Chú Đại Bi Giảng Giải(2)
Từng câu của Hòa Thượng Tuyên Hóa
40. Phật ra xá da
Ở câu trên, Phật ra xá lợi. “Xá lợi”dịch nghĩa là “Giác thân tử”. Còn trong câu Phật ra xá da,
“xá da” dịch là “Tượng”: con voi. Nghĩa
là khi quý vị đã giác ngộ rồi, thì tâm thể quý
vị được ví như một con voi chúa, còn được gọi là
Pháp vương tử. Quý vị có thể là Pháp vương tối cao
trong tất cả các pháp môn. Nói chung, ý nghĩa của
câu chú này là: Tâm giác ngộ như một tượng
vương cao quý.
Phật ra xá da
là nói về bổn thể của đức Phật A Di Đà. Đức Phật A
Di Đà là bổn sư của Bồ tát Quán Thế Âm. Vì Bồ tát
Quán Thế Âm tỏ lòng tôn kính đức bổn sư của mình nên
Bồ tát đã đảnh lễ đức Phật A Di Đà trong
khi tuyên thuyết chú Đại Bi. Nên đức Phật A
Di Đà phóng hào quang để tiếp độ cho
người trì chú này.
Phật ra xá da là Tử liên hoa thủ nhãn ấn pháp.
Trong bốn mươi hai thủ nhãn, có Bạch liên
hoa thủ nhãn, Thanh liên hoa thủ nhãn,
Hồng liên hoa thủ nhãn ấn pháp. Khi hành
trì thành tựu các ấn pháp này, hành giả sẽ
được diện kiến mười phương chư Phật. Vì vậy Tử liên hoa thủ nhãn ấn pháp rất trọng yếu.
41. Hô lô hô lô ma ra
Hô lô hô lô ma ra. Hán dịch là “Tác pháp như ý”. Cũng dịch là “Tác pháp mạc ly ngã”.
Đây là Kim trọc ngọc hoàn thủ nhãn ấn pháp.
Trong bốn mươi hai ấn pháp, khi hành giả
hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp này
được gọi là “tác pháp”. “Như ý” nghĩa là
tùy theo tâm nguyện đều được như ý. Khi
hành giả tu tập thành tựu ấn pháp này rồi, thì mọi
việc đều được như tâm nguyện nên gọi là “Như ý”.
Còn “Tác
pháp mạc ly ngã” có nghĩa chính hành giả là
người tu tập, không phải người nào khác. Nên khi
hành giả tác pháp này, thì ấn pháp không rời khỏi
hành giả và hành giả không rời khỏi ấn pháp. Pháp và
ngã là một. Thế nên chẳng có pháp và cũng
chẳng có ngã, pháp chấp và ngã chấp đều
không. Đó là ý nghĩa của “Tác pháp mạc ly
ngã”.
Hành trì “Kim trọc ngọc hoàn ấn pháp”.
Có thể khiến tất cả chúng sanh đều vâng
theo sự giáo hóa của hành giả. Dạy họ tu
pháp gì, họ đều tu theo pháp môn ấy không
sai lệch.
42. Hô lô hô lô hê rị
Hô lô hô lô. Hán dịch là “tác pháp vô niệm” cũng dịch là “tác pháp tự tại”. Trong câu chú Hô lô hô lô ma ra
đã giảng ở trước có nghĩa là “tác pháp như ý”, khi
tác pháp vẫn còn khởi lên ý niệm. Còn trong câu chú Hô lô hô lô hê rị
thì vắng bặt sự khởi niệm khi tác pháp.
Nếu khi hành trì ấn pháp này, mà còn khởi
niệm tức là còn vọng tưởng. Nếu hành giả
không khởi niệm, tức là không còn vọng tưởng nên đạt
được khả năng “tác pháp tự tại” và trở thành người
có năng lực Quán Tự Tại. Đó chính là vị Bồ tát
thường quán sát âm thanh ở thế gian để cứu
độ một cách tự tại, Bồ tát Quán Thế Âm.
Câu chú này là Bảo bát thủ nhãn ấn pháp,
là ấn pháp thứ ba trong số bốn mươi hai
thủ nhãn ấn pháp. Ấn pháp này có công năng
giải thoát cho chúng sanh khỏi những tai
ương bệnh hoạn.
Các vị xuất
gia khi gặp người bệnh, trì chú này vào
trong ly nước, cho người bệnh uống thì có thể được
khỏi bệnh. Nếu bệnh không lành, thì phải quán sát lại
toàn bộ nhân duyên. Nếu gặp duyên lành, khi quý vị
uống nước có trì chú Đại Bi thì liền được
lành bệnh, là do đã đặt hết niềm tin vào
Bồ tát Quá Thế Âm. Nếu không được lành
bệnh, có thể là do quý vị thiếu lòng tin
nơi Bồ tát.
Sự thực là
như vậy, nay tôi sẽ truyền pháp này cho
quý vị luôn. Để cho ly nước có trì chú Đại Bi, có được
năng lực như vậy, quý vị không cần phải trì tụng
toàn văn bài chú này, mà chỉ cần trì tụng câu Hô lô hô lô hê rị
năm lần rồi dùng tay kiết ấn ba lần búng
vào phía trên ly nước. Rồi trao cho người
bệnh uống sẽ được khỏi hẳn. Có khi bệnh không
lành, có khi bệnh lành hẳn. Tất cả đều tùy thuộc vào
nhân duyên giữa hành giả và người bệnh. Nếu quý vị
có nhân duyên sâu dày với người bệnh, thì khi họ
uống xong nước có trì chú Đại Bi liền
được khỏi bệnh. Còn nếu người bệnh không
có duyên với hành giả, thì dù họ có uống
nước đã trì chú, nhưng vì họ không có niềm
tin ở Bồ tát Quán Thế Âm, thì bệnh họ không được
lành hẳn.
Nói chung có
vô lượng nhân duyên để tạo thành pháp
duyên cơ bản này. Nếu người bệnh đã có công phu hành
trì và phát tâm chí thành, khi uống nước có trì chú
vào là liền khỏi bệnh. Còn nếu quý vị có tu tập
nhưng thiếu lòng chí thành, thiếu sự tin
tưởng vào chú Đại Bi thì dù uống nước đã
trì chú cũng chẳng ích lợi gì. Còn nếu quý
vị có tâm chí thành và dù không tu tập đi
nữa, thì khi uống nước đã trì chú cũng có
được sự lợi ích. Những người vốn đã tạo nghiệp
chướng sâu dày, nếu được uống nước đã trì chú vào
thì không đủ tạo nên nặng lực để chuyển hóa bệnh của
họ. Còn nếu người có nghiệp nhẹ khi uống nước
đã trì chú vào thì có thể phát sinh năng
lực to lớn. Đó là năng lực do thường xuyên
trì niệm chú Đại Bi, đã tạo ra một năng
lực cảm ứng đạo giao. Chính năng lực này
đã chữa lành bệnh.
Thế nên bất
luận trường hợp nào, có trùng trùng duyên
khởi quyết định sự thành công. Đừng nghĩ rằng:
“Tôi đã hành trì Bảo bát thủ nhãn ấn pháp,
tôi đã trì chú Đại Bi vào trong nước, tại sao chẳng
có chút nào hiệu nghiệm?”
Đó chẳng
phải là nước trì chú Đại Bi không có hiệu
nghiệm. Chỉ vì công phu của quý vị chưa được đắc lực,
nên hiệu quả không được bao nhiêu.
Có một số
phái ngoại đạo cũng dùng pháp trì chú Đại
Bi vào nước để chữa bệnh và đạt được công hiệu linh
ứng. Đó là vì họ có sự trợ giúp của loài thiên ma
khiến cho người được lành bệnh tin vào họ, rồi dẫn dắt
vào hàng quyến thuộc của thiên ma ngoại
đạo. Vì thế, tuy cũng hành trì một pháp
môn mà có thiên sai vạn biệt kết quả.
Dùng nước
Đại Bi để chữa bệnh cho người là một pháp
môn thực hành Bồ tát đạo. Nhưng quý vị muốn tu pháp
này trước hết phải thực hành mọi hạnh nguyện của
hàng Bồ tát. Phải luôn luôn giữ tâm niệm “vô ngã”,
“vô nhân”. Nghĩa là trong tâm không còn bốn
tướng: ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả nữa.
Quý vị đừng nghĩ rằng: “Tôi chữa lành
bệnh của chúng sanh được, khi tôi trì chú
Đại Bi, tôi tạo ra được sự cảm ứng vô
cùng lớn lao”.
Nếu quý vị
khởi niệm như thế, nghĩa là quý vị đã khởi
dậy ngã chấp. Với ngã chấp ấy, liền bị rơi vào ma
chướng, dù quý vị không có tâm niệm ngã chấp nhưng rất
dễ bị gặp ma chướng khi tu tập pháp môn này. Bệnh
nào cũng do nghiệp chướng hoặc ma chướng.
Nếu bệnh vì nghiệp, thì chẳng có vấn đề gì
khi quý vị chữa trị cho họ. Còn nếu bệnh
do ma chướng, khi quý vị chữa trị cho họ
có nghĩa là quý vị tuyên chiến với ma
vương, nó có thể hãm hại quý vị. Nếu đạo lực của quý
vị chưa đầy đủ, quý vị có thể bị thu phục vào cảnh
giới của ma. Còn nếu quý vị có được đạo lực và tạo
được đôi chút ảnh hưởng với chúng, thì
chúng sẽ liên tục tìm mọi cách để đánh bại
quý vị.
Tôi vốn
thích chữa bệnh cho mọi người nên khi có ai
bị bệnh, tôi tìm mọi cách để chữa cho họ. Nhưng sau
đó, tôi phải đối đầu với ma chướng rất trầm trọng. Ở
Mãn Châu, có một loài thủy quái muốn dìm chết
tôi, nhưng nó thất bại. Tuy vậy, có 50 –
60 người bị chết và hơn 800 căn nhà bị
thủy quái này phá hủy. Sau đó, trên đường
đi từ Thiên Tân đến Thượng Hải, loài thủy
quái đó lại tìm cách lật thuyền của tôi, chỉ chút
xíu nữa là tôi biến thành thức ăn của cá. Từ đó mỗi
khi đi hoằng hóa đây đó, tôi thường ít khi chữa bệnh.
Thế nên chữa
bệnh là cách tốt nhất để kết duyên, nhưng
đó cũng rất dễ kết oán với quyến thuộc nhà ma.
Nó có điểm tốt và cũng có điểm không hay. Nếu quý vị
làm việc đó mà tâm niệm không vướng mắc vào bốn tướng:
ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả thì quý vị
có thể xoay chuyển mọi tình huống. Còn nếu
quý vị không tự chuyển hóa mọi tâm niệm
của chính mình khỏi bốn tướng trên thì rất
dễ rơi vào ma chướng. Cho nên, kết duyên
với chúng sanh qua việc chữa bệnh cho họ là một
vấn đề đòi hỏi năng lực tu tập rất cao.
43. Ta ra ta ra
Quý vị nghe âm vang của câu chú này rất hùng, phải không? Ta ra Ta ra dịch
là “Kiên cố lực”, là thần lực rất mạnh
mẽ, không một thứ gì có thể lay chuyển
được.
Kiên cố lực này có thể phá hủy và hàng phục tất cả các loài thiên ma ngoại đạo.
Đây là Kim cang xử thủ nhãn ấn pháp. Công năng của ấn pháp này là hàng phục tất cả các loại ma oán.
44. Tất lỵ tất lỵ
Tất lỵ Tất lỵ có ba nghĩa: Thứ nhất là “dõng mãnh” như
trong chiến trận, người dõng mãnh là luôn
luôn chiến thắng, không hề bị đánh bại.
Nghĩa thứ hai là “thù thắng” nghĩa là vượt lên trên tất cả sự hoàn hảo, không bao giờ bị thất bại. Thứ ba nghĩa là “cát tường”.
Vì khi hành giả có được sự dõng mãnh mới
có được sự thắng vượt mọi chướng ngại, mới
có được sự cát tường.
Tôi thường
nói với các đệ tử của tôi rằng khi làm bất
kỳ việc gì, dù ở cương vị nào cũng phải phát tâm
dõng mãnh, thắng vượt chứ không bao giờ được thoái
thất. Nếu ai lui sụt, đừng trở về gặp mặt tôi nữa.
Những người yếu đuối, bại hoại thì có ích gì?
Họ chẳng khác gì một thứ mà người Quảng
Đông thường gọi là “thủy bì” là túi da
đựng nước mềm nhũn. Còn ở Đông Bắc thì gọi
là “thảo bao”, là cái túi rơm để đựng hạt giống
mềm yếu và vô dụng. Nên hãy nhớ điều này: bất kỳ ai
muốn phát nguyện trở thành đệ tử của tôi là phải
luôn luôn vượt thắng mọi điều, phải có tâm kiên
cố như chùy Kim Cang vậy. Còn như “thủy
bì” và “thảo bao” thì không thể nào theo
nổi.
Tất lỵ tất lỵ là Hợp chưởng thủ nhãn ấn pháp.
Có thể khiến cho tất cả long xà, hổ lang,
sư tử, nhân cùng phi nhân ph1t tâm kính
ngưỡng. Tuy nhiên, hành giả phải thực sự
có tâm dõng mãnh, vượt thắng và tâm bất thối
chuyển. Công năng của ấn pháp này không phải là ở chỗ
ngôn thuyết mà phải bằng nỗ lực hành trì.
45. Tô rô tô rô
Tô rô tô rô. Hán dịch là “cam lồ thủy”. Đây cũng chính là Cam lồ thủ nhãn ấn pháp. Trước
đây tôi đã giảng về diệu dụng của nước
cam lồ rồi. Có thể giúp cho các loài quỷ
đói được no đủ và mọi tâm nguyện đều được
như ý, làm tiêu tan mọi sự đói khát, thọ nhận được
nhiều điều tốt lành khác nữa.
Nước cam lồ
này còn gọi là “Bất tử dược”. Nếu có người
sắp chết uống nước cam lồ này thì sẽ được sống lại.
Nhưng không dễ gì gặp được nước cam lồ này nếu không
có duyên lành.
46. Bồ đề dạ - Bồ đề dạ
Bồ đề dạ.
Hán dịch là “Giác đạo”. Muốn thành tựu
giác đạo thì trước hết, quý vị phải có
được giác tâm. Nếu không có giác tâm, thì
không thể nào tu tập để thành tựu đạo giác
ngộ. Hành giả trước hết phải có tâm liễu ngộ
chân thực rồi mới có thể tu tập đến chỗ thành tựu đạo
nghiệp được. Hai câu chú này gọi là Bất thối kim luân thủ nhãn ấn pháp. Đó chính là tâm bồ đề kiên cố không bao giờ thoái chuyển.
Từ nay cho
đến khi thành tựu quả vị Phật, quý vị phải
phát tâm dõng mãnh ngày càng tinh tất hơn. Đừng nên
dừng lại hoặc lui sụt. Chẳng hạn như khi quý vị nghe
giảng kinh, hãy khởi tâm niệm rất khó có dịp được
nghe giảng kinh Phật. Rất hiếm khi được
gặp pháp hội. Mặc dù chuyện này xem có vẻ
bình thường, nhưng nếu quý vị lắng lòng
suy gẫm kỹ sẽ thấy giá trị vô cùng. Thử
xem có nơi đâu trên thế giới này có được một
pháp hội tinh tấn như thế này, ngày nào cũng đến đây
để nghe giảng kinh? Còn có nơi đâu khác trên thế giới
mà pháp âm tuôn trào như thác, như sông mãi
không ngừng như ở đây?
Nên khi đã
có duyên ngặp gỡ được pháp hội, quý vị phải
thu xếp công việc, dù có bận rộn bao nhiêu, bất luận
pháp sư giảng đề tài gì, người nào giảng cũng phải đến
nghe. Đừng có phân biệt giữa pháp sư giảng hay
và người giảng kém, rồi chỉ đến nghe
người giảng hay. Nếu quý vị vẫn kiên trì
đến nghe bất luận pháp sư nào giảng, lâu
ngày chày tháng, chắc chắn quý vị sẽ thâm nhập
được vào dòng đạo lý chân thật. Dù ai giảng đi nữa,
quý vị cũng nên đến nghe để hộ trì cho pháp hội. Nếu
một tuần có giảng pháp bảy đêm thì quý vị cũng
nên tham dự cả bảy đêm. Đừng nên lười
biếng!
Pháp môn này
khó gặp được đã từng hằng triệu kiếp nay
rồi. Một khi đã có duyên được gặp thì phải nên
tinh tấn tu học. Sự tinh tấn chính là “tâm Bồ đề”
kiên cố dõng mãnh vậy.
Nếu bỏ mất
tâm Bồ đề mà mong ngày thành đạo thì không
khác gì nấu cát mà mong thành cơm. Nên trong
Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy:
“Vong thấ Bồ đề tâm, tu chư thiện pháp, thị chư ma nghiệp”.
Nghĩa là: “Bỏ quên tâm Bồ đề dù tu ngàn thiện pháp như làm việ ma vậy”.
Về bất thối, có ba dạng:
- Thứ nhất
là vị bất thối: Nếu hành giả đã chứng quả A
la hán tồi, thì không còn trở lại hàng phàm phu nữa,
Nếu hành giả đã chứng quả Bồ tát rồi thì không còn
rơi lại hàng A la hán nữa. Nếu hành giả đã chứng
đắc quả vị Phật rồi thì không còn trở lại
hàng Bồ tát nữa. Trừ những vị muốn thị
hiện hóa thân để giáo hóa chúng sanh. Ví
dụ như hành giả có thể phát nguyện: “Nay
tôi đã thành tựu quả vị Phật rồi, tôi muốn hiện
thân Tỳ kheo để giáo hóa chúng sanh”. Điều ấy hoàn
toàn đúng.
- Thứ hai là
niệm bất thối: Đôi khi hành giả phát khởi
tâm niệm: “Tu học Phật pháp thật chán, tôi không còn
muốn tu hành hoặc đi giảng pháp gì nữa cả!”. Đây là
niệm thoái thất. Khi hành giả khởi niệm thoái
thất, thì ma chướng liền theo ngay, vì ma
vương rất vui khi người tu hành khởi niệm
lui sụt.
Một khi quý vị đã đạt được “niệm bất thối”, thì càng nghe pháp, càng muốn được nghe nhiều hơn.
Niệm bất
thối là tâm lượng của hành giả không còn bị
trôi lăn trong dòng thức biến “bất giác vọng động nữa”,
không còn trải qua bốn tướng sinh trụ dị diệt của niệm
khởi nữa. Niệm bất thối luôn được lưu xuất
từ Bồ đề tâm, là bạn đồng hành của tâm
kiên cố. Kiên cố là nét đặc trưng của tâm
Bồ đề. Niệm bất thối và tâm kiên cố là nền
tảng của đại nguyện Bồ tát. Niệm bất thối
là niệm mà vô niệm. Vô niệm mà tự niệm “niệm vô
niệm, vô niệm nhi tự niệm”. Niệm này là niệm vi mật
hiện tiền, không thể suy lường. Niệm bất thối luôn
luôn đi với hạnh bất thối.
- Thứ ba là
hạnh bất thối: Nghĩa là thực hành đạo Bồ
tát. Tuy làm mọi việc trong vô số cảnh giới mà không
hề rời bản tâm, rời đại nguyện, rời niệm bất thối.
Niệm Kim cang nguyện, thực hành Kim cang hạnh không
thể nghĩ bàn.
Đứng trên
nhân thừa mà luận, thì hạnh bất thối là sự
hành trì tinh tấn, miên mật với tâm tinh tấn dõng
mãnh hướng tới Phật thừa.
Khi quý vị hành trì Bất thối Kim Luân thủ nhãn ấn pháp, thì
từ nay cho đến khi thành tựu quả vị Phật,
quý vị sẽ không còn thối chuyển. Nhưng quý vị phải
tinh tấn hành trì!
47. Bồ đà dạ - Bồ đà dạ
Câu chú này với câu trước giống nhau, chỉ khác âm giữa Bồ đà dạ. Hán dịch là “trí giả” và “tác giả”.
-
Trí là hiểu biết
chân chính, là trí tuệ.
- Giác là sự tỉnh thức.
Người có được sự hiểu biết chân chính là người đã giác ngộ đích thực và có được trí tuệ.
Đây là Đảnh thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp. Chữ hóa Phật trong Dảnh thượng hóa Phật thủ nhãn ấn pháp chính là “giác giả”.
Vị Bồ tát hành trì thành tựu Đảnh thượng
hóa Phật ấn pháp cũng chính là “trí giả”.
Cơ bản, “trí” và “giác” vốn chẳng khác
nhau.
Giác là sự giác ngộ, là giai đoạn sau của cái biết tròn đầy chân thực (trí).
Tri là cái
biết toàn triệt, là giai đoạn trước của
giác ngộ. Nếu quý vị tu tập Đảnh thượng hóa Phật ấn
pháp thành tựu rồi thì quý vị sẽ là người có trí tuệ
chân chính, là người đã tự mình giác ngộ rồi. Nếu
quý vị tu tập ấn pháp này thì mười phương
chư Phật sẽ liền đến xoa đầu thọ ký cho
quý vị trong tương lai sẽ chứng được quả
vị Phật.
Trong khi
đang niệm Phật hoặc trì chú, hoặc tọa thiền,
hành giả đôi khi có cảm giác là lạ trên đỉnh đầu,
như thể có một loài côn trùng bò quanh đầu vậy,
nhưng khi quý vị lấy tay sờ đầu thì thấy không có gì
lạ. Tôi sẽ nói cho quý vị biết đó là gì. Lúc
ấy, chính chư Phật trong mười phương đến
xoa đầu thọ ký cho quý vị sẽ thành tựu
Phật quả trong tương lai. Nhưng vì quý vị
chưa có được thiên nhĩ thông nên không
nghe được; vì chưa có được thiên nhãn thông
nên quý vị không thấy được. Tuy vậy, chư Phật trong
mười phương thực sự đã rời bổn độ du hành đến đạo
tràng xoa đầu thọ ký cho quý vị. Thế nên nếu quý vị
có phước duyên gặp được, thì đây là một
cảm ứng xuất phát từ công phu hành trì của
quý vị. Nhưng quí vị không được khởi tâm
mê đắm, hay ngã mạn mà nghĩ rằng: “À! Chư Phật vừa đến xoa đầu thọ ký hộ trì cho tôi”.
Nếu quý vị khởi niệm vui mừng hay hãnh diện
vì điều này cũng đều là chấp trước. Dù đây là triệu
chứng tốt lành, mà khi quý vị đã khởi tâm đắm chấp rồi,
thì cũng trở nên xấu.
Trong chương
cuối của Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Đức Phật
trìh bày rất nhiều cảnh giới, tất cả đều là cảm ứng
xuất phát từ nỗ lực dụng công tu hành. Nhưng nếu
hành giả nghĩ rằng mình đã chứng được cảnh giới vi
diệu, thì hành giả trở nên bị chấp trước và
liền lạc vào tà ma ngoại đạo, liền bị ma
chướng. Do vậy, khi tu tập pháp này, quý
vị phải tự an trú trong trạng thái “như
như bất động”. Cho dù có gặp cảnh giới tốt
hoặc xấu, cũng giữ tâm kôhng dao động. Khi tâm không
dao động, là quý vị có được định lực, trí tuệ sẽ
phát sinh. Có trí tuệ chân chính, quý vị sẽ trở
thành “trí giả” và “tác giả”.
48. Di đế rị dạ
Di đế rị dạ.
Hán dịch là “ chánh lượng”. Cũng dịch là “đại lượng”;
nghĩa là số lượng rất nhiều, không đếm được. Còn dịch
là “đại từ bi tâm” nghĩa là tâm từ bi quá rộng
lớn, không có ngằn mé. Tâm từ bi này bảo
hộ che chở cho tất cả mọi loaì chúng sanh
và giúp cho họ được an vui, khiến cho
chúng sanh thể nhập với bản tâm của mình,
thoát khỏi sợ hãi và tránh xa mọi tai ương.
Đây là Tích thượng thủ nhãn ấn pháp.
Trên đầu tích trượng có chín vòng tròn
bằnh đồng. Lúc xưa, người xuất gia đi đâu
cũng mang theo tích trượng. Mỗi khi đi
đường, chín vòng kim loại này sẽ tạo nên âm
thanh, báo động cho các loài côn trùng tránh xa để
khỏi bị dẫm đạp lên mình. Tích trượng là một loại
pháp khí trong Phật giáo. Bồ tát Địa Tạng thường
dùng tích trượng như là chìa khóa để mở cửa
các địa ngục. Vì vậy nên hành giả tu tập
ấn pháp này phải nuôi dưỡng lòng từ bi
rộng lớn, phát nguyện cứu giúp cho toàn
thể mọi loài chúng sanh.
49. Na ra cẩn trì
Na ra cẩn trì.
Hán dịch là “Hiền ái” hoặc là “Hiền thủ” cũng dịch
là “Thiện hộ”, “Thiện đảnh”. Nghĩa là người đứng đầu
trong các bậc Thánh hiền, họ là thượng thủ, là bậc
khó tìm cách bảo bọc, che chở cho chúng
sanh, khéo độ thoát cho chúng sanh đến quả
vị tối cao.
Đây là Bảo bát thủ nhãn ấn pháp.
Cũng gọi là Hồ Bình ấn pháp. Bình nước
này có thể tẩy trừ mọi uế trược ở thế
gian, cứu giúp chúng sanh thoát khỏi bệnh
khổ. Bồ tát tu tập thành tựu ấn pháp này sẽ có năng
lực hộ niệm cho toàn thể chúng sanh. Khi quý vị tu tập
pháp ấn này thành tựu rồi, quý vị sẽ có khả năng
cứu giúp mọi loài chúng sanh, giúp họ ngăn
ngừa được mọi tai ương, chướng nạn. Nên
còn được gọi là “Thiện hộ”, “Thiện đảnh”.
50. Địa lỵ sắt ni na
Địa lỵ sắt ni na. Hán dịch là “Kiên lợi”. Còn có nghĩa là “Kiếm”. Đây là Bảo kiếm thủ nhãn ấn pháp.
Trước đây khi giảng về bốn mươi hai thủ
nhãn ấn pháp, tôi có nói rằng ấn pháp này
có công năng hàng phục mọi loài ly, mỵ,
võng lượng. Khi quý vị utu tập thành tựu ấn pháp này
rồi, tất cả các loài thiên ma ngoại đạo, ly mỵ vọng
lượng đều ngoan ngoãn quy phục bởi vì họ sợ ấn pháp
Bảo kiếm này của hành giả. Ấn pháp này
rất oai hùng. Nếu có loài thiên ma ngoại
đạo nào không tuân phục ấn pháp, hành giả
có thể trừng phạt ngay bằng Bảo kiếm này.
51. Ba da ma na
Ba da ma na
có ba ý: Thứ nhất là “danh văn” nghĩa là tên của
hành giả được lưu truyền khắp mười phương thế giới.
Nghĩa thứ hai là “Hỷ xưng” là mười phương thế giới đều
vui mừng khen ngợi công đức của hành giả.
Thứ ba là “thành danh”, “nhất thiết nghĩa
thành tựu”. Có nghĩa là mọi danh tiếng,
mọi công hạnh đều được thành tựu thật
nghĩa và rốt ráo.
Đây là Bảo tiễn ấn pháp.
Nếu quý vị hành trì ấn pháp này thành tựu
sẽ liền gặp được thiện hữu tri thức.
52. Ta bà ha
Trong chú Đại bi, câu Ta bà ha rất là quan trọng. Câu này được lặp lại đến mười bốn lần.
Ta bà ha. Hán dịch có sáu nghĩa. Bất kỳ chữ này xuất hiện ở bài chú nào cũng có đủ sáu nghĩa này.
Nghĩa thứ
nhất là “thành tựu”. Khi trì niệm câu chú
này, tất cả sở cầu, sở nguyện của hành giả đều được
thành tựu. Nếu quý vị chưa có được sự cảm ứng khi
hành trì, là do vì tâm chưa đạt đến sự chí thành. Nếu
quý vị có tâm chí thành và có niềm tin
kiên cố, thì chắc chắn sẽ được thành tựu.
Nhưng chỉ cần móng khởi một chút tâm niệm
không tin vào chú này, thì không bao giờ
được thành tựu.
Nghĩa thứ
hai là “Cát tường”. Khi hành giả niệm câu
chú này thì mọi sự không tốt lành, đều trở thành tốt
lành như ý. Nhưng quý vị phải có lòng thành tín. Nếu
quý vị có lòng thành tín hoặc nửa tin nửa ngờ khi
trì chú này thì chư Bồ tát đều biết rõ. Vì
thế nếu quý vị muốn mọi việc đều được đến
chỗ thành tựu thì trước hết phải có niềm
tin chắc thật. Ví như khi cha của quý vị
có bệnh, muốn cha mình được khỏi bệnh thì
quý vị phải hết sức thành tâm và chánh tin. Trì tụng
chú này mới có cảm ứng.
Hoặc khi quý vị nghĩ rằng: “Từ lâu mình chưa được gặp người bạn thân. Nay rất muốn gặp anh ta”. Quý vị niệm chú này một cách chí thành, liền gặp bạn ngay. Hoặc quý vị nghĩ: “Ta chẳng có người bạn nào cả, muốn có người bạn tốt”.
Quý vị trì chú này một cách thành tâm và
liên tục, liền có được bạn lành, ngay cả
gặp được thiện tri thức.
Nghĩa thứ ba của Ta bà ha là “viên tịch”.
Khi các vị
Tỳ kheo xả bỏ báo thân hoặc nhập Niết bàn
thì được gọi là “viên tịch”. Nhưng ở đây, chữ “viên
tịch” không có nghĩa là chết. Chẳng phải niệm câu
chú Ta bà ha là để cầu sự viên tịch. Thế thì công dụng của câu chú này là gì?
“Viên tịch”
có nghĩa là “công vô bất viên”. Là công
đức của hành giả hoàn toàn viên mãn; “đức vô bất tịch”
là đức hạnh của hành giả đạt đến mức cao tột cực điểm.
Chỉ có chư Phật và Bồ tát mới biết được công
hạnh rốt ráo tròn đầy ấy chứ hàng phàm phu
không suy lường được.
Nghĩa thứ tư là “tức tai”, nghĩa là mọi tai nạn đều được tiêu trừ.
Nghĩa thứ năm là “tăng ích”, là sự tăng trưởng lợi lạc của hành giả. Khi niệm câu Ta bà ha thì công hạnh đều được tăng trưởng, hành giả sẽ đạt được chỗ lợi lạc an vui.
Nghĩa thứ
sáu của câu này, tôi thiết nghĩ trong quý
vị ít có ai biết được. Vì trước đây tôi chưa từng
nói bao giờ.
Ta bà hà
có nghĩa là “vô trú”. Nghĩa “vô trú” này nằm trong ý
nghĩa của câu “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” trong
Kinh Kim Cang.
“Vô trú” nghĩa là không chấp trước, không vướng mắc hay bám chấp một thứ gì cả.
Tâm vô trú
là không có một niệm chấp trước vào việc
gì cả. Không chấp trước nghĩa là tâm tùy thuận với mọi
việc, thấy mọi việc đều là tốt đẹp. Đây chính là trường
hợp: “Vô vi nhi vô bất vi” (không khởi niệm tác ý nhưng điều gì cũng được thành tựu). Vô trú chính là vô vi theo nghĩa ở trên, và vô vi chính là vô trú.
Khi quý vị
vừa móng khởi lên một niệm tưởng, đừng nên
vướng mắc vào một thứ gì cả, đó là nghĩa thứ sáu
của Ta bà ha. Quý vị đừng nên trụ vào
các niệm tham, sân, si, mạn, nghi. Nếu quý
vị có tất cả các tâm niệm trên thì phải
nhanh chóng hàng phục chúng, chuyển hóa
chúng để tâm mình không còn trụ ở một niệm
nào cả. Hàng phục, chuyển hóa được những
tâm niệm chúng sinh ấy gọi là vô trú. Dùng cái gì để
chinh phục chúng? Dùng Bảo kiếm ấn pháp này để
hàng phục. Quý vị nói rằng tâm quý vị bị đầy
dẫy niệm tham chế ngự. Tôi sẽ dùng Bảo
kiếm này để cắt sạch. Nếu tâm quý vị có
đầy ma oán, tôi cũng sẽ dùng Bảo kiếm này
đuổi sạch. Nếu tâm quý vị bị ma si mê chiếm
đoạt, tôi sẽ dùng kiếm trí tuệ này chặt đứt chúng từng
mảnh.
Tôi sẽ chặt
đứt tất cả các loài ma ấy bằng Bảo kiếm
Kim cang vương này, tức là dùng kiếm Trí tuệ để hàng
phục. Nếu quý vị muốn hàng phục thiên ma ngoại đạo
thì trước hết quý vị phải chuyển hóa được mọi vọng
tưởng của mình. Khi quý vị chuyển hóa được
vọng tưởng trong tâm mình, thì thiên ma
ngoại đạo cũng được hàng phục luôn, cho dù
chúng có muốn đến để quấy phá, chúng cũng
chẳng tìm được cách nào để hãm hại được cả.
Trên đây là sáu nghĩa của Ta bà ha. Bất luận câu chú nào dưới đây có chữ Ta bà ha đều mang đầy đủ sáu nghĩa trên.
53. Tất đà da
54. Ta bà ha
55. Ma ha tất đà da
56. Ta bà ha
Chữ Tất đà da có năm nghĩa: Thứ nhất là “Thành tựu đốn kiết”. Thứ hai là “thành biện”. Thứ ba là “thành lợi”.Thứ tư là “nhất thiết nghĩa thành tựu” và thứ năm là “sở cung xưng tán”.
Thành tựu
đốn kiết nghĩa là khi sử dụng thần chú này,
thì mọi sở cầu, sở nguyện của hành giả liền tức khắc
(đốn) được an lành (kiết), toại nguyện.
Có người hỏi: “Tại sao tôi cũng trì chú Đại Bi, mà không được toại nguyện tức thì”?
Vì sự trì niệm chú Đại Bi đòi hỏi phải có
sự tương ứng từ nỗ lực dụng công. Nếu
không có sự nỗ lực hành trì tương ứng, thì
sẽ không có sự thành tựu. Nếu có sự cảm ứng, dung
thông thì mọi sở cầu, sở nguyện của hành giả đều được
thành tựu.
Tất đà dạ
còn có nghĩa là “thành biện”. Nghĩa là hành giả làm
bất cứ việc gì thì kết quả đều đạt được viên mãn.
Cũng gọi là “thành lợi” là vì mọi việc làm đều được thành tựu lợi ích.
Nhất thiết nghĩa thành tựu có nghĩa là làm bất kỳ việc gì cũng đều được thành tựu.
Sở cung xưng
tán có nghĩa là mọi người đều đến khen
ngợi, cung kính tán dương công đức của hành giả.
Ma ha tất đà dạ. Ai cũng đều biết Ma ha
có nghĩa là lớn. Câu chú này có nghĩa là
hành giả đạt được mọi sự nghiệp to lớn,
thành tựu được công đức thù thắng và đạo
nghiệp viên mãn. Trong mọi việc, hành giả đều đạt
được sự thành tựu viên mãn cao tột.
Cả hai câu chú hợp lại Tất đà dạ ta bà ha Ma ha tất đà dạ ta bà ha là Bảo kinh thủ nhãn ấn pháp.
Bảo Kinh là sự quý giá vô ngàn của Kinh
điển, chính là Pháp bảo. Nếu quý vị tu tập ấn
pháp này thì sẽ đạt được lợi lạc vô cùng vô tận.
Trong tương lai, trí tuệ và sức ghi nhớ của quý vị sẽ
rất tinh anh. Nghĩa là có được khả năng “bác văn
cường ký” – nghe nhiều, nhớ kỹ.
Ký ức của
chúng ta thường hoạt động theo một lối
riêng. Cũng như không thể nào đi nếu không có cây gậy.
Sau khi đọc được điều gì, chúng ta không thể nhớ rõ
ràng hết được. Chỉ khi nào cần cho sự học tập của
mình, chúng ta mới lục lại tìm kiếm hay
tra cứu lại những ghi chép. Tại sao trí
nhớ của mình lại quá kém. Vì quý vị chưa
từng hành trì Bảo kinh thủ nhãn ấn pháp này.
Nếu quý vị hành trì ấn pháp này, quý vị
sẽ đạt được sự hiểu biết thông tuệ và kiến thức
rất đa dạng. Giống như Tôn giả A Nan, là đệ tử đa
văn đệ nhất của đức Phật. Có thể nói Ngài A Nan đã
hành trì Bảo kinh ấn pháp mà chẳng nghi
ngờ gì. Ngài đã thành tựu ấn pháp này từ
vô lượng kiếp rồi, nên khi nghe được điều
gì, thì không còn quên nữa. Ngay cả Ngài
có thể nhớ được những điều Ngài chưa từng
nghe. Tại sao tôi nói như vậy? Vì Tôn giả A Nan ra đời
cùng ngày đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo. Như thế
nên hai mươi năm trước, khi A Nan chưa xuất
gia, thì những bài thuyết pháp của đức
Phật Ngài A Nan chưa được nghe. Thế thì
làm sao A Nan có thể kết tập toàn bộ Kinh
điển sau khi đức Phật nhập Niết bàn? Vì A
Nan được nghe các vị trưởng lão giảng lại những bài
Kinh mà đức Phật đã thuyết từ trước, hoặc chính do đức
Phật giảng lại cho A Nan nghe khi A Nan nhập định
nên A Nan thừa biết rõ nguyên nhân của sự
nhớ giỏi này là nhờ đã hành trì Bảo kinh thủ nhãn ấn pháp thành tựu.
Có người hỏi tôi: “Làm thế nào để có được trí nhớ tốt?” Câu trả lời đơn giản là hãy hành trì Bảo kinh ấn pháp. Những người nhớ được Kinh rõ ràng là có duyên với ấn pháp này.
Ở trong đồ
hình mạn đà la, đây là ấn pháp Bồ tát
phóng quang. Ngài phóng ra hào quang và tay cầm một
tràng phan màu đỏ. Toàn thân Bồ tát phóng ra những
luồng hào quang sáng chói biểu tượng cho sự khai mở
trí tuệ, sự cường ký, trí lực đa văn quảng
kiến và công đức thành tựu viên mãn.
57. Tất đà du nghệ
58. Thất bà ra dạ
59. Ta bà ha
Tất đà. Hán dịch là “thành tựu lợi ích”.
Du nghệ. Hán dịch là “Vô vi” hay còn gọi là “hư không”.
Thất bàn ra dạ. Hán dịch là “Tự tại”. Đây là Bảo hiếp thủ nhãn ấn pháp.
Hành giả thành tựu ấn pháp này có thể sử dụng
lấy tất cả các thứ châu báo ẩn giấu trong lòng đất để
làm lợi ích cho chúng sanh. Ý của câu chú này nói rằng
ở nơi thể tánh mà thường được tự tại và
thành tựu vô lượng công đức.
60. Na ra cẩn trì
61. Ta bà ha
Na ra cẩn trì.
Hán dịch là “ái hộ” nghĩa là thường nỗ
lực bảo bọc che chở tất cả chúng sanh. Câu
chú này cũng mang ý nghĩa đại Từ Bi.
Đây là Bảo bình thủ nhãn ấn pháp.
62. Ma ra na ra
63. Ta bà ha
Ma ra. Hán dịch là “Như ý”
Na ra. Hán dịch là “Tôn thượng”.
Đây là Quyến sách thủ nhãn ấn pháp.
Ấn pháp này có công năng mang lại sự an
vui như ý đến cho hành giả, khiến cho các
thứ bệnh tật, chướng nạn đều được tiêu
trừ.
Quyến sách thủ nhãn ấn pháp
có rất nhiều diệu dụng. Hành giả có thể kết một sợi
dây ngũ sắc rồi hành trì quyến sách ấn pháp vào sợi
dây ấy. Thành tựu rồi thì khi phóng sợi dây này ra,
các loài yêu ma quỷ quái, ly mỵ vọng
lượng đều bị trói chặt. Không thể nào chạy
thoát được. Từ đó sẽ tìm cách giáo hóa
cho các loài ấy hồi tâm hướng thiện. Đây
là diệu dụng của ấn pháp này. Mới xem qua thì có
vẻ bình thường nhưng công năng thật khó lường.
Trong đạo giáo gọi ấn pháp này là “Khổn tiên thằng”.
64. Tất ra tăng a mục khư da
65. Ta bà ha
Tất ra tăng.
Hán dịch là “thành tựu – ái hộ”. Nghĩa là
thường đem hết sức mình để bảo hộ che chở
cho tất cả chúng sanh.
A mục khư da. Hán dịch là “bất không, bất xả”.
Bất không có nghĩa là hữu. Nhưng đây có nghĩa là diệu hữu.
Bất xả có
nghĩa là “Bất xả nhất pháp”. Không từ bỏ một
việc gì, phải thông thạo tất cả các pháp. Nên có câu
kệ:
“Chân như lý thượng bất lập nhất trần.
Phật sự môn trung bất xả nhất pháp”.
Nghĩa là:
“Trên
phương diện bản thể, lý tánh tức chân như, thì
không cần lập một thứ gì nữa cả, dù chỉ là hạt bụi.
Nhưng về mặt sự tướng, có nghĩa là việc hành trì, tu đạo thì không được bỏ qua một pháp nào cả”.
A mục khư da
còn có nghĩa nữa là “ái chúng, hòa hợp”. Nghĩa là
thương yêu, hòa hợp, thường cứu giúp tất cả chúng
sanh.
Câu chú này
còn có nghĩa khác là trong tự tánh của mỗi
chúng sanh đều có đủ tánh tự tại và tánh công đức
thường vẫn tròn đầy.
Đây là Bảo phủ thủ nhãn ấn pháp.
Khi hành trì ấn pháp này thành tựu, hành
giả có thể tránh được nạn tù tội, bất kỳ
nơi đâu, bất kỳ mọi lúc, hành giả đều
không bị vướng phải các chướng nạn về quan quyền nữa.
Quý vị sẽ
hỏi: “Nếu tôi tu tập ấn pháp này, liệu tôi
có thể phạm pháp mà vẫn không bị bỏ tù hay sao?”
Không! Là
Phật tử, quý vị không được phạm pháp. Nếu
quý vị đã thông hiểu Phật pháp và phát tâm tu học Phật
pháp rồi, thì làm gì có chuyện phạm pháp nữa? Còn nếu
quý vị làm chuyện phạm pháp, tất nhiên phải bị
bắt và ở tù.
Tuy nhiên, đôi khi có những người vô tội bị bắt ở tù. Đây là vì họ chưa bao giờ tu tập Bảo phủ thủ nhãn ấn pháp này.
66. Ta bà ma ha a tất đà dạ
67. Ta bà ha
Như quý vị
đã biết, thế giới chúng ta đang sống là
thế giới Ta bà. Ta bà có nghĩa là “kham nhẫn”. Còn
được dịch là “nhẫn ái”. Còn dịch là “Thiện thuyết,
thiện đáo”.
Kham nhẫn có
nghĩa là chúng sanh như chúng ta khó có
thể chịu đựng nổi những sự thống khổ ở cõi giới Ta
bà này.
Nhẫn ái có
nghĩa là chúng sanh thế giới Ta bà này
không những có thể chịu đựng mọi khổ đau mà còn sanh
khởi lòng thương yêu mọi loài nữa.
Thiện
thuyết, thiện đáo nghĩa là, luôn luôn nói lời
tốt đẹp, lợi ích khi ở trong thế giới Ta bà. Cùng
khuyến khích mọi người hiện thân đến ở cõi giới Ta
bà này.
Ma ha là lớn. Đây có nghĩa là pháp Đại thừa, tức là Bồ tát đạo.
A tất đà dạ.
Hán dịch là “vô lượng thành tựu”. Nghĩa
là tu tập pháp Đại thừa của hàng Bồ tát có
công năng đưa hành giả đến bờ bên kia một
cách rốt ráo và thành tựu vô lượng công
đức.
Đây là Bồ đào thủ nhãn ấn pháp.
Khi quý vị tu tập thành tựu ấn pháp này
thì trong miệng hành giả thường có vị ngọt
của nho, còn hơn vị ngọt của đường. Quý
vị hãy chú ý điểm này, trong khi hành trì ấn
pháp này mà thấy trong miệng có vị ngọt nghĩa là bắt
đầu có sự cảm ứng. Khi thành tựu ấn pháp này rồi,
khi quý vị có trồng trọt các loại nông sản, ngũ
cốc, thì sâu bọ côn trùng không thể phá
hoại mùa màng của quý vị. Còn các loại cây
ăn quả như cam, đào, hạnh, lê, … sẽ sinh
trưởng rất nhanh và có vị ngọt khác
thường. Công năng của Bồ đào ấn pháp này rất lớn và sự thành tựu của pháp Đại thừa là vô lượng vô biên.
Tất la tăng a mục khư da.
Ở trong đồ hình mạn đà la là hình ảnh
biểu tượng cho bổn thể của Dược Vương Bồ
tát, người đã dùng vô số phương tiện, dược
liệu để chữa bệnh cho chúng sanh.
Ta bà ma ha a tất đã dạ ta bà ha
là bổn thể của Bồ tát Dược Thượng, người cũng thường
dùng vô số phương thuốc để chữa lành bệnh cho chúng
sanh.
68. Giả kiết ra a tất đà dạ
69. Ta bà ha
Giả kiết ra a tất đà dạ.
Hán dịch là “Kim cang luân”. Còn gọi là
Kim cang Bạt chiết la. Kim cang luân này
có hình tròn nhưng có khác so với Kim cang
luân khác. Câu chú này còn có nghĩa là
“Hàng phục oán ma”. Khi trong tâm luôn luôn
sinh khởi xung khí và bất bình thì gọi là ma. Khi ấy
họ thường phê phán mọi điều. Họ nói “Chư Phật thường
làm những việc sai trái, cho đến hành Bồ tát, A
la hán, chư Thiên, Diêm Vương cũng đều như
thế”. Họ phản đối kịch liệt và hằn học
đối với tất cả mọi điều. “Tất cả đều là tà
vạy”. Họ giống như kẻ cuồng si, chẳng để ý
gì đến pháp luật nữa. Họ luôn xung khắc với
toàn cả thế gian. Trong nhân gian gọi loại người này
là điên cuồng. Trong hàng quỷ thần thì hạng người
này được gọi là Ma. Nộ khí của loài ma oán này
thường xôn g khắp cõi Trời. Nó thường giận
dữ: :Ai cũng đều quá vô lễ với ta!”. Hoặc
nó nói: “Phật hả? Ta sẽ đánh bại ngay. Bồ
tát hay A la hán ta cũng hạ gục luôn. Còn
loài người, ta sẽ ăn thịt hết. Ma quỷ thì
ta sẽ chà nát dưới gót chân. Ta sẽ xé nát thân chúng
ra cho đến chết!” Oán khí loại ma này thật ghê rợn.
Đây là Bạt chiết la thủ nhã ấn pháp.
Với Kim cang luân, hành giả có thể đập
tan các loài thiên ma ngoại đạo, quỷ thần
thành từng mảnh vụn. Bất luận đó là loại
ma nào, nó đều bị thu phục và vâng lời khi
hành giả dùng Kim cang luân để thi hành ấn pháp này.
Ma oán sẽ cung kính đảnh lễ hành giả và thưa: “Con
nguyện quy phục ấn pháp. Nguyện theo mọi quy luật,
không dám xâm hủy”.
Kim cang luân ấn pháp
không những chỉ có công năng hàng phục thiên ma ngoại
đạo, mà còn có công năng phát ra âm thanh chấn động.
Đạo giáo gọi âm thanh này là “Ngũ Lôi Oanh
Đảnh”.
Sấm sét vốn
thường phát sinh từ trên Trời, nhưng các
Đạo sĩ Lão giáo có thể phóng ra tiếng sấm từ lòng
bàn tay khi họ kết một loại ấn gọi là Chưởng tâm lôi.
Tiếng sấm sét vang ra khiến cho thiên ma bị chấn
động, thậm chí còn có thể khiến thịt da nó
bị tan tành từng mảnh.
Khi giảng
Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tôi có nói về một
người bạn thân, có khả năng sử dụng được ấn pháp này.
Khi quý vị hành trì thành tựu ấn pháp này rồi, thì sấm
sét sẽ vang rền khi quý vị sử dụng ấn pháp và
tiếng vang của nó sẽ hàng phục được tất cả
các loài ma oán.
A tất đà dạ.
Hán dịch là “Vô tỷ thành tựu”. Hành giả
trì chú này sẽ được thành tựu công đức rất
lớn; không có gì so sánh được, cho nên
mới khiến cho các loài ma oán đều quy đầu
phục thiện.
70. Ba đà ma yết tất đà dạ
71. Ta bà ha
Ba đà ma. Hán dịch là “Hồng liên hoa”.
Yết tất đà dạ. Hán dịch là “Thiện trắng”.
Hồng liên hoa này là siêu việt tất cả mọi loài và thành tựu vô lượng công đức. Khi quý vị tu tập Hồng liên hoa thủ nhãn ấn pháp
này thành tựu rồi, nếu quý vị muốn sanh ở
cõi Trời thì ước nguyện ấy rất dễ thành
tựu như ý.
72. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ
73. Ta bà ha
Na ra cẩn trì. Hán dịch là “Hiền thủ”.
Hiền là thánh hiền.
Thủ là giữ gìn, canh giữ hộ trì.
Bàn đà ra dạ dịch nghĩa là Quán Thế Âm, Quán Tự Tại.
Đây là Thí vô úy thủ nhãn ấn pháp mà
Bồ tát Quán Thế Âm thường dùng để cứu độ
chúng sanh, giúp cho mọi loài không còn sợ
hãi trong mọi lúc, mọi nơi.
74. Ma bà lợi thắng yết ra da
75. Ta bà ha
Ma bà lợi thắng.
Hán dịch là “Đại dõng”, cũng dịch là “anh
hùng đức”, nghĩa là đức hạnh của bậc đại
anh hùng. Bồ tát Quán Thế Âm cũng được gọi
như thế.
Yết ra da.
Hán dịch là “sinh tánh” hoặc là “bổn
tánh”. Nghĩa là tự tánh bản hữu của chúng
sanh vốn sẵn có đức hạnh của bậc đại anh
hùng. Đức hạnh của đại anh hùng chính là
do hành trì Tổng nhiếp thiên tý thủ nhã ấn pháp,
ấn pháp này có công năng hàng phục mọi loài ma oán
không chỉ ở thế giới này mà khắp cả đại thiên
thế giới.
Hành giả tu
tập ấn pháp này nên biết đây là ấn pháp
quan trọng nhất trong tất cả bốn mươi hai ấn pháp.
Vì khi hành trì ấn pháp này, thì tất cả bốn mươi hai
ấn pháp kia đều có đủ trong ấn pháp này.
Quý vị có thể thắc mắc: “Thế
thì tôi chỉ cần hành trì một ấn pháp này
thôi cũng đủ, chẳng cần hành trì bốn mươi
mốt ấn pháp kia nữa”.
Nếu quý vị
lười biếng thì cứ làm. Nếu không phải là
kẻ lười biếng, thì nên hành trì tất cả bốn mươi hai
ấn pháp. Mặt khác, quý vị muốn làm kẻ lười biếng và
thích tu tập để trở thành một vị Bồ tát lười thì cứ
tu tập ấn pháp cuối cùng này trong bốn
mươi hai ấn pháp kia. Sẽ phải mất khá
nhiều thời gian mới thành tựu được. Tuy
nhiên, vì quý vị là người lười biếng nên
sẽ không được thành tựu sớm là điều hiển nhiên.
Thế nên các pháp đều là bất định. Nếu quý vị không
muốn trở thành một vị Bồ tát lười, quý vị sẽ chẳng bận
tâm thời gian lâu hay mau để tu tập các ấn
pháp này.
76. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da
Câu này đã
được giảng rõ ở phần đầu Kinh văn rồi.
Nhưng có trường hợp quý vị bị quên, nên tôi sẽ giảng
lại lần nữa. Những người tuy có nhớ, nhưng không được
rõ ràng, nghe lại lần này sẽ được rõ thêm. Những
người đã nhớ kỹ rồi, nghe được một lần này
nữa lại càng hiểu sâu hơn.
Nếu tôi
giảng chưa rõ, quý vị cứ hỏi tôi ngay tức khắc,
vì cách tôi giảng Kinh hoàn toàn khác với các Pháp
sư. Tôi không dùng tài liệu hoặc các luận giải.
Nam mô có nghĩa là “Quy y”. Quy y gì? Con xin uy y Tam bảo.
Hắc ra đát na có nghĩa là “bảo”: quý báu.
Đá ra dạ dịch là “Tam”: ba
Toàn câu
nghĩa là con nguyện quy y Tam bảo. Con nguyện
đem cả thân tâm tánh mạng để quy y. Như những Phật tử
tại gia đã quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Đó là
quy y Tam bảo.
Quy y Tam
bảo tức là quy y với toàn thể chư Phật
trong ba đời, khắp cả mười phương, cùng tận hư không
pháp giới. Cũng tức là quy y với tất cả pháp trong
ba đời, mười phương, cùng tận hư không pháp giới.
Cũng chính là đem hết thân tâm tánh mạng quy
y với tất cả các bậc Hiền thánh tăng
trong ba đời, mười phương, cùng tận hư
không pháp giới.
Hư không,
chẳng bao giờ cùng tận. Tất cả các cõi nước
đều nằm trong pháp giới này. Có tất cả mười pháp giới,
trong đó bốn cõi giới của các bậc Thánh Hiền và sáu
cõi giới của chúng sanh phàm phu. Bốn cõi giới
của bậc Hiền Thánh là: Phật, Bồ tát, Thanh
văn, Duyên giác.
Sáu cõi giới phàm phu là: Trời, người, A tu la, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục.
Mười phương
là: Bắc, Đông, Nam, Tây, Đông Bắc, Tây Bắc,
Đông Nam, Tây Nam, đó là tám. Thêm phương trên và
phương dưới tất cả là mười.
Ba đời là
quá khứ, hiện ại, vị lai. Chúng ta quy y với
Phật bảo trong suốt khắp mười phương ba đời. Những lời
đức Phật dạy được gọi là Pháp bảo. Tam tạng Kinh điển
được diễn đạt qua mười hai phần Kinh văn (bộ
Kinh). Tất cả Kinh điển do đức Phật nói
ra được gọi là Pháp bảo. Pháp bảo không
chỉ hiện hữu và lưu hành trong nhân gian
mà còn lưu hành khắp cả hư không và pháp
giới.
Khi nào quý
vị có được ngũ nhãn, lục thông rồi thì quý
vị mới thâm nhập được vào chân Kinh. Có nghĩa là
quý vị đọc được “vô tự chân Kinh”. Trong hư không, bất
kỳ lúc nào thích, quý vị đều đọc được chân kinh mà
không cần hở môi. Lục Tổ đã từng nói:
“Khi mê Pháp Hoa chuyển
Khi ngộ chuyển Pháp Hoa”.
“Vô tự”
không có nghĩa là Kinh không có chữ. Mà
chính là hàng phàm phu không thấy được chữ. Tuy
nhiên, khi quý vị nhìn sâu vào hư không, quý vị có
thể thấy được chư Phật đang tụng Kinh. Một số vị
đang tụng Kinh Pháp Hoa, một số vị đang tụng Kinh
Thủ Lăng Nghiêm và một số vị khác đang
tụng Kinh Hoa Nghiêm. Chư Phật đều đang
tụng Kinh và trì chú như thần chú Thủ Lăng
Nghiêm. Chư Phật luôn luôn hành trì các
thời khóa tụng ấy. Nhờ thế nên Pháp bảo được
hiện hữu và lưu truyền suốt khắp tận hư không pháp
giới.
Chúng ta
cũng quy y Tăng bảo suốt cả ba đời, cùng tận
hư không pháp giới. Thành phần nào tạo thành Hiền
Thánh Tăng? Chính là các đại Bồ tát, các đại A la
hán, các đại Tỳ kheo tăng.
Đá ra dạ
có nghĩa là “tam”: ba. Chúng ta quy y với Tam Bảo
trong suốt mười phương, ba đời cùng tận hư không
pháp giới.
Da có nghĩa là “đảnh lễ”. Là quy y và cung kính đảnh lễ trước Tam Bảo.
77. Nam mô a lị da
Nam mô. Hán dịch là “quy y”.
A lị da.
Hán dịch là “Thánh giả”, cũng có nghĩa là
“Thánh Hiền”. Câu chú này thể hiện sự quy
y với tất cả các Hiền Thánh Tăng.
78. Bà lô kiết đế
Bà lô kiết đế. Hán dịch là “quán”.
79. Thước bàn ra da
Thước bàn ra da. Hán dịch là “tự tại”. Toàn câu Bà lô kiết đế thước bàn ra da có nghĩa là Quán Tự Tại tức là Bồ Tát Quán Thế Âm.
80. Ta bà ha
Bồ tát Quán Tự Tại đã thành tựu tất cả mọi công đức. Ta bà ha có nghĩa là thành tựu công đức vô lượng vô biên.
81. Án tất điện đô
Nay phần
kinh văn của thần chú đã được tụng rồi. Tiếp
theo là phần chân ngôn. Thông thường có chữ Án luôn luôn dẫn đầu cho phần chân ngôn này. Nên chữ Án mang ý nghĩa “dẫn sinh nghĩa”.
Tất nghĩa là “thành tựu”.
Điện đô.
Hán dịch là “ngã giới” là đạo tràng, lãnh
thổ, cương vực của mình đã được kiết giới
thành tựu. Phạm vi kiết đại giới là 800
do tuần (yojanas) và trung giới là 600 do
tuần. Trong phạm vi đã được kiết giới này,
hành giả thường được an lạc và yên tịnh, tất cả mọi
công đức đều được thành tựu và bản nguyện đều được
như ý.
Chẳng hạn
như khi tôi đã kiết giới đạo tràng trong
phạm vi địa hạt San Francisco (Cựu Kim Sơn) thì
trong toàn bộ vùng này sẽ không xảy ra động đất hoặc
những thiên tai khác. Vì các vị hộ pháp, thiện thần
đều phải hộ trì cho nguyện lực của đạo tràng
được thành tựu.
Phạm vi và ý
nghĩa kiết giới lớn làm sao! Một hạt vi
trần cũng rộng lớn bao la rồi. Vì một hạt vi trần của
hành giả là bao hàm vô lượng vi trần vô lượng thế giới,
và vô lượng vi trần trong thế giới cũng chỉ
hàm ẩn trong một vi trần. Vì vậy, nếu một
vi trần hoại diệt thì vô lượng vi trần đều
hoại diệt. Một hạt vi trần tồn tại thì vô
lượng vi trần cũng tồn tại. Đó là sự vi
diệu của sự kiết giới.
82. Mạn đà ra
Mạn đà ra.
Hán dịch là “đạo tràng”, cũng dịch là
“Pháp hội”. Nghĩa là đạo tràng của hành
giả nhất định phải thành tựu. Pháp hội của
hành giả nhất định phải thành tựu.
83. Bạt đà da
Bạt đà da
dịch là “Toại tâm viên mãn”. Chẳng hạn như khi tôi
muốn một vi trần kh6ng hoại thì nó sẽ không hoại. Nếu
tôi muốn tất cả các vi trần không bị tan hoại thì
các vi trần ấy sẽ kết hợp lại với nhau.
Khi tôi niệm Án, tất điện đô mạn đà ra bạt đà da ta bà ha
với tâm nguyện sẽ không có nạn động đất xảy ra ở San
Francisco (Cựu Kim Sơn), hoặc nếu có nạn động đất lớn
thì nạn ấy biến thành nhỏ, nạn nhỏ thì biến
thành không có. Nhờ vậy nên không có nạn
động đất, không có ai sợ hãi. Thế nên gọi
là sự thành tựu. Tùy theo tâm nguyện mà
đều được như ý (toại tâm viên mãn). Nếu
quý vị có niềm tin chí thành, thì thấy rất là màu
nhiệm. Còn nếu quý vị không tin, là vì quý vị chẳng
thích thú gì với những điều mầu nhiệm như trên.
84. Ta bà ha
Ta bà ha
dịch là “thành tựu”. Thành tựu điều gì? Thành tựu mọi
thệ nguyện của hành giả. Bất luận quý vị phát tâm
nguyện gì, quý vị sẽ đạt được như ý khi niệm Án tất điện đô mạn đà ra bạt đà da ta bà ha.
Những vị khi
làm lễ thế phát xuất gia cũng trì niệm
câu chú này. Có nghĩa là ước nguyện việc xuất gia tu
học Phật pháp sẽ được như ý thành tựu viên mãn.
Đến đây thì
Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni và chú Đại Bi đã
được giảng giải xong. Nay tôi cũng đã giảng hết bốn
mươi hai thủ nhãn ấn pháp, đó là phần sau của Kinh Đại
Bi Tâm Đà La Ni. Còn phần sau nữa là khoa nghi
hành trì, là phương pháp tu hành, nay tôi
không nhắc lại nữa.
Năm trước,
một số đệ tử có tâm nguyện được nghe giảng
chú Đại Bi. Đến nay quý vị nghe giảng gần một năm.
Pháp hội này được xem như thành tựu viên mãn.
Tôi nguyện rằng quý vị có phát tâm hành trì điều gì cũng được như ý, tất cả đều được Bạt đà da ta bà ha,
tức là thành tựu viên mãn tâm nguyện của
mình. Mỗi người có sự phát nguyện khác nhau, nên
sự thành tựu cũng không đồng, nhưng đều viên mãn cả.
Nguyện cho
tất cả Phật tử có duyên được nghe Kinh Đại
Bi Tâm Đà La Ni này đều sớm thành tựu quả vị Phật,
vì đây là ước nguyện của những người thâm tín chư Phật.
Một khi quý vị đã chứng được quả vị Phật tức là mọi việc đều “toại tâm mãn nguyện” rồi.
No comments:
Post a Comment