta lấy người cháu nội trước
đây của bà ta. Vì vậy nên nói “cháu lấy bà nội”. Quí
vị thấy có phải là cổ quái thật không?
Chỉ vì một
niệm ái luyến không buông xả được mà tạo
nên biết bao duyên nghiệp buộc ràng về sau. Bà ta chỉ
vì bận tâm vì đứa cháu, mà về sau phải làm vợ cho nó.
Quí vị thử nghĩ lại xem, đây chẳng phải là
chuyện cổ quái hay sao?
Quí vị sẽ
hỏi: “Làm sao mà Thiền sư Chí Công biết được
điều ấy?” Thiền sư biết được là vì Ngài đã đạt được
ngũ nhãn và lục thông. Nên chỉ cần nhìn qua, là Ngài
liền biết được ngay kiếp trước của cô dâu vốn là
bà nội của chú rể. Chỉ vì bà nội đã khởi
một niệm ái luyến sai lầm nên nay phải đầu
thai trở lại làm người, và làm vợ của đứa
cháu nội mình. Một niệm lành còn như thế
huống gì là niệm ác, hoặc khởi trùng trùng
niệm ác thì luân hồi trong tam đồ lục đạo biết bao
giờ dứt, biết bao giờ mới mong ra khỏi.
Thiền sư lại
nhìn trong số khách đến dự đám cưới, có
một bé gái đang ăn thịt, Ngài nói: “Con gái ăn thịt
mẹ”.
Vì miếng
thịt mà em bé đang ăn là thịt dê, con dê
này vốn là mẹ của em bé đầu thai lại. Kiếp trước bà
ta đã tạo nghiệp ác quá lớn nên đã phải đọa làm dê.
Nay lại bị chính con mình ăn thịt. Vòng oán nghiệp
khởi dậy do vô minh của chúng sinh không
lời nào kể hết được. Chư Bồ Tát thương
xót, phát tâm cứu độ chúng sinh là do điểm
này.
Khi Thiền sư nhìn các nhạc công, thấy có vị đang đánh trống. Ngài nói:
“Con trai đang đánh bố”.
“Con trai đang đánh bố”.
Vì cái trống
ấy bịt bằng da lừa. Con lừa này chính là
cha của anh nhạc công đầu thai vào. Con lừa này bị
giết thịt, lấy da làm mặt trống. Thật là đau thương
cho kiếp luân hồi.
Ngài nhình quanh đám cưới, nói tiếp:
Ngài nhình quanh đám cưới, nói tiếp:
“Heo dê ngồi ở trên”
Ngài thấy có
vô số loài heo, cừu, dê, gà được đầu thai
trở lại làm người, nay họ đều là bà con thân
quyến của nhau nên cũng đến dự đám cưới này.
Nhìn trong bếp, Ngài nói:
“Lục thân bị nấu trong nồi”.
Chính là cha mẹ, anh em, bà con, bè bạn do
kiếp trước đã sát sinh heo, gà quá nhiều
để ăn, nay lại bị đọa làm heo, dê, gà trở
lại; rồi bị giết thịt, bỏ vào nồi chiên
nấu trở lại.
Ngài nói tiếp:
“Mọi người đều vui vẻ chúc mừng nhau”
Mọi người đến dự đám cưới đều rất vui vẻ mà chúc tụng nhau. Ngài tự than với mình rằng:
“Trông thấy cảnh ấy mà lòng đau xót, ta
biết đó chính là những oán nghiệp xoay vần
vay trả, tạo nên nỗi khổ chất chồng”.
Thiền sư Chí Công biết rõ nhân quả khi nhìn
vào gia đình này. Làm sao chúng ta có thể
hiểu được hết chuỗi nhân quả của từng gia
đình với trùng trùng khác biệt nhau ra
sao. Cho nên những người tu đạo phải rất
cẩn trọng trong khi tu nhân, vì khi nhân
duyên chín mùi sẽ gặt lấy quả tương ứng với nhân đã
gieo. Tại sao người lại trở lại làm người? Là để trả
nợ, trả những món nợ nhân quả ở thế gian. Nếu quí
vị không tìm cách trả món nợ này thì nợ
nần vẫn tiếp tục, như món nợ đã vay của
ngân hàng vậy.
Tôi nhớ một câu chuyện này nữa. Có một gia
đình nuôi một con lừa, dùng nó để kéo cối
xay và chuyên chở. Người chủ thấy lừa quá
chậm chạp nên thường dùng roi đánh nó để
thúc giục. Con lừa làm việc miệt mài trong
cực nhọc cho đến khi chết. Nó được đầu thai
làm người. Khi người chủ hay đánh đập lừa chết, lại
đầu thai làm một người phụ nữ. Khi cả hai người này
đến tuổi thành hôn thì họ cưới nhau.
Quí vị có biết cặp vợ chồng này sống với
nhau như thế nào không? Suốt ngày người
chồng đánh đập người vợ. Ông đánh vợ bất
kỳ lúc nào, bất luận đang cầm vật gì trên
tay, cả lúc đang ăn cơm cũng đánh vợ bằng
đũa. Ông ta vừa đánh vừa chửi, cho dù người vợ
chẳng làm điều gì sai trái.
Một hôm Thiền sư Chí Công đi qua nhà họ. Người phụ nữ bèn thưa với Ngài:
- Chồng con ngày nào cũng đánh và chửi con
qúa chừng mà con không biết tại sao. Bạch
Ngài, xin Ngài hãy dùng ngũ nhãn, lục
thông bảo cho con biết mối tương quan nhân
quả của chúng con đời trước ra sao mà đời
này chồng con đánh đập và chửi mắng con hoài vậy?
Thiền sư Chí Công đáp:
- Tôi sẽ nói rõ tương quan nhân quả của hai
người cho mà nghe. Trong đời trước, bà là
một người đàn ông. Ngày nào bà cũng đánh
đập chửi mắng con lừa, thúc giục nó phải
kéo cối xay bột.
Ông chủ ấy thường đánh con lừa bằng cái
chổi tre. Nay ông chủ được đầu thai lại
làm người phụ nữ, đó chính là bà. Còn con
lừa thì được đầu thai làm người chồng. Nay
ông ta thường hay đánh đập chửi mắng bà
cũng như kiếp trước bà đã thường đánh chửi ông tức
là con lừa vậy. Nay bà đã hiểu rõ nhân quả tương
quan với nhau rồi, tôi sẽ bày cho một cách để chấm
dứt vòng oán nghiệp này. Bà hãy cất giấu tất cả
mọi dụng cụ trong nhà ngoại trừ cái chổi
đuôi ngựa (chổi dây). Khi người chồng thấy
chẳng còn vật gì dùng để đánh cô, anh ta
sẽ cầm chổi dây này để đánh. Cứ để cho anh
ta đánh vài trăm roi, thì nợ cũ của bà mới
được trả. Lúc đó, bà mới báo cho anh ta biết nhân
đời trước và quả đời sau báo ứng với nhau rất rõ
ràng như tôi vừa giải thích cho bà. Anh ta sẽ không
còn đánh bà nữa.
Người phụ nữ làm đúng như lời Thiền sư Chí
Công chỉ dạy. Khi người chồng về đến nhà,
ông ta liền kiếm vật gì đó để đánh vợ. Chỉ
còn thấy chiếc chổi đuôi ngựa, ông ta cầm
lấy và đánh. Thông thường như mọi khi, cô
ta tìm cách chạy trốn. Nhưng lần này cô ta
kiên nhẫn ngồi đó chịu đòn cho đến khi ông chồng
ngừng tay.
Thấy lạ, ông ta hỏi tại sao bà không bỏ
chạy. Cô ta kể lại việc được Thiền sư Chí
Công giải thích cặn kẽ tương quan nhân quả
của hai người. Ông chồng nghe xong ngẫm
nghĩ: “Như thế thì từ nay ta không nên
đánh chửi cô ta nữa. Nếu còn đánh, thì kiếp sau cô
ta sẽ đầu thai trở lại rồi tìm ta để đánh chửi”. Từ
đó ông chồng không còn đánh mắng người vợ nữa.
Thế nên quí vị phải biết mọi người đều có
sự quan hệ với nhau tương ứng với nhân đã
tạo. Quí vị chẳng thể nào biết được trong
đời trước, ai đã từng là mẹ, là anh, là
cha hay là chị em của mình. Cái nhân đã tạo
ở đời trước sẽ tạo thành quả đời này và nhất định có
liên quan đến bà con quyến thuộc của mình. Nếu quí
vị hiểu được đạo lý nhân quả, thì quí vị có thể
chuyển hóa, biến cải được nhân bằng cách từ
bỏ những việc ác.
Còn một chuyện nữa về Thiền sư Chí Công.
Một ngày Ngài ăn hai con chim bồ câu. Ngài
rất thích món ăn này. Người đầu bếp nghĩ
rằng món thịt bồ câu chắc là rất ngon nên
ngày nọ anh ta quyết định nếm thử. Anh ta
làm việc này với hai ý nghĩ: một mặt là muốn thử
xem thức ăn hôm nay mình làm có ngon hay không? một
mặt khác anh ta nghĩ rằng Ngài Chí Công ngày nào
cũng thích ăn bồ câu, nhất định đây là một món
ăn rất ngon, nên muốn thưởng thức một chút
rồi mới đem đến cho Thiền sư dùng.
Khi người đầu bếp mang thức ăn đến. Ngài nhìn đĩa thức ăn và hỏi:
- Hôm nay có ai nếm trộm thức ăn này? Có phải chính anh không?
Người đầu bếp liền chối. Thiền sư liền bảo:
- Anh còn chối. Tôi sẽ cho anh thấy tận mắt ai là người nếm trộm. Hãy nhìn đây!
Ngài liền ngồi ăn. Ăn hết hai con bồ câu
rồi, Ngài liền há miệng rộng, trong đó,
một con bồ câu liền vẫy cánh bay ra còn
con kia thì bị mất một cánh, không thể bay
lên được.
Thiền sư mới bảo:
- Anh thấy đó, nếu anh không nếm trộm thì tại sao con bồ câu này không thể bay được?
Chính là vì ông đã ăn hết một cánh của nó.
Chuyện này làm cho anh đầu bếp biết Thiền
sư Chí Công không phải là người thường.
Ngài chính là hóa thân của Bồ – tát. Thế
nên Ngài có năng lực biến những con bồ câu
bị nấu thành thức ăn rồi thành bồ câu
sống. Không phải là Bồ – tát, không làm chuyện
này được.
Thiền sư Chí Công còn thường ăn một loại cá
gọi là Tuệ Ngư. Cũng đem cá ra nấu nướng
rồi Ngài ăn từ đuôi lên đầu. Nhưng sau đó
Ngài lại há miệng ra làm cá sống lại. Vì
vậy, những việc này là rất thường đối với
cảnh giới của hàng Bồ – tát. Thiền sư Chí
Công là một vị Bồ – tát, nhưng không bao giờ Ngài
nói: “Các ngươi biết không, ta là một vị Bồ – tát,
ta đang giáo hóa chúng sanh, ta có đại nguyện này,
hạnh nguyện kia…” Các vị không bao giờ mong
khởi ý niệm ấy. Cho nên chúng ta là hàng
phàm phu, dù có thấy Chư Phật hay Bồ – tát
cũng không thể nào nhận biết được. Việc
làm của Bồ – tát cũng gần như hành xử của
người thường, nhưng thực chất lại không giống
nhau. Là vì phàm phu khi hành động chỉ nghĩ đến lợi
ích của chính mình, không nghĩ đến sự giúp đỡ cho
người khác. Còn Bồ – tát thì chỉ nghĩ đến lợi ích
của người khác mà không nghĩ đến mình.
Khác nhau là ở điểm này. Bồ – tát thì tự
làm lợi ích cho mình còn lo làm lợi ích
cho người khác. Tự giác ngộ mình xong rồi
giúp cho người khác giác ngộ. Tự độ hoàn toàn,
lợi tha hoàn toàn. ý nghĩa của chú Đại Bi mà tôi
đang giảng cũng nằm trong đạo lý này vậy.
14. Tát bà a tha đậu du bằng
Câu chú này chia làm ba phần. Khi trì tụng lên, câu chú có ba nghĩa khác nhau:
Tát bà có nghĩa là “tất cả”. Còn có nghĩa là “bình đẳng”. Nên Tát bà biểu tượng cho ý thứ hai trong mười tâm, là “bình đẳng tâm”.
Tát bà có nghĩa là “tất cả”. Còn có nghĩa là “bình đẳng”. Nên Tát bà biểu tượng cho ý thứ hai trong mười tâm, là “bình đẳng tâm”.
A tha đậu
dịch nghĩa là “phú lạc vô bần” giàu có, an
lạc, không nghèo nàn về tâm linh, đạo lý, Phật pháp.
Còn dịch nghĩa là “như ý bất diệt”.
“Như ý” nghĩa là ước nguyện điều gì cũng đều được thành tựu.
“Bất diệt” nghĩa là sự thành tựu do nguyện ấy vĩnh viễn không tiêu mất.
Trong mười loại tâm thì đây là “vô vi tâm” nghĩa là “phú lạc vô bần” và “như ý bất diệt”.
Du bằng dịch
là “nghiêm tịnh vô ưu”, là thanh tịnh và
trang nghiêm. Trang nghiêm lại thêm thanh tịnh,
cho nên không có sự lo phiền, ưu não. Câu chú này biểu
tượng cho tâm thứ chín “Vô kiến thủ tâm”. Kiến thủ
là một trong năm món “ngũ lợi sử”. Nghĩa là
khi quí vị vừa trông thấy một vật gì, tâm
liền khởi niệm muốn chiếm đoạt, giữ lấy.
Nên với tâm thứ chín – vô kiến thủ tâm là
trạng thái không có mảy may vọng động về
sự chấp thủ đối với pháp và ngã; đối với chủ thể
cũng như khách thể; đối với ngoại cảnh cũng như dòng
chuyển biến của thức tâm.
15. A thệ dựng
A thệ dựng
la tiếng Phạn, dịch nghĩa “vô tỷ pháp”.
Không có pháp nào có thể so sánh được với pháp này.
Còn có nghĩa là “vô tỷ giáo” nghĩa là không có đạo
giáo nào có thể so sánh được. Câu chú này biểu tượng
cho tâm thứ bảy, được gọi là “ty hạ tâm”,
là tâm rất cung kính và tùy thuận bất kỳ
người nào mình gặp. Câu chú này còn biểu
tượng cho tâm thứ tám, gọi là “vô tạp loạn
tâm”. Đây chính là pháp thanh tịnh, không
chút cấu nhiễm, chính là pháp bát nhã tâm của
Quán Thế Âm Bồ – tát.
Mười loại
tâm này là tướng của Đà - la – ni, chúng
ta phải đem những đạo lý này hành trì không xao
nhãng và gián đoạn. Chúng ta tu tập theo tinh thần của
kinh Đại bi tâm Đà la ni thì chắc chắn sẽ thành tựu
đạo nghiệp, đắc thành chánh quả.
16. Tát bà tátđá, na ma bà tát đa, na ma bà già
Tát bà tát đá là tiếng Phạn, dịch là “Đại thân tâm Bồ – tát”.
Na ma bà tát
đa. Hán dịch là “đồng trinh khai sĩ”, là
tên gọi khác của pháp vương tử, cũng là hàng Bồ –
tát. “Đồng trinh” biểu tượng cho bản tánh. Còn “khai
sĩ” cũng là một danh hiệu khác của Bồ –tát, có nơi
gọi là “đại sĩ”. Các vị Bồ – tát lúc sắp
thành tựu Phật quả, đều được gọi là pháp
vương tử, tên gọi của hàng Thập địa Bồ –
tát.
Na ma bà
già. Hán dịch là “Vô đẳng đẳng”. Giống như
ý nghĩa trong Bát nhã tâm kinh “Cố tri Bát – nhã ba
– la – mật - đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú,
thị vô lượng chú, vô đẳng đẳng chú”.
Quí vị có
thể hỏi: “Cái gì không thể sánh bằng?” “Đó
là bà già, Hán dịch là Thế tôn”. Bà già là chư Phật
thường trụ ở khắp trong mười phương.
17. Ma phạt đạt đậu
Ma phạt đạt đậu dịch nghĩa là “Thiên thân, thế hữu”.
Câu chú này
có nghĩa là: “Kính lạy chư Bồ – tát, xin
hãy duỗi lòng từ cứu giúp con. Xin các Ngài hãy là
thân quyến ở cõi trời của chúng con và là người bạn
ở cõi thế gian này của chúng con, để hộ trì cho mọi
thiện pháp được thành tựu”.
Câu chú này thỉnh nguyện sự gia trì của mười phương chư Phật và chư Bồ – tát.
18. Đát điệt tha - án
Trong Bát nhã tâm kinh có nói: “Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết...”
Đát điệt tha
Hán dịch là “tức thuyết chú viết”. Còn
dịch là “Sở vị”. Bồ – tát Quán Thế Âm dùng Tâm đại
bi mà nói ra chơn ngôn này, nói bằng các chủng tự của
Phạm Thiên.
Đát điệt tha
còn có nghĩa là “thủ ấn” nghĩa là kết ấn
bằng tay. Cũng gọi là “trí nhân” nghĩa là khai mở
con mắt trí tuệ của chúng sinh.
Đát điệt tha
lại còn có nghĩa là vô lượng pháp môn tu
học và trí huệ nhãn vô lượng. Đó là ý nghĩa của
“Sở vị”.
Chữ án như
đã nói ở trước, khi quí vị trì niệm trì
niệm đến chữ án thì quỷ thần đều phải chắp tay cung
kính, lắng nghe người niệm chỉ giáo. Chữ án còn có
công năng lưu xuất nhiều pháp môn sau đây.
19. A bà lô hê
A bà lô hê
chính là Bồ – tát Quán Thế Âm. Có nghĩa là
“quán sát”. Dùng trí tuệ để quán sát mọi âm thanh
oqr thế gian. Trong thế gian có nhiều loại âm thanh.
Bồ – tát Quán Thế Âm quán sát âm thanh, tiếng kêu
than cầu xin cứu khổ của người ở thế gian
khi họ không thể vượt qua nổi những khổ
nạn.
20. Lô ca đế
Lô ca đế
nghĩa là “Tự tại” hoặc là “Thế Tôn”. Hợp lại
hai câu trên A bà lô hê lô ca đế nghĩa là Bồ – tát
dùng trí tuệ để quán sát âm thanh ở thế gian. Chính
là danh hiệu của Bồ – tát Quán Thế Âm.
21. Ca ra đế
Ca ra đế
dịch là “Bi giả” là người có lòng từ bi rộng
lớn, thường cứu giúp chúng sinh thoát khỏi khổ đau
và thất vọng. Người mà có thể cứu giúp cho chúng
sinh vơi bớt khổ đau là một người “đại bi”. Ca ra đế
còn có nghĩa là “tác giả”. Người có thể
làm cho đạo nghiệp sinh khởi, giúp cho mọi
chúng sinh đều phát tâm bồ - đề, phát
nguyện làm những việc khó làm như hành Bồ –
tát đạo để tiến tới tựu thành Phật quả.
22. Di hê rị
Di hê rị
dịch nghĩa là “Thuận giáo”. Khi quí vị trì
tụng đến câu chú này, nghĩa là quí vị tự phát nguyện:
“Con nhất quyết thực hành theo hạnh nguyện của Bồ –
tát Quán Thế Âm, sẽ giáo hoá cho tất cả chúng
sanh. Con nguyện nương theo giáo pháp Ngài
đã dạy mà tu hành”.
Di hê rị còn
có nghĩa là “Y giáo phụng hành”. Nương
theo lời dạy của Bồ – tát Quán Thế Âm cũng như Quán
Thế Âm của tự tâm để thực sự tu trì.
23. Ma ha bồ đề tát đoả
Ma ha có nghĩa là “đại” là to lớn.
Bồ - đề có nghĩa là “giác đạo”, là giác ngộ được đạo lý chân chính.
Tát đoả. Hán
dịch là “đại dũng mãnh giả”. Câu này có
nghĩa chư vị Bồ – tát là người phát tâm đại bồ - đề
rất dũng mãnh và phát tâm tu hạnh Bồ đề. Phát bồ đề
tâm nghĩa là gieo trồng nhân giác ngộ, tu bồ - đề
hạnh là vun trồng, tưới tẩm cho hạnt giống
bồ - đề đã gieo được nảy mầm, rồi mới
mong gặt được quả giác ngộ, tức là quả vị
Vô thượng bồ - đề.
Đây là ý
nghĩa của câu chú Ma ha Bồ đề tát đoả. Câu
chú này thuyết minh về công hạnh trang nghiêm viên
mãn của chư vị Bồ – tát là do định huệ song tu. Khi
Định đã lắng trong thì Huệ cũng được chiếu sáng. Khi
Huệ đã viên mãn, thì Định viên dung. Vì
Bồ – tát Quán Thế Âm đã đạt được định lực
viên mãn, nên xuất sinh trí tuệ sáng suốt.
Vì Bồ – tát đã đạt được trí tuệ viên mãn,
nên Ngài mới đạt được định lực lắng
trong. Không có Định thì chẳng có Huệ và không có Huệ
thì chẳng đạt được Định. Nên gọi định huệ không hai
là vậy.
Do nhờ tu
tập vô số công hạnh mà Bồ – tát được trang
nghiêm thân tướng nên chư vị không rời bỏ một pháp
nào dù nhỏ bé hoặc vô cùng vi tế. Dù một việc thiện
nhỏ nhất, cho đến lớn nhất, chư vị Bồ – tát đều hoàn
tất chu đáo. Nên kinh có dạy”
“Chớ khinh việc thiện nhỏ mà không làm
Chớ xem thường việc ác nhỏ mà không tránh”.
Các vị Bồ –
tát thường siêng năng làm các điều thiện
và dứt khoát từ bỏ các việc ác, chư vị phát bồ - đề
tâm và đạt được quả vị giác ngộ Vô thượng bồ - đề.
Chư vị trang nghiêm pháp thân bằng vô số công hạnh.
Chư vị phát đại bi tâm, thực hành đại pháp
vô duyên từ tuỳ theo tâm lượng của chúng
sinh mà làm Phật sự. Nhưng chính các vị Bồ
– tát, tự bản tánh và bản thể của các
Ngài không hề gợn một mảy may tướng trạng của
chúng sinh tâm. Các Ngài tự thấy mình và toàn thể
chúng sinh có đồng một thể tánh, không hề phân hai.
Các Ngài không chỉ chịu khổ cho riêng mình, mà ước
nguyện giúp cho chúng sinh thoát khỏi mọi
khổ luỵ. Dù các Ngài chuyển hoá tất cả
mọi sự thống khổ cho chúng sinh mà không
hề dính mắc chút nào vào việc mình có độ
thoát cho chúng sinh. Các Ngài không bao
giờ tự cho rằng:
“Tôi đã cứu
độ cho anh rồi, nay anh phải cám ơn tôi.
Tôi đã giúp anh thoát khỏi mọi phiền não, anh phải tỏ
ra biết ơn tôi”.
Chính vì chư
vị Bồ – tát không có tâm niệm như vậy,
nên các Ngài mới có thể ứng hiện ba mươi hai thân tướng,
để kịp thời đáp ứng mọi tâm nguyện của mọi loài
chúng sinh. Chẳng hạn như cần ứng hiện thân Phật để
độ thoát chúng sinh, thì chư vị Bồ – tát
liến ứng hiện thân Phật để giảng dạy giáo
pháp cho chúng sinh khiến họ được giải
thoát. Nếu cần thiết hiện thân Bích Chi
Phật, thì các Ngài liền ứng hiện thân Bích Chi Phật
để giáo hoá chúng sinh, giúp họ được giải thoát.
Cũng như vậy, các Ngài có thể ứng hiện thân A la hán,
vua chúa... để giúp cho chúng sinh được độ
thoát. Chư vị Bồ – tát có khả năng hóa
hiện thành ba mươi hai ứng thân để cứu độ
các loài chúng sinh. Các Ngài cũng có được
mười bốn pháp vô uý và bốn pháp bất khả
tư nghì. Đó là bốn loại thần thông diệu dụng không
thể nghĩ bàn. Các Ngài đã chứng đạt được quả vị chân
thật viên thông, đã thành tựu quả vị Vô thượng bồ -
đề. Đó là sự thành tựu quả vị của Bồ – tát
Quán Thế Âm.
24. Tát bà tát bà
Tát bà tát
bà. Hán dịch là “nhất thiết lợi lạc”. Câu
chú này bao hàm cả Bảo thủ nhãn ấn pháp, nghĩa là
mang đến mọi thứ lợi lạc cho mọi người.
Bằng cách
hành trì ấn pháp này, quí vị có khả năng
đem sự an vui lợi lạc đến cho hết thảy mọi loài
chúng sinh. Thiên vương, Diêm vương, Quỷ vương đều
chấp hành theo người trì tụng ấn chú này. Quí vị bảo
họ: “Hãy thả tội nhân này ra” thì Diêm vương
liền tức khắc thả ra liền. Vì sao vậy? Vì
quí vị đã có được Bảo ấn này.
Bảo ấn này
cũng như ấn của vua vậy. Trên chiếu thư có
ngọc ấn của vua thì khắp thiên hạ, ai có trách
nhiệm gì cũng phải tuân theo chiếu thư mà thi hành,
không ai dám chống lại. Với Bảo ấn, quí vị có thể
làm lợi lạc, an vui cho mọi loài chúng sinh. Quí
vị có thể chỉ bảo cho họ biết sự lợi lạc
để phát nguyện hành trì. Và sẽ đạt được sự
an lành. Vì vậy nên gọi là “Nhất thiết
lợi lạc”.
Người Trung
Hoa đều biết có một vị Tiên, biết sử dụng
một ấn chú gọi là “Phiên thiên ấn”. Người con của Quảng
Thành vương cũng có một phiên thiên ấn. Chính là ấn
này vậy. Đạo Lão gọi là “Phiên thiên ấn”. Bồ –
tát Quán Thế Âm gọi là “Bảo ấn”.
Nếu quí vị
dụng công hành trì thì nhất định sẽ thành
tựu Bảo ấn này. Khi thành tựu rồi, nếu có người vừa
mới chết hoặc sắp chết, quí vị chỉ cần trì ấn này
vào một tờ giấy, và viết vài dòng cho Diêm vương:
“Hãy tha cho người này sống lại ngay. Hãy tha
cho anh ta trở về dương gian”. Diêm vương
không dám từ chối. Diệu dụng của Bảo ấn có
thể giúp cho người chết sống lại. Nhưng
để sử dụng được Bảo ấn này, trước hết quí
vị phải thành tựu công phu tu tập đã. Nếu công
phu chưa thành tựu thì chẳng có kết quả gì.
Thế nào
nghĩa là thành tựu công phu tu hành? Cũng giống
như đi học. Trước hết, quí vị phải vào tiểu học, rồi
lên trung học, rồi thi vào đại học. Rồi cuối cùng có
thể được học vị Tiến sĩ.
Tu tập để
thành tựu Bảo ấn này cũng như đạt được học
vị Tiến sĩ vậy. Nhưng tạm ví dụ vậy thôi, chứ Bảo ấn
này không có gì so sánh được.
Tát bà tát
bà nghĩa là “lợi lạc cho tất cả mọi loài
chúng sinh”. Quí vị thấy sự diệu dụng vô biên đến
như thế. Nên gọi ấn này là Bảo ấn. Nếu quí vị muốn sử
dụng được Bảo ấn này thì phải công phu tu trì qua cả
bốn mươi hai thủ nhãn. Tát bà tát bà chỉ
là một trong bốn mươi hai ấn pháp ấy mà
thôi.
Có người
nghe tôi giảng như vậy sẽ khỏi nghĩ rằng:
“Ta sẽ tu tập Bảo ấn này ngay để bất kỳ lúc nào có
người sắp chết, ta sẽ sử dụng ấn này, ra lệnh cho
Diêm vương không được bắt người ấy chết”. Quí vị cứ
thực hành, quí vị có thể giúp người kia khỏi
chết, như ng đến khi quí vị phải chết, thì
chẳng có người nào giúp quí vị thoát khỏi
chết bằng Bảo ấn này cả.
Tôi đã có
dịp sử dụng ấn này hai lần. Một lần ở Mãn
Châu và một lần ở Hương Cảng. Lần ở Mãn Châu là trường
hợp cứu một người sắp chết. Người này chắc chắn sẽ
chết nếu tôi không sử dụng Bảo ấn này. Vào một
chiều trời mưa ngày 18 tháng 4 âm lịch.
Một người tên là Cao Đức Phúc đến chùa Tam
Duyên, nơi tôi đang ngụ. Anh ta quỳ trước
tượng Phật, cầm một cây dao bọc trong
giấy báo, chuẩn bị sẵn sàng chặt tay để cúng
dường chư Phật. Quí vị nghĩ sao? Anh ta khôn ngoan
hay không? Dĩ nhiên là quá ngu dại. Tuy nhiên sự ngu
dại của anh ta lại xuất phát từ lòng hiếu đạo.
Quí vị biết không. Mẹ anh ta bị bệnh trầm
trọng gần chết. Do vì thường ngày mẹ anh
ta nghiện thuốc phiện nặng. Nhưng bệnh bà
quá nặng đến mức hút thuốc phiện cũng
không được nữa. Bà ta nằm co quắp, chẳng ăn uống gì.
Đầu lưỡi đã trở sang màu đen, môi miệng nứt nẻ. Bác
sĩ Đông, Tây y đều bó tay, không hy vọng gì còn
chữa trị được. Nhưng người con trai của bà
nguyện: “Lạy Bồ – tát rất linh cảm, con
nguyện đến chùa Tam Duyên chặt tay cúng
dường chư Phật. Với lòng chí thành, con
nguyện cho mẹ con được lành bệnh”.
Ngay khi
chàng trai sắp chặt tay, có người nắm tay
anh ta lôi lại đằng sau rồi nói: “Anh làm gì thế,
anh không được vào đây mà tự sát”.
Anh ta trả lời:
- “Tôi chỉ
chặt tay cúng dường chư Phật, cầu nguyện
cho mẹ tôi được lành bệnh. Ông đừng cản tôi”.
Chàng trai
chống lại, nhưng người kia không để cho
anh ta chặt tay nên liền cho người báo cho Hoà thượng
trụ trì biết. Hoà thượng cũng không biết phải làm
sao, Ngài liền phái cư sĩ Lý Cảnh Hoa, người hộ pháp
đắc lực của chùa đi tìm tôi.
Dù lúc ấy,
tôi vẫn còn là chú Sa – di. Tôi được giao
nhiệm vụ như là tri sự ở chùa Tam Duyên, chỉ dưới
Hoà thượng trụ trì. Tôi chỉ là một chú tiểu, nhưng
không giống như những chú tiểu cùng ăn chung nồi,
cùng ngủ chung chiếu. Tôi thức dậy trước mọi
người và ngủ sau tất cả mọi người. Tôi làm
những việc mà không ai muốn làm và chỉ ăn
một ngày một bữa trưa, không ăn phi thời.
Tu tập chính là sửa đổi những sai lầm vi
tế. Nếu khi chưa chuyển hoá được những lỗi lầm
nhỏ nhặt ấy, có nghĩa là mình còn thiếu năng lực
trong công phu.
Hoà thượng trụ trì giao việc đó cho tôi. Tôi liền đến bạch Hoà thượng:
- “Phật tử đến cầu Hoà thượng cứu giúp. Nay Hoà thượng lại giao cho con. Hoà thượng làm cho con thật khó xử”.
Hoà thượng trụ trì bảo:
- “Con hãy đem lòng từ bi mà cứu giúp họ”.
Hoà thượng dạy những lời rất chí lý. Tôi
vốn chẳng ngại khó nhọc, nên khi nghe
những lời đó, tôi rất phấn khích, tôi
thưa:
- Bạch Hoà thượng, con sẽ đi.
Tôi bảo chàng trai:
- Anh hãy về nhà trước, tôi sẽ theo sau.
Anh ta nói:
- Nhưng thầy chưa biết nhà con?
Tôi đáp:
- Đừng bận tâm về tôi. Hãy cứ về nhà trước.
Lúc ấy là vào khoảng năm giờ chiều, mặt
trời vừa xế bóng. Anh ta đi theo đường lộ
chính, còn tôi đi theo đường mòn. Nhà anh
ta cách chùa chừng sáu dặm. Anh ta quá đỗi
sửng sốt khi về đến nơi, anh ta đã thấy
tôi ngồi đợi anh trong nhà.
- Bạch thầy, sao mà thầy biết nhà con mà đến sớm thế?
Tôi nói:
- Có lẽ anh vừa đi vừa chơi, hoặc anh ham xem bóng đá hay truyền hình gì đó.
Cậu ta đáp:
- Thưa không, con cố hết sức đi thật nhanh để về nhà.
Tôi nói:
- Có lẽ xe đạp của anh đi không được nhanh như xe tôi, nên tôi đến trước.
Ngay khi vào thăm bà mẹ, tôi thấy không thể
nào cứu sống bà ta được. Nhưng tôi vẫn
quyết định cố gắng hết sức để cứu bà. Tôi
dùng Bảo ấn viết mấy dòng:
“Chàng trai này có tâm nguyện rất trí
thành, nguyện chặt tay cúng dường chư Phật
để cứu mẹ sống. Tôi đã ngăn cản anh ta
chặt tay. Bằng mọi cách, xin cho mẹ anh ta
được sống”.
Tôi gửi Bảo ấn đi, sáng hôm sau bà ta vốn
đã nằm bất động suốt bảy, tám ngày nay,
chợt ngồi dậy gọi con trai bằng tên tục.
- Phúc ơi... Phúc ờ... mẹ đói quá, cho mẹ tí cháo...
Chàng trai suốt bảy, tám ngày nay không
nghe mẹ gọi. Nay cực kỳ vui sướng. Anh ta
chạy đến bên giường nói với mẹ:
- Mẹ ơi, mẹ đã nằm liệt giường suốt tám ngày nay. Nay mẹ khoẻ rồi chứ?
Bà ta trả lời:
- Chẳng biết bao lâu nữa. Mẹ bị rượt chạy
trong một cái hang tối đen thăm thẳm không
có ánh sáng mặt trời, mặt trăng ánh sao
hay đèn đuốc gì cả. Mẹ chạy và cứ chạy hết
ngày này qua ngày khác để tìm đường về
nhà mình. Mẹ có kêu, nhưng chẳng ai nghe. Cho đến
đêm hôm qua, mẹ mới gặp một vị sư khổ hạnh mang y cà
sa đã mòn cũ, vị này đã dẫn mẹ về nhà... Con cho mẹ
ăn tí cháo loãng để cho đỡ đói.
Người con nghe mẹ nói đến vị sư, liền hỏi:
- Nhà sư mẹ gặp dung mạo như thế nào?
Bà đáp:
- Ngài rất cao. Nếu mẹ được gặp lại, mẹ sẽ nhận ra ngay.
Lúc đó tôi đang nghỉ trên giường. Anh ta liền đến bên tôi, chỉ cho mẹ và hỏi:
- Có phải vị sư này không?
Bà nhìn tôi chăm chú rồi kêu lên:
- Đúng rồi, chính thầy là người đã đưa mẹ về nhà.
Lúc đó, toàn gia quyến chừng mười người, gồm cả già trẻ, đều quỳ xuống trước mặt tôi thưa:
- Bạch Thầy, Thầy đã cứu mẹ con sống lại.
Nay toàn gia đình chúng con cầu xin được
quy y thọ giới với Thầy. Bất luận nhà chùa
có việc gì, con nguyện đem hết sức mình
xin làm công quả, và tuân theo lời chỉ dạy
của Thầy để tu hành.
Về sau, dân cả làng này đều đến chùa xin quy y và cầu xin tôi chữa bệnh cho họ. Tôi bảo:
- Tôi chỉ có phép chữa bệnh bằng cách đánh đòn. Quí vị có chịu thì tôi chữa.
Họ đồng ý và tôi phải chữa. Có nghĩa là bắt
người bệnh nằm xuống, đánh một người ba
hèo bằng cái chổi tre. Đánh xong, tôi hỏi:
- Đã hết bệnh chưa?
Thật là ngạc nhiên. Họ lành bệnh thật!
Đó là một chuyện phiền phức xảy ra ở Mãn
Châu. Lần thứ 2 tôi dùng Bảo ấn này là ở
Hương Cảng. Khi bố của cô Madalena Lew 79
tuổi bị bệnh. Các vị bói toán đều bảo rằng
ông ta chắc chắn sẽ qua đời trong năm
nay. Ông ta đến gặp tôi xin quy y Tam Bảo để cầu
nguyện gia hộ cho ông được sống thêm ít năm nữa.
Ông thưa:
- Bạch Thầy. Xin Thầy giúp cho con được sống thêm một thời gian nữa.
Tôi bảo:
- Thế là ông chưa muốn chết. Tôi sẽ giúp cho ông sống thêm 12 năm nữa? Được chưa?
Ông rất mừng vội đáp:
- Thưa vâng, được như thế thật là đại phúc.
Rồi tôi chú nguyện cho ông ta và ông ta được sống thêm 12 năm nữa.
Tuy nhiên, quí vị không nên dùng ấn pháp này để giúp cho người ta khỏi chết hoặc là cứu họ sống lại khi họ đã chết rồi. Nếu quí vị làm như vậy, quí vị trở nên đối đầu với Diêm vương. Lúc ấy Diêm vương sẽ nói:
Tuy nhiên, quí vị không nên dùng ấn pháp này để giúp cho người ta khỏi chết hoặc là cứu họ sống lại khi họ đã chết rồi. Nếu quí vị làm như vậy, quí vị trở nên đối đầu với Diêm vương. Lúc ấy Diêm vương sẽ nói:
- Được rồi. Thầy đã giúp cho người ta khỏi chết, nay Thầy phải thế mạng.
Đến khi quí vị gặp cơn vô thường; chẳng có
ai dùng Bảo ấn này để giúp được cả. Nếu
quí vị nghĩ rằng mình có thể sử dụng Bảo
ấn để cứu mình khỏi chết là quí vị lầm.
Diệu dụng của ấn pháp cũng giống như lưỡi
dao, tự nó không thể cắt đứt được chuôi dao của
chính nó. Nên khi quí vị gặp bước đường cùng, thì
cũng giống như chuyện vị Bồ – tát bằng đất nung:
Bồ Tát bằng đất nung đi qua biển.
Khó lòng giữ thân được vẹn toàn.
Vậy nên nếu quí vị dù đã thông thạo trong
khi sử dụng ấn pháp này, cũng phải công
phu hành trì thêm. Vì lý do này mà tôi ít
để ý đến việc riêng của người khác nữa.
25. Ma ra ma ra
Hai câu chú này, Hán dịch là “tăng trưởng”.
Cũng có nghĩa là “như ý” hoặc “tuỳ ý”. Đó
là công năng của Như ý Châu thủ nhãn, làm
tăng trưởng phước huệ, làm cho mọi việc
đều được tốt lành như ý.
“Như ý” nghĩa là tuỳ thuận với tâm nguyện mà được đáp ứng.
Quí vị có thấy lợi ích vô biên của ấn pháp
này không? Vì vậy nên công năng ấn pháp
này là thứ nhất trong bốn mươi hai thủ
nhãn ấn pháp. Diệu dụng của Như ý Châu thủ
nhãn vượt ngoài sự diễn tả bằng ngôn ngữ.
Nếu quí vị muốn giàu có, hãy hành trì theo
thủ nhãn ấn pháp này. Một khi đã thành tựu
rồi, thì quí vị sẽ có được mọi thứ và
không còn bận tâm vì nghèo khổ nữa. Quí vị
luôn luôn giàu có và được vô lượng phước
lạc.
26. Ma hê ma hê rị đà dựng
Ma hê ma hê. Hán dịch là “Vô ngôn cực ý”
“Vô ngôn” nghĩa là không cần phải nói nữa.
“Cực ý” có nghĩa là ý niệm kia đã đạt đến chỗ tối thượng, đã đạt chỗ vi diệu rồi.
Ma hê ma hê
cũng còn có thể dịch là “tự tại”. Tự tại
như Đại Phạm Thiên Vương: không buồn, không phiền,
không lo, không giận. Suốt ngày đều được tự chủ và
an vui.
Đây là “ngũ sắc vân thủ nhãn”. Khi biết ấn này, sẽ làm lưu xuất ra mây lành ngũ sắc, và hành giả sẽ đạt được năng lực tự tại phi thường. Diệu dụng và năng lực tự tại của ấn pháp này thực là vô lượng vô biên.
Đây là “ngũ sắc vân thủ nhãn”. Khi biết ấn này, sẽ làm lưu xuất ra mây lành ngũ sắc, và hành giả sẽ đạt được năng lực tự tại phi thường. Diệu dụng và năng lực tự tại của ấn pháp này thực là vô lượng vô biên.
Rị đà dựng
là “Thanh Liên Hoa thủ nhãn”. Có nghĩa là
“Liên hoa tâm”. Khi quí vị hành trì ấn pháp này
thành tựu, sẽ được mùi hương hoa sen xanh toả ra, và
được mười phương chư Phật tán thán. Sự vi diệu thật
khó có thể nghĩ bàn. Đúng là:
Pháp Phật cao siêu thật nhiệm mầu
Trăm ngàn ức kiếp khó tìm cầu!
27. Cu lô cu lô yết mông
Cu lô cu lô.
Hán dịch là “tác pháp”, hoặc dịch là “tác
dụng trang nghiêm”, lại còn có nghĩa là “xuy
loa giải giới”. Đây ta chính là Bảo loa thủ nhãn ấn
pháp.
Nay chúng ta
đang sống trong thời mạt pháp. Nhiều
người nghĩ rằng chỉ cần trì tụng chú Đại Bi là khế hợp
với chân tinh thần Phật pháp rồi, nhưng thực ra
không phải thế. Chú Đại Bi là gọi thay cho bốn mươi
hai thủ nhãn ấn pháp và diệu dụng của chú
Đại Bi là diệu dụng của bốn mươi hai thủ
nhãn ấn pháp, đó chính là toàn thể của chú
Đại Bi. Nếu quí vị chỉ biết trì niệm chú
Đại Bi mà không hành trì bốn mươi hai thủ
nhãn ấn pháp thì như người có tay mà không có
chân, nên không thể đi được. Mặt khác, nếu quí vị chỉ
biết hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp mà không
trì niệm chú Đại Bi thì cũng như người có
chân mà không có tay, không làm gì được
cả. Cũng vô dụng mà thôi. Vậy nên để liễu
triệt chú Đại Bi, trước hết quí vị phải
thông đạt bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp
rồi phải trì tụng chú Đại Bi nữa, mới được gọi là
người thành tựu rốt ráo diệu pháp này của chư Phật.
Không phải chỉ vừa mới nghe pháp sư giảng về chú Đại Bi xong rồi liền nói:
- “à! Tôi đã hiểu được câu chú đó nghĩa là gì rồi”.
- “à! Tôi đã hiểu được câu chú đó nghĩa là gì rồi”.
Hiểu như thế
cũng chẳng ích lợi gì cả. Cũng giống như
người có thân thể nhưng chẳng có tay chân gì cả.
Quí vị đã có đủ cả thân thể, tay chân, phải giúp cho
chúng hoạt động phối hợp với nhau mới làm nên phước
đức được.
Bảo loa thủ
nhãn ấn pháp là dùng để tác pháp khi quý
vị kiến lập đạo tràng, quý vị nên dùng Bảo loa ấn
pháp này. Khi quý vị tác pháp này thì những âm thanh
vang lên tận cõi trời, thấu tận địa ngục. Khắp cõi
nhân gian, và khắp mọi nơi đều có ảnh hưởng.
Bất kỳ mọi nơi nào nghe đến âm thanh này
đều ở trong sự điều khiển của người trì ấn
pháp. Các loài yêu ma quỷ quái đều phải
tuân phục, không thể xâm hại. Đây còn gọi
là sự kiết giới.
ấn pháp này còn gọi là “tác dụng trang nghiêm”. Có nghĩa là dùng cơn lốc quang minh tâm lực của Bảo loa ấn pháp sẽ tạo nên một pháp âm vi diệu, khiến cho đất bằng hoá thành vàng ròng, đều được trang nghiêm bằng bẩy thứ châu báu. Thật là vi diệu khó thể nghĩ bàn. Quý vị Phật tử đang tu học Phật Pháp nên biết rằng trong 300 năm trở lại đây, không có ai hành trì được bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp và cũng chẳng có ai thông hiểu được các ấn pháp này.
ấn pháp này còn gọi là “tác dụng trang nghiêm”. Có nghĩa là dùng cơn lốc quang minh tâm lực của Bảo loa ấn pháp sẽ tạo nên một pháp âm vi diệu, khiến cho đất bằng hoá thành vàng ròng, đều được trang nghiêm bằng bẩy thứ châu báu. Thật là vi diệu khó thể nghĩ bàn. Quý vị Phật tử đang tu học Phật Pháp nên biết rằng trong 300 năm trở lại đây, không có ai hành trì được bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp và cũng chẳng có ai thông hiểu được các ấn pháp này.
Nay chúng ta
đã hiểu được chú Đại Bi, chúng ta nên chí
thành và phát tâm kiên cố hành trì bốn mươi hai
thủ nhãn ấn pháp này. Rồi sẽ có được diệu dụng.
Yết mông là
tiếng Phạn, vốn là ngôn ngữ của Đại phạm
thiên, chứ không phải là ngôn ngữ của ấn Độ, nhưng
văn pháp ngôn ngữ ấn Độ cũng căn cứ trên ngôn ngữ của
Đại phạm thiên.
Yết mông là
tiếng Phạn. Hán dịch là “biện sự”, cũng
dịch là “công đức”. Có nghĩa là làm tất cả mọi việc
có công đức lợi lạc cho mọi người. Làm việc lợi lạc
công đức cho mọi người cũng chính là tạo công đức
cho chính mình. Bồ – tát thực hành hạnh tư
lợi và lợi tha, tự giác ngộ giải thoát cho
mình và giác ngộ giải thoát cho người
khác.
Câu chú này
nói đến sự thực hành lục độ và vạn hạnh.
Đó chính là Bạch Liên Hoa thủ nhãn ấn pháp. Hãy tưởng
tượng quí vị đang cầm trong tay đoá hoa sen trắng.
Tay quí vị cầm cành hoa sen và miệng trì niệm chú
Yết mông yết mông...
Không những
quí vị trì tụng chú mà còn hành trì mật
ấn. Khi trì tụng cả hai pháp này, quí vị mới có thể
tạo nên mọi công đức. Khi quí vị trì tụng chú Đại
Bi, đồng thời cũng thông hiểu được cách hành trì bốn
mươi hai thủ nhãn ấn pháp thì quí vị mới có
thể thành tựu lục độ vạn hạnh. Diệu dụng
bất khả tư nghì, không bao giờ nói hết
được. Nếu có thể nói được chỗ nhiệm mầu ấy
thì nó phải có ngần mé. Mà những điều mầu
nhiệm thì không có hạn lượng, không có chỗ khởi đầu
và kết thúc. Với sự trì niệm Yết mông, quí vị có thể
thành tựu được vô lượng công đức. Trong nhiều đời
sau, quí vị mãi mãi được trang nghiêm bởi
hương thơm của hoa sen trắng và luôn luôn
được hộ trì.
Sự vi diệu,
mầu nhiệm của chú Đại Bi dù có tán thán
cũng không bao giờ hết, không bao giờ cùng tận.
28. Độ lô độ lô, phạt già ra đế
Độ lô độ lô.
Hán dịch là “độ hải” nghĩa là vượt qua
biển khổ sinh tử. Còn dịch nghĩa “minh tịnh”.
Khi đã vượt
qua biển khổ sinh tử rồi, quí vị sẽ đạt
được trí tuệ sáng suốt, chứng nhập bản thể thanh tịnh,
đến được bờ bên kia, tức thể nhập Niết Bàn. Từ trong
bản thể sáng suốt thanh tịnh ấy, trí tuệ sẽ được
lưu xuất, quí vị sẽ hiểu rõ được tất cả
mọi pháp môn, chắc chắn quí vị sẽ chấm dứt
được vòng sinh tử. Với đại định, tâm quí
vị hoàn toàn thanh tịnh. Đó là định lực, khi
quí vị có được định lực chân chánh thì có thể vãng
sanh ở cõi tịnh độ tươi sáng, đó là thế giới Cực Lạc.
Đây là
Nguyệt Tịnh Ma Ni thủ nhãn ấn pháp, là diệu
pháp Đà - la – ni do Bồ – tát Nguyệt Quang tuyên
thuyết. ấn pháp Nguyệt Tịnh thủ nhãn này có công
năng đưa mọi người đến chỗ sáng suốt và an lạc.
Phạt già ra đế là Bàng Bi thủ nhãn ấn pháp.
Phạt Già Ra
đế. Hán dịch là “Quảng bác trang nghiêm”,
còn có nghĩa là “Quảng đại”. Cũng dịch là “độ sinh tử”.
Nếu quí vị tu tập hành trì Bàng Bi thủ nhãn ấn pháp
này thì quí vị có thể vượt qua biển khổ sinh tử,
có nghĩa là giải thoát. Nếu quí vị không
công phu hành trì ấn pháp bàng bi thủ nhãn
này, thì không thể nào vượt thoát bể khổ
sinh tử, đến bờ giải thoát, niết bàn được.
29. Ma ha phạt già da đế
Câu chú này có nghĩa là “Tối thắng, đạipháp đạo”.
Pháp là
quảng đại, tối thắng và đạo cũng quảng đại,
tối thắng. Pháp đạo là chân lý vượt lên trên tất cả
mọi sự thù thắng nhất trên đời.
Đây là Bảo
Kích thủ nhãn ấn pháp. ấn pháp này có công
năng hàng phục các loại thiên ma và ngoại đạo.
Công năng của ấn pháp này rất lớn. Chẳng hạn ấn pháp
này có thể bảo vệ quốc gia chống nạn ngoại xâm. Nếu
quốc gia của quí vị sắp bị xâm lăng, và nếu
quí vị hành trì ấn pháp này thì vô hình
trung, quân giặc bắt buộc phải rút lui.
30. Đà la đà la
Tiếng Phạn
rất khó hiểu. Ngay cả những ai đã học tiếng
Phạn thông thạo rồi cũng khó có thể hiểu được mật
chú và giảng giải rõ ràng được. Tôi chỉ nhờ hiểu một
chút ít thần chú Đại Bi mà thôi.
Đà là đà la
là Tịnh bình thủ nhãn ấn pháp. Trong tịnh
bình này chứa nước cam lồ. Bồ – tát Quán Thế Âm dùng
cành dương liễu rưới nước cam lồ lên khắp chúng sanh
trong sáu đường. Bất luận ai gặp nạn khổ hay bệnh
tật gì, nếu được Bồ – tát Quán Thế Âm rưới
nước cam lồ thì đều giải thoát khỏi tai
nạn ấy.
Đà la đà la.
Hán dịch là “Năng tổng trì ấn”, là tâm
lượng của toàn chúng sinh. Chính là Bồ – tát Quán Thế
Âm dùng Cam lồ thủ nhãn ấn pháp, Tịnh bình thủ nhãn
ấn pháp và Dương chi thủ nhãn ấn pháp – tất cả ba
ấn pháp ấy để rưới nước cam lồ lên toàn
thể chúng sinh, cứu độ chúng sinh ra khỏi
tam đồ lục đạo.
31. Địa lỵ ni
Địa lỵ ni.
Hán dịch rất nhiều nghĩa. Thứ nhất là
“thậm dõng” nghĩa là dũng khí mãnh liệt. Cũng có
nghĩa là “tịnh diệt hoặc khiết tịnh”.
“Thậm dũng” là dạng tướng động.
“Tịnh diệt” là dạng tĩnh.
Còn dịch là “Gia trì và thôi khai”.
- “Gia trì”
có nghĩa là làm cho các ác pháp đều được
chuyển hoá, hướng về phụng hành theo thiện pháp.
- “Thôi khai” là làm cho các nghiệp chướng, tai nạn của chúng sinh đều được tiêu trừ.
Đây là Cu
thi thiết câu thủ nhãn ấn pháp. Gọi tắt là
thiết câu ấn pháp, có công năng làm cho tất cả quỷ
thần, thiên long bát bộ đến hộ trì cho hành giả. Nếu
quí vị công phu hành trì thành tựu thủ nhãn này,
thì có thể bảo thiên long làm mưa và sẽ có
mưa ngay, nếu hành giả cần có gió, họ sẽ
làm ra gió ngay, khi hành giả muốn mưa gió
đừng hoành hành thế gian nữa, mưa gió sẽ
hết ngay.
Quí vị sẽ
nói: “Tôi không tin như vậy”. Đúng vật! Đó
chính là lý do mà tôi muốn nói cho quí vị nghe, tất
cả chỉ là vì quí vị không tin. Không có niềm tin và
không ở trong cảnh giới này thì khó lòng hiểu nổi.
Nếu muốn,
quí vị có thể hỏi những người vừa mới từ
Đài Loan trở về ngày hôm nay về cơn mưa ở Đài Loan.
Khi tôi nói chuyện với Phật tử ở Đài Loan qua điện
thoại, họ cho biết trời đang mưa và rất lạnh. Họ
mong muốn thời tiết được ấm áp và bớt mưa. Tôi
bảo họ hãy yên tâm, chuyện đó sẽ xảy ra.
Họ lại thắc mắc:
- Sư phụ có thể khiến trời hết mưa hay sao?
Tôi chỉ nói vắn tắt:
- Quí Phật tử hãy đợi xem trời có tạnh mưa hay không?
Ngay khi tôi vừa cúp điện thoại, thì trời bắt đầu tạnh ráo. Họ đều cho đó là chuyện lạ kỳ.
(Những ai đã đến Đài Loan năm 1969 để dự
giới đàn, đều có thể chứng kiến chuyện
này. Trời mưa dầm ở Keelong Đài Loan ít
nhất cũng là 48 ngày, nhiều nhất là 53
ngày. Chúng tôi đang ở Đài Loan để thọ giới. Cả tự
viện không còn chất đốt, một khi củi đã bị ướt rồi,
thì không còn cách nào để sưởi cho khô lại được. Tuy
nhiên,vào sáng ngày 18/4 như đã nói ở
trên, đúng ngay lúc chúng tôi vừa chấm dứt
cuộc điện đàm thì mặt trời vừa hiện ra,
bầu trời trở nên sáng trong và khí trời
trở nên ấm áp liền. Chú thích của người dịch từ
Hoa văn sang Anh Ngữ).
Thực ra, đó
chẳng phải là gì khác, chính là năng lực
của thiết câu thủ nhãn ấn pháp. Quí vị chỉ cần kiết
ấn và gọi: “Thiên long, đừng làm mưa nữa!” thì trời
sẽ dứt mưa ngay. Loài rồng sẽ chấp hành theo lệnh
của quí vị và chỉ khi quí vị đã thành tựu
ấn pháp này và đã thông thạo thiết câu thủ
nhãn. Rồng phun mưa sẽ tuân theo ấn pháp
này và đình chỉ việc làm mưa liền.
Quí vị sẽ
nghĩ là tôi nói đùa nhưng đúng là như vậy.
Bây giờ, tôi đang giảng kinh cho quí vị nghe và tôi
đang nói với quí vị bằng chân ngữ. Đây không phải là
chuyện nói đùa.
32. Thất phật ra da
Mỗi khi quí
vị niệm Thất Phật ra da thì toàn pháp giới
này có một luồng chớp sáng phát ta. Cứ mỗi niệm Thất
Phật ra da là có một luồng quang minh phóng ra bao
trùm cả vũ trụ.
Thất Phật ra
da được dịch là “phóng quang”. Còn dịch
là “tự tại”. Phiên âm từ tiếng Phạn “Isara” như
trong chữ “Avalokihesvara”. ở đây có nghĩa là “Quán”,
vì có quán chiếu thâm sâu rồi mới được “tự tại”. Nếu
quí vị không có sức quán chiếu thâm sâu,
thì quí vị sẽ không đạt được năng lực tự
tại.
Quán chiếu
nghĩa là hướng vào bên trong tự tâm mà
công phu chứ không phải hướng ra ngoại cảnh bên
ngoài. Nghĩa là hướng vào bên trong mà quán chiếu
không ngừng. Hãy tự hỏi: “Ta có hiện hữu hay không?”.
Ông chủ có hiện hữu trong chính tự thân quí vị
hay không? Quí vị có làm chủ được mình
hay không? Mặt mũi xưa nay của ông chủ có
hiện hữu hay không? Thường trụ chơn tâm
thể tánh thanh tịnh có hiện hữu hay không?
Nếu những cái đó đều hiện hữu, có nghĩa là
quí vị đạt được tự tại. Còn nếu không hiện hữu, có
nghĩa là quí vị không có được tự tại.
Sự phóng
quang cũng mang ý nghĩa tự tại. Nếu quí vị
đạt được năng lực tự tại, thì quí vị có thể phóng
quang. Nếu chưa có được năng lực tự tại, thì không
thể phóng quang được.
Thất Phật ra
da cũng được dịch là “Hoả diệm quang”,
cũng gọi là Hoả quang. Đó là lửa, nhưng không phải
là lửa phát sinh từ tập khí phiền não, như quí vị
thường nói: “Tôi vừa nổi nóng như lửa”. Đó cũng
không phải là lửa xuất phát từ sự sân hận, phẫn
nộ, căm hờn của quí vị, mà đó chính là lửa
trí tuệ. Đó cũng chính là nước từ trí tuệ
tiết ra để dập tắt lửa vô minh. Trí tuệ
chân chính hiển lộ khi lửa vô minh bị dập
tắt. Đó chính là Hoả Diệm Quang.
Khi quí vị
trì tụng Thất Phật ra da tức là quí vị
đang phóng quang. Nhưng trước tiên quí vị phải có được
năng lực tự tại. Không có năng lực tự tại thì quí vị
không thể nào phóng quang được. Hãy nhớ kỹ điều
này.
Đây là Nhật
Tinh Ma Ni thủ nhãn ấn pháp. ấn pháp này
có công năng chữa trị bệnh mắt mờ không thấy rõ.
Dùng ấn pháp này khiến cho mắt được sáng lại.
33. Giá ra giá ra
Giá ra giá
ra dịch nghĩa là “hành động”. Đó là hành
động như quân đội thi hành một mệnh lệnh hành quân.
Hành quân là một mệnh lệnh nếu quí vị không tuân
hành, có nghĩa là chống lệnh.
Đây là Bảo
đạc thủ nhãn ấn pháp. Khi quí vị rung
chuông, âm thanh vang lên khắp không gian, thông cả
thiên đàng, chấn động cả địa giới. Nếu quí vị cần thực
hiện việc gì, chỉ cần rung chuông lớn, các loài
chư thiên, thiện thần, yêu ma quỷ quái đều
tuân theo mệnh lệnh của quí vị. Chẳng hạn
như khi có động đất, quí vị chỉ cần rung
chuông lên rồi ra mệnh lệnh: “Quả đất
không được rung lên như vậy”, trái đất trở về trạng
thái yên bình ngay.
Bảo đạc thủ nhãn ấn pháp cực kỳ diệu dụng. Nếu quí vị muốn hát với một âm điệu tuyệt vời, thì hãy công phu hành trì ấn pháp này. Khi công phu thành tưu rồi, tiếng hát của quí vị trong suốt như tiếng đại hồng chung vang lên trong không gian.
Bảo đạc thủ nhãn ấn pháp cực kỳ diệu dụng. Nếu quí vị muốn hát với một âm điệu tuyệt vời, thì hãy công phu hành trì ấn pháp này. Khi công phu thành tưu rồi, tiếng hát của quí vị trong suốt như tiếng đại hồng chung vang lên trong không gian.
34. Ma ma phạt ma la
Ma ma. Hán
dịch là “ngã sở thọ trì”. Đó chính là một
loại mệnh lệnh hành động. Có nghĩa là “mọi việc tôi
làm bảo đảm chắc chắn phải được thành tựu”.
Ma ma là
Bạch phất thủ nhãn ấn pháp. ở Trung Hoa,
các đạo sĩ và Tăng sĩ Phật giáo thường sử dụng phất
trần, các vị cao tăng thường cầm phất trần khi đăng
bảo toạ để thuyết pháp.
Bạch phất thủ nhãn ấn pháp có công năng trừ sạch mọi nghiệp chướng của thân, trừ được mọi chướng nạn và bệnh tật. Chỉ cần phất lên thân vài lần là có thể tiêu trừ mọi nghiệp chướng và chữa lành mọ ma chướng sinh ra bệnh tật.
Bạch phất thủ nhãn ấn pháp có công năng trừ sạch mọi nghiệp chướng của thân, trừ được mọi chướng nạn và bệnh tật. Chỉ cần phất lên thân vài lần là có thể tiêu trừ mọi nghiệp chướng và chữa lành mọ ma chướng sinh ra bệnh tật.
Bạch phất
thủ nhãn ấn pháp có rất nhiều công dụng,
nhưng người biết cách dùng ấn pháp này lại rất ít.
Tôi biết hiện nay có rất ít người sử dụng được ấn
pháp này.
Năm người Tây phương đầu tiên vừa đi thọ giới Cụ túc ở Đài Loan đã trở về. Họ đã trở thành những vị Tỷ Khưu, Tỷ Khưu Ni chân chính. Họ vừa về đến phi trường vào lúc 4 giờ 30 chiều nay, chuyến bay 910 của hãng hàng không Trung Hoa. Ngày nay Phật giáo Giảng Đường đã có được nhiều xe hơi nên toàn thể Phật tử hộ pháp trong đạo tràng cũng như toàn thể Phật tử ở San Francisco – Cựu Kim Sơn – Hoa Kỳ - đều có thể ra phi trường để đón mừng các vị tân Tỷ Khưu.
Năm người Tây phương đầu tiên vừa đi thọ giới Cụ túc ở Đài Loan đã trở về. Họ đã trở thành những vị Tỷ Khưu, Tỷ Khưu Ni chân chính. Họ vừa về đến phi trường vào lúc 4 giờ 30 chiều nay, chuyến bay 910 của hãng hàng không Trung Hoa. Ngày nay Phật giáo Giảng Đường đã có được nhiều xe hơi nên toàn thể Phật tử hộ pháp trong đạo tràng cũng như toàn thể Phật tử ở San Francisco – Cựu Kim Sơn – Hoa Kỳ - đều có thể ra phi trường để đón mừng các vị tân Tỷ Khưu.
Bình thường,
tôi chẳng muốn đến phi trường nhưng trong
chuyến bay ấy có chở về vài tượng Phật, nên
tôi ra phi trường để nghênh đón tượng Phật chứ không
phải để đón các đệ tử của tôi. Các đệ tử của tôi
cũng không cần tôi đón, cũng chẳng cần đưa. Khi họ
đi Đài Loan thọ giới, tôi đã nói với họ
rằng:
“Khi mê thì thầy độ
Khi ngộ rồi tự độ”.
Nay họ phải
tự độ chính họ, họ đã ra đi, nay lại trở
về. Chắc chắn họ phải tự tìm ra con đường từ phi trường
về chùa. Họ chẳng cần tôi phải chỉ dẫn: “Quẹo ở đó,
đi theo đường này, đó là đường về chùa”.
Điều buồn cười nhất là khi họ viết thư báo cho tôi biết họ đã bỏ quên một thùng Kinh. Tôi bảo:
“Bỏ quên
kinh chẳng có gì quan trọng. Điều quan trọng
chính là không có ai trong các con bị bỏ quên”. Năm
người đi thọ giới và nay năm người đều đã trở về.
Sao vậy? Vì tôi đã mua bảo hiểm ở chư vị Bồ – tát,
nên để cho bất kỳ ai bị bỏ sót lại là điều
không thể chấp nhận được. Nếu một người
không về, tức là chư vị Bồ – tát không
thực hiện đúng hợp đồng. Thế nên tôi rất
tin tưởng rằng tất cả các giới tử sẽ trở về và dịch
vụ bảo hiểm của chư vị Bồ – tát không cần phải thanh
toán hợp đồng.
Quí vị nên
nhớ một điều. Những người thọ giới Cụ túc
trở về hôm nay là những vị Tổ khai sơn của Phật giáo
Mỹ quốc. Đừng xem việc này đơn giản. Điều này rất
chân thực. Đừng như những kẻ tự cho mình là Phật tử,
chỉ nằm ở nhà mà thích gọi mình là “Tổ tại
gia”. Thực vậy, cách đây vài hôm, có một
vị Tổ sư tự phong đến đây và muốn hát tặng
cho tôi nghe. Tôi giễu cợt ông ta: “Thật
chán khi nghe ông hát”. Ông ta chỉ bật lên:
“ồ!”, một tiếng rồi bỏ đi.
Phạt ma ra
là “Hàng ma kim cang hộ pháp”, tay cầm
bánh xe bằng vàng. Vị hộ pháp này có thể hoá thân lớn
như núi Tu Di.
Phạt ma ra.
Hán dịch là “Tối Thắng Ly Cấu”, có nghĩa
đó là pháp thù thắng nhất, xa lìa tất cả mọi cấu nhiễm
ở thế gian. Còn có nghĩa là “vô tỷ như ý”. Vì không
có gì có thể sánh với pháp này và tuỳ tâm nguyện
của mình mà mọi điều xảy ra như ý muốn.
Đây là Hoá
cung Điện thủ nhãn ấn pháp. Nếu quí vị
hành trì được ấn pháp này thành tựu, thì đời đời quí
vị sẽ được sống cùng một trụ xứ với đức Phật (như
trong một cung điện), không còn phải thọ sinh vào
các loài thai sinh, noãn sinh và thấp sinh
nữa. Công dụng của sự thành tựu ấn pháp
này là đời đời được sống cùng chư Phật.
35. Mục đế lệ
Mục đế lệ là
Dương chi thủ nhãn ấn pháp của đức Phật.
Đó là nhánh cây mà quí vị thường thấy Bồ – tát Quán
Thế Âm cầm ở một tay, còn tay kia Bồ – tát cầm một tịnh
bình. Nhành dương này được Bồ – tát nhúng vào
tịnh bình rồi rưới lên cho tất cả mọi
chúng sinh bị đau khổ. Nước này không như
nước thường. Đó là nước cam lồ. Chúng sinh
nào được nước này tưới nhuận sẽ có nhiều
lợi lạc. Nước cam lồ có thể giúp cho mọi chúng
sinh thoát khỏi khổ luỵ đói khát và bản tâm đạt được
thanh lương.
Mục đế lệ
còn dịch nghĩa là “giải thoát”. Đó là giải
thoát khỏi mọi khổ nạn, bệnh tật và chướng ngại. Nên
Bồ – tát Quán Thế Âm thường dùng Dương chi thủ nhãn
ấn pháp này để giúp giải thoát cho chúng sinh khỏi
mọi bệnh tật, khổ nạn và những điều bất
như ý. Bề ngoài, chú này dường như không
có gì quan trọng lắm, nhưng một khi quí vị
công phu hành trì ấn pháp này thành tựu
rồi, thì không những quí vị có thể giúp giải thoát
cho chúng sinh khỏi bệnh tật và khổ nạn mà còn có thể
hàng phục cả thiên ma ngoại đạo. Khi những thiên ma
ngoại đạo được thấm nhuận nước cành dương
này, họ tự nhiên hồi tâm hướng thiện,
thực hành theo chánh pháp. Do vậy, Dương
chi thủ nhãn có diệu dụng vô cùng vô tận,
không thể nghĩ bàn.
Giọt nước
cam lồ từ bàn tay Bồ – tát Quán Thế Âm
không những chỉ giúp cho quí vị thoát khỏi mọi bệnh
tật, khổ nạn mà còn có một diệu dụng khác, khi một
người sắp chết, nếu có phước duyên, được Bồ – tát
Quán Thế Âm rảy nước lồ thì có thể sống lại.
Tất cả các loài cây cỏ thảo mộc đã khô héo
nếu được nước cam lồ tưới xuống cũng được
hồi sinh. Cây cỏ là loài vô tình, mà khi
được nước cam lồ tưới tẩm còn được nảy
mầm, đơm hoa, kết trái như vậy nên chúng sinh là
loài hữu tình sẽ được lợi lạc biết bao. Đó là diệu dụng
của Dương chi thủ nhãn ấn pháp.
36. Y hê y hê
Y hê y hê là Độc lâu trượng ấn thủ nhãn ấn pháp. Hán dịch là “thuận giáo”.
Nghĩa là một
khi quí vị nhờ ai làm việc gì đó, họ đều
ưng thuận. Khi quí vị dùng chánh pháp để giáo hoá, họ
đều vâng lời. Câu chú này còn dịch là “tâm đáo”.
Nghĩa là trong tâm hành giả ước nguyện điều gì, nhờ
năng lực của chú này đều được thành tựu.
Câu chú này khiến cho Ma – hê – thủ – la
vương, là một Thiên ma ngoại đạo thường
cho rằng mình là vĩ đại nhất, cũng phải
cung kính chắp tay đến nghe lời chỉ giáo khi
nghe có người trị tụng thần chú này, không dám trái
nghịch. Thế nên khi quí vị trì niệm câu Y hê Y hê,
thì Ma – hê – thủ – la vương liền đến, bất kỳ tâm
nguyện của hành giả như thế nào, vị này
liền thi hành ngay, đáp ứng đúng như sở
nguyện của người trì chú.
37. Thất na thất na
Câu chú này
được dịch là “Đại trí tuệ”, cũng dịch là
“Hoằng thệ nguyện”. Đây là Bảo cảnh thủ nhãn ấn pháp.
Bảo cảnh được ví như Đại viên cảnh trí của chư Phật.
Đại trí huệ
là gì? Đó là khi chúng sanh không còn dính
mắc vào vọng tưởng nữa. Có đại trí huệ, thì mỗi
niệm đều là biểu hiện của trí bát nhã, mỗi tâm niệm
đều lưu xuất từ Đại Quang Minh. Nếu quý vị có trí huệ
chân chính thì sẽ có được Quang Minh. Còn
nếu chưa thể nhập trí tuệ tự tánh, thì vẫn
còn trong màn tối tăm của vô minh.
Quang minh
là ánh sáng dương, còn bóng tối vô minh là
âm. Tại sao người ta ngủ tối? Bởi vì lực âm trồi
lên quá mạnh. Do đâu người ta có trí tuệ sáng suốt?
Bởi vì ánh sáng dương lớn mạnh hơn.
Những người
có trí tuệ không có lối suy nghĩ như những
kẻ phàm phu. Họ có khả năng phân biệt rõ ràng chính
tà. Họ không cần phải hỏi người khác, họ biết mọi điều
ngay nơi tự thân của mình. Họ không đi vào con
đường tẻ, họ bước đi vào ngay chính lộ và
hạ thủ công phu. Trong khi hành trì, trước
tiên quý vị phải đạt được trí tuệ. Rồi
quý vị phải biết rõ ràng chính tà để rồi
mới tiến vào con đường chánh lộ và tránh con đường
tà vạy.
Nhưng quý vị
không thể nào biết rõ việc làm nào hư
ngụy nên cứ mãi khăng khăng tạo nghiệp ác. Quý vị
kôhng thể nào biết được rõ ràng thế nào là phạm giới,
nên cứ thế mà làm, ráng hết sức để làm cho được, cứ
muốn nhìn cho được dù thực sự đó là những
thứ chướng ngại. Những hành vi như thế là
sự ngu muội tột cùng, biểu lộ hoàn toàn sự
non yếu trí tuệ.
Ồ! Không –
Quý vị có thể phản đối – Tôi là người có
trí tuệ, tôi chỉ sai lầm trong nhất thời thôi!
Chỉ sai lầm
một lần thôi cũng có nghĩa là vô minh,
không có trí tuệ rồi. Người có đại trí tuệ không hề
có tư tưởng sai lầm. Thế nên Tôn giả A Nan đã phát
nguyện:
Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng
Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân.
Nghĩa là:
“Giúp cho con tiêu trừ vọng tưởng sai lầm trong muôn ức kiếp”.
Khiến con chẳng cần trải qua a tăng kỳ kiếp mà chứng ngộ được pháp thân”.
Tôn giả đã
phát nguyện tiêu trừ vọng tưởng không những
chỉ một, hai, ba, bốn, năm hay một trăm kiếp nhưng
trong vô số kiếp.
Nhưng tại
sao trong tâm ta lại có quá nhiều vọng tưởng
như thế? Khi một vọng tưởng đi qua, vọng tưởng khác
kế tiếp theo, và khi vọng tưởng ấy tiêu mất, vọng tưởng
sau lại sinh khởi tiếp nối. Giống như sóng
trên mặt biển. Quý vị cứ nghĩ rằng đại
dương là vật vô tình, nhưng thực sự nó
chẳng phải là thứ ở ngoài tâm quý vị mà
có. Biển cả cũng được lưu xuất từ trong tâm niệm
của chúng sanh. Sóng biển không ngừng nổi lên rồi
chìm xuống, cũng hoàn toàn giống như vọng tưởng của
chúng sanh chẳng bao giờ ngừng. Nó liên tục
mãi. Vọng tưởng trước vừa biến mất, vọng
tưởng sau liền tiếp nối, vọng tưởng này
tiếp nối vọng tưởng kia, xoay vần tương
tục, nối theo nhau không dứt, như dòng thác
không bao giờ ngừng. Không có vọng tưởng nào muốn
rơi lại đằng sau cả, chúng đều hoàn toàn muốn phóng
vọt lên phía trước. Vì sao mà quý vị lại mắc phải
quá nhiều vọng tưởng như vậy? Chỉ vì không
có trí tuệ. Nếu quý vị có trí tuệ, thì
chẳng còn mảy may vọng tưởng và sóng cũng
không còn xao động nữa. Như trong câu thơ:
Thanh phong đồ lai
Thủy ba bất hưng
Nghĩa là:
“Gió trong lành thổi đến,
Biển không còn sóng xao”.
Khi trong
công phu mà quý vị đạt được định lực, cũng
như sóng biển đã lặng yên. Khi có được định lực thì
nước trí tuệ hiển hiện, không còn một gợn sóng, chẳng
còn một niệm vọng tưởng nào nữa. Lúc đó là thanh
tịnh chân thực. Đó là lúc:
“Nhất trần bất nhiễm
Vạn lự giai không”
Thực vậy,
khi một người không còn bị vướng dù chỉ một
hạt bụi vô minh thì chẳng còn phải lo nghĩ một điều
gì nữa cả, mọi thứ trên đời này đều là không. Đó
chính là biểu hiện của đại trí tuệ.
Người có trí
tuệ thường thành công trong bất kỳ mọi
việc, còn người thiếu trí tuệu thường bị thất bại
trong bất kỳ việc gì mà họ nhúng tay vào. Do vậy nên
trí tuệ là vô cùng quan trọng.
Ngu muội là
gì? Vô minh chính là ngu muội. Ngu muội
cũng chỉ là từ vô minh mà ra. Khi vô minh sinh khởi,
con người hoàn toàn bị mất sáng suốt. Quý vị hãy hỏi
một người vừa mới làm một việc sai lầm xong thì
rõ:
- Tại sao anh lại làm việc đó?
Họ sẽ trả lời:
- Tôi không rõ nữa …
Đó chính là do ngu muội, do sự thiếu sáng
suốt, thiếu trí tuệ. Nhưng dù họ hành động
mê lầm do vô minh, nhưng họ lại không
chịu từ bỏ vô minh. Họ lại khăng khăng:
-
Tôi biết chứ.
Tôi biết nó sai mà! Thật là quái lạ. Con
người mê muội chỉ do vì không có trí tuệ, không
đạt được Đại viên cảnh trí, vì họ không chịu công phu hành trì Bảo cảnh thủ nhãn ấn pháp. Nếu họ tu tập ấn pháp này, thì sẽ không còn ngu muội nữa; bất luận chuyện gì xảy ra. Đó là khi:
Phùng quỷ sát quỷ
Phùng Phật sát Phật
Đây cũng như việc cầm một cây dao thật bén,
chặt ngay mọi vọng tưởng vừa lóe lên. Đại
trí tuệ cũng như một con dao bén hay còn
được ví như thanh gươm.
Quý vị có thể nói: “Gươm trí tuệ rất nặng, không, không dễ gì cầm kiếm ấy được”!
Đó là vì quý vị chưa từng cầm nó. Thực
ra, sử dụng kiếm này chẳng cần sử dụng
chút sức lực nào cả. Nếu quý vị chưa từng
cầm nó lên thì thấy nó quá nặng. Nếu quý vị đã
cầm lên rồi, thì thấy nó nhẹ. Nếu quý vị không chịu
cầm lên, thì nhẹ biến thành nặng. Nếu quý vị chịu
cầm lên, thì nặng biến thành nhẹ. Sao vậy? Vì quý
vị đã cầm lên rồi!
Nếu quý vị nói: “Tôi biết rằng gươm trí tuệ
rất quan trọng, nhưng quá nặng. Tôi không
thể nhấc lên nổi”. Và quý vị không sờ tới
gươm. Thế nên gươm trí tuệ càng nặng
thật. Nhưng một khi quý vị đã sờ vào kiếm,
đã vung gươm lên rồi thì mọi sự hiểu biết đều bén
nhọn như lưỡi gươm, chẳng còn một chút rắc rối nào
nữa cả. Thế nên tôi thường nói với quý vị rằng:
“Mọi việc đều tốt đẹp cả”. Chính
là phát xuất từ đạo lý này. Nếu quý vị gặp
nhiều việc rắc rối, là vì quý vị không có thanh gươm
trí tuệ. Nếu quý vị có được thanh kiếm trí tuệ ấy,
thì sẽ chẳng còn chuyện gì rắc rối nữa cả. Màu
nhiệm là ở điểm này.
Núi sông đất liền, lâu đài nhà cửa, thế
giới y báo cũng như chánh báo đều không
vượt ra ngoài tâm niệm hiện tiền của chúng
ta.
Cái gì là thế giới ý báo? Núi sông, đất
liền, lâu đài nhà cửa gọi là thế giới y
báo. Thế giới chánh báo là thân tâm của
chúng ta, chính là nơi mà con người chúng
ta thọ nhận sự báo ứng. Nếu quý vị đã hiểu
được sự báo ứng khi chính mình thọ nhận, nghĩa
là quý vị không còn vô minh nữa. Không còn vô minh
nghĩa là có trí tuệ. Điều này được ví như tấm gương:
Vật lai tắc ánh
Vật khứ tắc không.
Nghĩa là:
“Vật đến liền chiếu. Vật biến hoàn không”.
Tấm gương chẳng lưu giữ dấu vết gì cả. Kẻ trí thường
thản nhiên với mọi chuyện và cứ để nó trôi qua mà
lòng chẳng còn vướng bận điều gì.
Mặc dù kẻ
trí chẳng lưu giữ điều gì lại trong lòng,
nhưng mọi vật thường tự hiển bày. Và mặc dù nó thường
tự hiển bày nhưng chẳng hề bị vướng mắc.
Chúng ta là
hàng phàm phu, chưa có được đại trí tuệ,
phải nỗ lực vượt bậc để thường nhớ trì tụng chú Đại
Bi, hoặc thường niệm câu: “Y hê, y hê, thất na, thất na”.
Khi đã tụng
một lần rồi là không còn quên nữa, đã tụng
được hai, ba lần, vài trăm lần rồi thì chẳng thể nào
quên được nữa. Đó là phải cố gắng để ghi nhớ. Còn
khi quý vị chỉ cần nhìn hoặc nghe lướt qua một lần
rồi nhớ mãi không quên, chẳng cần phải
dụng công ghi nhớ nữa, đó là khi trí tuệ
của quý vị chiếu sáng như một đài gương
trong.
Người có trí
tuệ đều biết rằng mọi hiện tượng đều lưu
xuất từ tự tâm của mình. Nếu quý vị hiểu được điều
này thì mình sẽ không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa.
Sao vậy? Vì mọi sự việc đều lưu xuất từ tâm mình,
nên những thứ vui buồn giận ghét đều là
sở hữu của chính mình. Dù nó tốt hay xấu,
cũng chẳng có vấn đề gì cả.
Mặc dù nói
về cảnh giới ấy thì rất dễ, nhưng tiếp xúc
với cảnh giới ấy không phải dễ dàng gì, cần phải
có công phu mới tiếp xúc được với cảnh giới ấy. Những
người không có công phu sẽ nói:
“Đối với tôi, chẳng có vấn đề gì rắc rối cả”.
Bên ngoài
thì như thế, nhưng vấn đề rắc rối đang
phát sinh và chống đối với nhau ở bên trong. Những
người có trí tuệ chân chính thì rất hiếm.
Quý vị cũng
nên phân biệt rõ trí tuệ thế gian và trí
tuệ xuất thến gian. Trí tuệ thế gian còn gọi là Thế trí biện thông,
là có thể nhào nặn ngay ra một đạo lý khi
nào cần đến. Nơi nào không có đạo lý, họ
có thể tạo dựng ra, khiến mọi người nghe rất hợp lý.
Những kẻ mê muội nghe họ nói liền nghĩ rằng:
“Ồ! Họ đề cập đến những đạo lý rất đúng”.
Thực ra, nếu quý vị có được trí tuệ chân chính, quý
vị sẽ không bị đắm chìm trong mớ lý luận ngu muội của
họ. Người ta thường nói: “Trong dương có âm”.
Cũng vậy,
trong trí tuệ cũng có sự ngu muội – sự ngu
muội một cách trí tuệ. Mặt khác, trong âm có dương.
Bên trong sự ngu muội ẩn chứa một trí tuệ. Chẳng hạn
như quý vị có thể thấy một người chẳng nói năng gì
cả, dường như là kẻ quê mùa dốt nát,
nhưng anh ta làm những việc chân chính.
Anh ta có thể hiện thân một kẻ hồ đồ mê
muội, nhưng luôn luôn ứng xử khế hợp với đạo lý.
Có rất nhiều người như vậy.
Khi quan sát
người khác, quý vị sẽ tự chiêm nghiệm ra
chính tự thân mình có được trí tuệ sáng suốt hay
không. Nếu quý vị có trí tuệ chân chính, thì quý vị
không bị người klhác sai sử, dẫn dắt đến chỗ sai lầm.
Còn nếu quý vị không có trí tuệ, quý vị sẽ
bị người khác xui khiến làm điều xằng bậy.
Trí tuệ và
ngu muội có một mối quan hệ trực tiếp. Đó
là hai mặt của một chỉnh thể. Vắng bóng vô minh thì
trí tuệ hiển bày. Và vô minh sinh khởi khi thiếu vắng
trí tuệ. Trong vô minh có trí tuệ và chính trong
trí tuệ có bóng dáng của vô minh. Sao lại
như thế? Vì trí tuệ và vô minh là một. Nếu
quý vị biết vận dụng, thì đó là trí tuệ.
Còn nếu không biết vận dụng thì đó là vô
minh. Chẳng hạn như khi quý vị nâng thanh
gươm trí tuệ lên thì đó chính là trí tuệ; còn khi
quý vị buông thanh gươm ấy xuống thì đó là vô minh.
Đó không phải là hai mà chỉ là một. Thế nên quý vị
đừng bao giờ nói rằng mình đang đi tìm
kiếm trí tuệ và đang xua đuổi vô minh.
Không ai làm được việc ấy bao giờ. Chủ yếu
chỉ là sự “hồi đầu”.
Có thể lấy
ví dụ của bàn tay để biểu tượng cho trí
tuệ và mặt kia là biểu hiện cho vô minh. Nếu quý vị
muốn cầm nắm một đồ vật bằng mặt kia của bàn tay thì
không thể nào làm được cả, nhưng nếu quý vị dùng
chính bàn tay của mình thì mới lấy được đồ
vật. Việc không lấy được đồ vật là biểu
tượng cho vô minh và việc sử dụng bàn tay
để lấy được vật là biểu tượng cho trí tuệ.
Đó là hai khía cạnh của chỉ một ý nghĩa
chung nhất, tùy thuộc vào sự vận hành của quý vị.
Có người lại nói: “Nay tôi đã hiểu rồi. Vô minh và trí tuệ chính là bàn tay của tôi”.
Lại sai lầm nữa! Bàn tay chỉ là ví dụ.
Đừng nên cho rằng trí tuệ và vô minh chính
là bàn tay. Cũng giống như ví dụ ngón tay
và mặt trăng (trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm).
Đức Phật lấy ví dụ dùng ngón tay để chỉ cho người
thấy mặt trăng. Đừng nhầm lẫn ngón tay chính là mặt
trăng.
Thất na thất na
là “đại trí tuệ” và còn có nghĩa là “hoằng thệ nguyện”
– là phát nguyện rộng lớn. Khi muốn hoàn thành một
việc gì, phải phát thệ nguyện làm cho đến cùng.
Như đức Phật A Di Đà trước khi thành chánh
giác, khi đang tu tập nhân địa với hình
tướng của một Tỳ kheo, Ngài đã phát 48 lời
nguyện rộng lớn. Bồ tát Phổ Hiền cũng đã
phát 10 Đại nguyện Vương. Bồ tát Quán Thế Âm
cũng phát vô số lời nguyện cũng như các vị Tổ sư đã
từng phát nguyện. Tôi đang giảng cho quý vị nghe về
việc phát đại nguyện. Còn có lập nguyện được hay
không là do ở quý vị. Tôi đưa đề tài này
ra giảng vì tôi đoán chắc là quý vị chưa
được thông hiểu. Nhưng không phải là tôi
bắt buộc quý vị phải phát nguyện. Nay quý
vị đang tu học Phật pháp, mỗi người nên tự
mình lập hạnh nguyện, càng lớn càng tốt. Lập nguyện
càng lớn thì sự thành tựu càng cao. Hiện nay chúng
ta đều đang tu nhân và chưa ai thành Phật cả, chúng
ta nên phát lời nguyện ở nơi nhân địa mà
tu hành. Mỗi người nên viết rà lời nguyện
của mình thật chi tiết. Đừng phát nguyện
một cách hời hợt, qua loa, cho có nguyện
mà phải thiết thực như: “Con nguyện cứu độ tất cả mọi loài chúng sanh”.
Thật chứ?
Làm sao quý vị có thể độ chúng sanh được.
Khi suốt ngày quý vị cứ tìm mọi cách để được ăn ngon,
mặc đẹp, ở nơi xa hoa tráng lệ. Việc cứu độ chúng
sanh trước hết là độ chúng sanh nơi cái miệng chuyên
nói lời vọng ngôn của quý vị, độ cái bụng
ham ăn, độ cái thân ham thích sung sướng
của chính mình trước đã. Cho nên quý vị
phải thẳng thắn và minh bạch trong khi
phát nguyện. Hiện tại mình phát nguyện gì?
Tương lai sẽ ra sao? Như ở trong quá khứ, chúng ta
có thể quên lãng những gì đã từng ứng dụng tu hành.
Nhưng trong tương lai chúng ta sẽ thực hành điều gì?
Mỗi người Phật tử đều phải nên có lời
phát nguyện. Nay ở trong nhân địa, lời
phát nguyện càng lớn thì trong tương lai,
kết quả sẽ càng cao. Nếu quý vị đặt tất cả
nguyện lực của mình vào một lỗ chân lông, thì
quý vị có thể phát một thệ nguyện lớn ngay từ trong
lỗ chân lông.
Phát nguyện
là một lời hứa thiêng liêng mà mọi người
Phật tử đều nên thực hiện. Phát nguyện rất quan trọng,
vì không có nó cũng như không có người hướng dẫn. Giống
như đi đường mà không biết mình sẽ đi hướng
nào, chẳng biết nên rẽ phải hay nên quẹo
trái để đến đích. Nếu quý vị phát nguyện,
cũng như khi du lịch có người hướng dẫn
đường đi và nơi đến.
Tại sao chư
Phật và chư Bồ tát đều phát nguyện khi tu
đạo? Vì khi đã phát nguyện rồi, mình mới tự mình
hành động tương ứng với nguyện đã lập. Ví dụ như Bồ
tát Địa Tạng khi tu hành ở nhân địa, Ngài đã phát lời
nguyện vĩ đại:
…“Địa ngục vị không
Thệ bất thành Phật
Chúng sanh độ tận
Phương chứng Bồ đề”.
Nghĩa là:
“Chúng sanh độ hết
Mới chứng Bồ đề
Địa ngục nếu còn
Con chưa thành Phật”.
Nguyện lực
này cực kỳ vĩ đại. Chúng ta cũng nên phát
nguyện. Mỗi quý vị nên phát một hạnh nguyện phù hợp
với những việc hằng ngày quý vị thích làm.
38. A ra sam Phật ra xá lợi
A ra sam
dịch là “Chuyển luân pháp vương”, tức là vị Đại Pháp
Vương thường chuyển cỗ xe đại pháp, thường tuyên
thuyết diệu nghĩa Đại thừa. Giáo nghĩa này thậm thâm
vi diệu, không ai có thể diễn nói tường
tận được, nhưng hiện nay quý vị đang được
nghe giảng từng chi tiết rõ ràng.
Đó là ý nghĩa của câu chú này. Đây là “Chưởng thượng hóa Phật ấn thủ nhãn ấn pháp”. Quý
vị nên hành trì ấn pháp này. Khi thành
tựu rồi, đời đời khi được sinh ra liền
thân cận bên Phật để học hỏi giáo pháp.
Có rất nhiều
cách để giảng giải chú Đại Bi. Chẳng hạn
có một vị pháp sư khác giảng mỗi thủ nhãn này là
danh hiệu của một vị Bồ tát. Chẳng hạn vị ấy cho rằng:
Chưởng thượng hóa Phật thủ nhãn này là Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát.
Đây chính là trường hợp sai một ly đi một
dặm. Sao vậy? ở đây hoàn toàn chẳng có một
vị Bồ tát nào cả. Quý vị có thể đọc hết cả Tam tạng
kinh điển nếu quý vị muốn nhưng sẽ chẳng thấy vị Bồ
tát nào có danh hiệu là Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát cả.
Có thể nói như thế này: Chưởng thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp là
pháp tu của chư vị Bồ tát, chứ không thể
gọi đó là Chưởng thượng hóa Phật Bồ tát. Nếu
gọi như thế là một sai lầm.
Nên khi nói Bảo bát thủ nhãn ấn pháp quý vị có thể hiểu rằng: Bảo Bát ấn pháp là
pháp tu của chư vị Bồ tát. Còn Bảo Bát
không phải là danh hiệu của một vị Bồ tát.
Mới đây tôi được xem qua bộ “Đại Bi Kinh
giảng nghĩa” ở Hồng Kông gửi sang, trong
kinh này họ đã giảng bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp
là danh hiệu của bốn mươi hai vị Bồ tát. Đó hoàn
toàn sai lầm. Bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp trong
kinh là các pháp tu của hàng Bồ tát. Người học
Phật pháp nên ghi nhớ kỹ điểm này, không
nên xác tín mà không căn cứ trên sự thực
hiển nhiên. Trong khi giải thích Phật pháp
cho người nghe, quý vị phải có một lập
trường vững chãi, chính xác về những gì mình đưa ra,
còn không quý vị sẽ phạm sai lầm.
A ra sam là Chưởng thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp mà các vị Bồ tát đều phải tu hành.
Quý vị lại hỏi: “Bồ tát nào?”
Đây chẳng
phải là một vị Bồ tát nào riêng biệt cả. Bất
kỳ người nào hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp
thì người ấy chính là Bồ tát. Bất luận người nào
không tu tập bốn mươi hai ấn pháp thì người ấy không
phải là Bồ tát. Nếu quý vị tu tập bốn
mươi hai thủ nhãn ấn pháp được thành tựu
thì có thể minh chứng rõ ràng quý vị đã dự
vào hàng Bồ tát rồi.
Phật ra xá lợi dịch là “giác thân tử”. Đây là Sở châu thủ nhãn ấn pháp hoặc là Niệm châu ấn pháp,
là pháp môn của chư vị Bồ tát tu tập. Khi
Bồ tát tu tập thủ nhãn này thành tựu, thì
chư Phật trong mười phương nhiếp thọ và
tiếp dẫn hành giả đến các thế giới Phật
khắp trong mười phương.
39. Phạt sa phạt sâm
Phạt sa, phạt sâm
dịch là “Hoan ngữ hoan tiếu”. Có nghĩa là rất hoan hỷ
khi giảng nói. Còn dịch nghĩa là “Đại trượng phu” và
“Vô thượng sĩ”.
Đây là Bảo cung thủ nhãn ấn pháp.
Khi hành trì thành tựu ấn pháp này, nếu
là người tại gia thì có thể được làm quan
cận thần, người xuất gia có thể chứng được
quả vị A la hán.
No comments:
Post a Comment