Saturday, June 1, 2013

NIỆM PHẬT CHỈ NAM (1,2)

NIỆM PHẬT CHỈ NAM (1,2)


Tịnh nghiệp đệ tử Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính kết tập

Kinh Ðại Tập dạy: “Ðời Mạt Pháp ức ức người tu hành, hiếm một ai đắc đạo, chỉ có ai nương theo pháp Niệm Phật mới được thoát khỏi sanh tử”.

Ngài Linh Phong bảo: “Trong hết thảy các pháp môn Niệm Phật, tìm lấy pháp giản dị nhất, ổn thỏa, thích đáng nhất, thì không có pháp nào bằng được pháp Tín Nguyện Chuyên Trì Danh Hiệu; chẳng nhọc công quán tưởng, chẳng cần phải tham cứu”.

Thế mà gần đây người niệm Phật thì nhiều, ít kẻ được vãng sanh; đều là do tín nguyện chẳng thiết, tạp tu chẳng chuyên, hoặc cầu phước báo trời, người, nên vẫn cứ luân hồi như cũ!

Ở đây, tôi trích tuyển pháp ngữ của chư Tổ, chẳng chọn lấy những lời bàn luận cao xa về cách tham cứu, quán tưởng, chỉ chọn lấy những lời pháp yếu về cách Trì Danh để hành nhân thường dễ đọc lược qua, hòng khích lệ chính mình tinh tấn; so với việc tham học thiện tri thức thì lại càng thiết thực hơn nữa.

1. Trích yếu lời phán định hai cách tạp tu và chuyên tu Tịnh nghiệp của đại sư Thiện Ðạo đời Ðường

Hỏi:

Vì sao chẳng dạy tu Quán mà chỉ dạy thẳng chuyên xưng niệm danh hiệu?

Ðáp: Chúng sanh chướng nặng, cảnh vi tế mà tâm thì thô phù, thần thức lao chao, nên khó thành tựu pháp Quán. Vì thế, đức Ðại Thánh bi mẫn khuyên ngay nên chuyên xưng danh hiệu, chính là vì danh hiệu dễ xưng, hễ niệm liên tục liền vãng sanh. Nếu có thể niệm niệm liên tục, lấy lúc hết mạng làm hạn thì mười người tu, mười người được vãng sanh, trăm người tu, trăm người được sanh. Vì sao vậy? Do vì không có tạp duyên bên ngoài nên được chánh niệm, vì tương ứng với bổn nguyện của Phật, vì chẳng trái giáo pháp, vì thuận theo lời Phật.

Nếu bỏ chuyên niệm để tu tạp nghiệp thì trong trăm kẻ, hiếm có một hai [người được vãng sanh], trong cả ngàn người, hiếm được ba bốn. Vì sao vậy? Vì tạp duyên loạn động, đánh mất chánh niệm; vì chẳng tương ứng với bổn nguyện của Phật; vì trái nghịch giáo pháp, vì chẳng thuận lời Phật; vì hệ niệm chẳng tương tục; vì tâm chẳng liên tục nghĩ báo ân Phật; vì tuy tu hành mà thường tương ứng với danh lợi; vì ưa gần tạp duyên gây chướng ngại chánh hạnh vãng sanh của mình lẫn người.

Xin hết thảy mọi người hãy khéo tự suy nghĩ. Ði, đứng, nằm, ngồi đều phải chú tâm khắc kỷ, ngày đêm đừng quên. Trong niệm trước vừa mạng chung thì trong niệm sau liền sanh [vào Cực Lạc], vĩnh viễn hưởng pháp lạc vô vi cho đến khi thành Phật, há chẳng phải là vui sướng lắm ư?

Nhận định:

Ấn Quang đại sư nói: “Hòa Thượng Thiện Ðạo là hóa thân của A Di Ðà Phật, Ngài dạy về chuyên tu, nghĩa là: Thân nghiệp chuyên lễ (phàm nhiễu Phật và trong hết thảy mọi nơi, thân chẳng phóng dật đều là thân nghiệp chuyên lễ cả); khẩu nghiệp chuyên xưng (hễ khi nào tụng kinh trì chú mà có thể chí tâm hồi hướng thì đều có thể gọi là chuyên xưng cả); ý nghiệp chuyên niệm thì vãng sanh Tây Phương, trong cả vạn trường hợp chẳng sót trường hợp nào!

Tạp tu nghĩa là kiêm tu nhiều pháp môn và hồi hướng cầu vãng sanh. Do tâm chẳng thuần nhất, nên khó có lợi ích. Ðấy là lời thành thật phát xuất từ miệng vàng, là khuôn phép ngàn xưa chẳng thể thay đổi được!”

Xin các hành nhân hãy một dạ chuyên tu, lấy trọn đời làm hạn để cầu quyết được vãng sanh.

2. Trích yếu sách Vạn Thiện Ðồng Quy của đại sư Vĩnh Minh Diên Thọ đời Tống

* Theo đoạn kinh giảng về chín phẩm vãng sanh trong Quán Kinh thì sở dĩ có sự thăng giáng, phẩm vị thượng, hạ, là vì chẳng ngoài hai tâm sau đây:

a. Một là Ðịnh Tâm như tu Ðịnh, tập Quán.

b. Hai là Chuyên Tâm: Chỉ niệm danh hiệu, dùng các điều lành hỗ trợ, vun bồi; hồi hướng, phát nguyện, nhưng phải trọn đời quy mạng, suốt đời chuyên tu.

Trong lúc nằm, ngồi, thường hướng về phương Tây. Trong lúc đi kinh hành, lễ kính và khi niệm Phật, phát nguyện phải khẩn thiết, siêng gắng, dốc trọn lòng thành, không có niệm gì khác, giống như lúc sắp bị xử chém, hoặc đang trong vòng tù tội, hoặc đang bị oán tặc truy đuổi, hoặc đang bị nước, lửa bức bách, nhất tâm cầu được cứu độ, nguyện thoát nỗi khổ, mau chứng Vô Sanh, rộng độ hàm thức, thiệu long Tam Bảo, thề báo tứ ân. Chí thành như thế, ắt sẽ chẳng luống công!

Nếu như lời nói chẳng tương xứng việc làm, tín lực hời hợt, chẳng có tâm luôn giữ cho niệm niệm tiếp nối, ý nhiều phen gián đoạn; lại toan cậy vào sự tu tập lười biếng như thế mà mong lúc lâm chung được vãng sanh thì chỉ e rằng sẽ bị nghiệp chướng ngăn trở, khó được gặp thiện hữu, bị gió, lửa bức bách, chẳng giữ nổi chánh niệm! Vì sao thế? Lúc hiện tại là nhân, lúc lâm chung là quả. Nhân có chắc thật thì quả mới chẳng hư dối. Nếu muốn được lâm chung mười niệm thành tựu, phải dự bị sẵn phương tiện, tom góp công đức để hồi hướng về lúc đó; niệm niệm chẳng thiếu sót thì lúc ấy mới không luống uổng vậy!

* Hoặc có kẻ hỏi:

Công đức của việc đi kinh hành niệm Phật và ngồi niệm Phật như thế nào?

Ðáp:

Ví như căng buồm đi ngược nước tuy cũng có thể đến nơi được, nhưng so với chuyện thuận nước căng buồm thì biết ngay khó - dễ. Ngồi niệm Phật một câu đã tiêu trừ được tội lỗi trong cả tám mươi ức kiếp thì công đức đi kinh hành niệm Phật còn biết đến đâu? Vì thế có bài kệ rằng:

Kinh hành năm trăm vòng
Niệm Phật một ngàn tiếng
Thường tu hành như thế
Tự thành Phật Tây Phương

Thiền Tịnh Tứ Liệu Giản

Có Thiền, không Tịnh Ðộ
Mười người, chín chần chừ
Nếu ấm cảnh hiện tiền.
Chớp mắt đi theo nó.

Không Thiền, có Tịnh Ðộ
Vạn người tu, vạn đỗ
Chỉ được thấy Di Ðà
Lo chi chẳng khai ngộ.

Có Thiền, có Tịnh Ðộ
Khác nào hổ thêm sừng
Ðời này làm thầy người
Ðời sau thành Phật, Tổ.

Không Thiền, không Tịnh Ðộ
Giường sắt và cột đồng
Muôn kiếp với ngàn đời
Trọn không ai nương dựa

Nhận định:

Ấn Quang đại sư nói: “Có Thiền là tận lực tham cứu, niệm bặt tình mất, thấy tột cùng vẻ mặt sẵn có trước khi được cha mẹ sanh ra, minh tâm kiến tánh.

Có Tịnh Ðộ là chân thật phát Bồ Ðề tâm, sanh lòng tin, phát nguyện, trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây phương.

Nếu như tham Thiền chưa ngộ hoặc ngộ chẳng triệt để,đều chẳng được gọi là ‘có Thiền’.

Nếu niệm Phật mà thiên chấp duy tâm, chẳng có tín nguyện, hoặc có tín nguyện nhưng chẳng chân thành, thiết tha, chỉ hờ hững, lững lờ, hành qua loa cho có; hoặc hành tuy tinh tấn, nhưng tâm mê đắm trần cảnh, hoặc cầu đời sau sẽ sanh trong nhà phú quý, hưởng vui ngũ dục; hoặc cầu sanh lên trời để hưởng vui phước trời; hoặc cầu đời sau xuất gia làm Tăng nghe một ngộ cả ngàn, đắc đại Tổng Trì, hoằng dương pháp đạo, phổ lợi chúng sanh, đều chẳng đáng gọi là ‘có Tịnh Ðộ’ vậy!

Còn bảo kẻ ‘không Thiền, không Tịnh’ là nói đến kẻ vùi đầu tạo nghiệp, chẳng tu thiện pháp thì đúng là lầm lẫn lớn!

Pháp môn vô lượng, nhưng chỉ có Thiền và Tịnh là thích ứng với các căn cơ nhất. Kẻ nào chưa triệt ngộ mà lại chẳng cầu vãng sanh, cứ loay hoay tu đủ các pháp môn khác, chẳng những đã không thể giữ cho Ðịnh và Huệ được cân bằng hòng đoạn Hoặc, chứng Chân; mà lại còn chẳng nương theo Phật lực để đới nghiệp vãng sanh! Ðem công đức tu trì trọn đời mong cảm lấy phước báo trời - người, cậy phước làm ác, sẽ đọa địa ngục; muốn có lại thân người thì đúng là khó nhất trong những sự khó vậy!

Câu “trọn không ai nương dựa” vẫn chỉ là lời nói còn nhẹ lắm do bị hạn cuộc trong âm vận bài kệ đó thôi! Ðại sư (Tổ Vĩnh Minh) sợ cõi đời chẳng hiểu, nên đặc biệt viết bài Liệu Giản này để chỉ dạy đời tương lai’.

Xin các hành nhân chuyên tâm trì danh, cầu sanh Tây Phương thì mới chẳng uổng phí.

Nếu lễ bái thì khuất phục được vô minh, thâm nhập bến Giác, mạng chung vãng sanh, mau chứng Niết Bàn.

No comments:

Post a Comment