LUẬT NHÂN QUẢ ( TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ )
Luật Nhân quả Và các vấn đề tái sinh, số mệnh, cầu an, cầu siêuTrong đời sống hằng ngày, chúng ta có rất nhiều thắc mắc, có nhiều vấn đề cần phải giải quyết, chẳng hạn như là:
1) Luật nhân quả là một lý thuyết của Phật giáo mà tất cả vạn vật
trong vũ trụ đều hoạt động, vận hành theo quy luật đó. Vậy, luật nhân
quả là gì? Luật nhân quả có phải do Đức Phật chế ra, như một số quốc
gia đặt ra luật đi đường chăng?
2) Nếu có luân hồi thì khi
chết rồi một người chỉ tái sanh một người thôi, tại sao thế giới này
ngày xưa thì ít mà nhân loại mỗi ngày thêm đông?
3) Người và thú hoàn toàn khác nhau, làm sao sau khi chết người có thể tái sanh thành thú và thú có thể thành người?
4) Theo luật nhân quả thì ai làm nấy chịu. Tại sao có những việc cha làm con bị ảnh hưởng, hoặc con làm mà cha bị liên can?
5) Nếu "nhân nào quả nấy", tại sao có người cả đời hiền từ mà lại gặp
lắm tai nạn khổ sở, trái lại người hung ác sao vẫn được an lành và nhiều
may mắn?
6) Nếu "nhân nào quả nấy" thì chùa làm lễ cầu an, cầu siêu có đúng với luật nhân quả không?
7) Luật nhân quả và thuyết định mệnh giống nhau hay có gì khác biệt?
Câu hỏi 1:
Luật nhân quả là một lý thuyết của Phật giáo mà tất cả vạn vật trong vũ
trụ đều hoạt động, vận hành theo quy luật đó. Vậy, luật nhân quả là
gì? Luật nhân quả có phải do Đức Phật chế ra, như một số quốc gia đặt
ra luật đi đường chăng?
Luật nhân quả thực ra có trước đạo
Phật. Tuy nhiên, khi Đức Phật thành đạo dưới cội bồ đề, ngài chứng được
tam minh, lục thông, thấy được do nguyên nhân nào con người luân hồi
trong sáu nẽo, thấy được vô lượng kiếp quá khứ, như người đứng trên lầu
cao, nhìn xuống ngã ba, ngã tư, có đông người qua lại.
Do đó,
luật nhân quả được giáo lý của đạo Phật hoàn chỉnh và luôn luôn được đề
cập trong tam tạng kinh điển, cho nên luật nhân quả trở thành lý thuyết
căn bản, là chánh kiến quan trọng trong Phật giáo.
Luật nhân
quả là một chân lý hiển nhiên, luôn luôn đúng trong ba thời: quá khứ,
hiện tại, vị lai, không lệ thuộc thời gian và không gian, áp dụng cho
tất cả mọi sự sự vật vật.
Trong khi các quốc gia đặt ra luật đi
đường chỉ để áp dụng trong phạm vi quốc gia của mình, trong thời hiện
tại mà thôi. Về sau, luật đi đường đó có thể sửa đổi, tu chính cho
thích hợp với sự tiến hóa của xã hội. Quốc gia khác có thể không áp
dụng cùng luật đi đường như vậy, đôi khi còn ngược hẳn lại.
Câu hỏi 2:
Nếu có luân hồi thì khi chết rồi một người chỉ tái sanh một người thôi,
tại sao thế giới này ngày xưa thì ít mà nhân loại mỗi ngày thêm đông?
Thuyết luân hồi tái sanh ảnh hưởng cho tất cả mọi loài chúng sanh
trong sáu cõi: thiên, nhơn, a tu la, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, và
trong tam thiên đại thiên thế giới, chứ không phải chỉ áp dụng cho loài
người ở trên quả địa cầu này mà thôi. Do đó, chúng sanh ở cõi này, thế
giới này có thể tái sanh sang cõi khác và thế giới khác, cho nên số
chúng sanh lên xuống, hay thay đổi ở các cõi là vì vậy.
Câu hỏi 3:
Người và thú hoàn toàn khác nhau, làm sao sau khi chết người có thể tái sanh thành thú và thú có thể thành người?
Người và thú hoàn toàn khác nhau về hình tướng, về nghiệp thức, qua cái
nhìn của thế gian, nhưng qua con mắt trí tuệ của đạo Phật, người hay
thú cũng đều có thân tứ đại bao gồm đất, nước, gió, lửa như nhau, và
nhất là đều có Phật Tánh, có tâm thức.
Sau khi hưởng hết
phước báo, lại tạo tội tạo nghiệp, tức là tạo nghiệp nhân chẳng lành,
con người lãnh nghiệp quả chẳng lành tương ứng, bị đọa vào ba đường khổ:
địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Hoặc sau khi đền trả hết nghiệp báo ba
đường khổ, con người được trở về các cảnh giới thiên, nhơn, a tu la.
Sự tái sanh theo luật nhân quả qua lại trong sáu cõi luân hồi như vậy,
trong kinh sách gọi là: trầm luân sanh tử. Tu tập theo đạo Phật có mục
đích cứu kính là giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi nói trên.
Câu hỏi 4:
Theo luật nhân quả thì ai làm nấy chịu. Tại sao có những việc cha làm con bị ảnh hưởng, hoặc con làm mà cha bị liên can?
Đúng là theo luật nhân quả, ai làm nấy hưởng, ai làm nấy chịu. Đó chính
là sự công bằng tuyệt đối, gọi là biệt nghiệp, tức là nghiệp riêng của
từng người. Nghiệp có ba thứ: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.
Thí dụ như: nhảy cao thì bị gãy cẳng, nói bậy thì bị chúng chửi, nghĩ
bậy thì bị nhức đầu, đó gọi là biệt nghiệp. Thí dụ như: ở hiền thì gặp
lành, nói hiền thì người thương, nghĩ tốt thì bình yên.
Khi
người cha gặp nạn, thì không những người con bị ảnh hưởng, mà cả gia
đình đều chịu khổ sở chung, đó gọi là cộng nghiệp, tức là nghiệp chung
của một số người có liên hệ với nhau về huyết thống, về sắc tộc, về nghề
nghiệp, về địa phương.
Còn người con làm mà người cha bị liên can
cũng chính là cộng nghiệp, hoặc theo luật pháp, người cha không biết dạy
dỗ người con vị thành niên, khi người con làm chuyện phạm pháp thì
người cha phải chịu trách nhiệm liên đới.
Đây là nói về đời
sống hiện tại. Nếu bàn về nhân quả nghiệp báo ba đời thì người này có
thể thiếu nợ người kia, người kia sanh lên làm con trong đời này, tiêu
pha hưởng thụ cho đủ số nợ rồi đi, có khi phá tan sản nghiệp của cha mẹ
nữa!
Câu hỏi 5:
Nếu "nhân nào quả nấy", tại sao có
người cả đời hiền từ mà lại gặp lắm tai nạn khổ sở, trái lại người hung
ác sao vẫn được an lành và nhiều may mắn?
Thường thường, chúng ta
thấy gieo nhân nào thì gặt quả nấy, một cách nhãn tiền. Thí dụ như: sinh
sự thì sự sinh, gieo gió thì gặt bão, ở hiền thì gặp lành, làm thiện
thì hưởng phước. Gieo hột cam ngọt thì gặt quả cam ngọt, gieo hột chanh
chua thì gặt quả chanh chua.
Tuy nhiên, cũng có nhiều người
thắc mắc: Tại sao có người ăn hiền ở lành, tu tâm dưỡng tánh, thường
xuyên đi chùa, hay đi nhà thờ, không làm việc gì bất nhơn thất đức,
nhưng cứ bị nạn, bệnh hoạnliên miên, họa vô đơn chí, xui xẻo dồn dập?
Trái lại, có rất nhiều người, điêu ngoa hung tợn, lừa thầy phản bạn,
làm đủ mọi chuyện tồi tệ, ném đá giấu tay, không chừa bất cứ thủ đoạn,
phương tiện gian manh nào, nhằm đoạt cho bằng được mục đích vị kỷ của
họ, tại sao họ vẫn cứ nhởn nhơ phây phây, bình yên vô sự, ăn nên làm ra,
gặp nhiều may mắn, tậu nhà sắm xe?
Luật nhân quả giải thích được
các việc đó trong ba thời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Có những nguyên
nhân được tạo ra trong quá khứ, kết quả hay hậu quả nhận được trong hiện
tại. Có những nguyên nhân được tạo ra trong hiện tại, kết quả hay hậu
quả nhận được trong vị lai.
Người hiền lành đang gieo nhân
lành trong hiện tại, kết quả tốt chưa kịp đến thì hiện nay phải đền trả
quả báo xấu do nghiệp nhân xấu đã gây tạo trong quá khứ. Khi quả báo xấu
hết rồi, vận xui qua rồi, con người bắt đầu gặp may mắn, gặp vận hên,
gặp số đỏ, gặp quới nhơn, ăn nên làm ra, tiền vô như nước, vạn sự hanh
thông. Do đó, sách có câu: "Hết cơn bỉ cực tới hồi thới lai", chính
nghĩa như vậy.
Những người hiện đời đang gieo nhân ác, tạo tội
tạo nghiệp, hậu quả xấu chưa kịp trổ, nhưng hiện tại đang thụ hưởng
phước báo lành do nghiệp nhân tốt đã gieo trong quá khứ.
Khi
hưởng hết phước báo rồi, con người bắt đầu đền trả nghiệp báo, tai nạn
triền miên, tán gia bại sản, lâm bệnh ngặt nghèo, hay chết thê thảm.
Các vị quốc vương, hay tổng thống bị đảo chánh và ám sát, các tay tài
phiệt bị phá sản phải tự tử, các hoàng gia, công nương, công tử bị bất
đắc kỳ tử trên xa lộ, dưới biển sâu, hay trên núi tuyết, cho thấy rằng
luật nhân quả không chừa bất cứ ai, không có ngoại lệ, không hề sai
chạy!
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:Dục tri tiền thế nhân, đương kim thọ giả thị.Yếu tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị.
Nghĩa là:
Muốn biết kiếp trước mình đã gieo nhân gì,hãy nhìn việc mình thọ nhận
hiện tại.Muốn biết kiếp sau mình sẽ nhận quả nào,hãy nhìn việc mình đang
làm hiện tại.
Nếu hôm nay mình dốt nát nghèo nàn khốn khổ,
gặp tai nạn liên miên, thậm chí chết người, thì đó là quả của cái nhân
tạo ác nghiệp và không biết làm việc phước thiện trước đây. Nếu hôm nay
mình thông minh, đủ ăn đủ mặc, thì đó là quả của cái nhân tu tâm dưỡng
tánh, tích phước tích đức trước đây, nhiều đời và đời này.
Hôm nay mình được bình an là quả của cái nhân mình không tạo sự bất an
cho kẻ khác, dù đó là kẻ thù. Hôm nay mình được hạnh phúc là quả của
cái nhân mình không phá hoại hạnh phúc kẻ khác, dù đó là kẻ thù.
Tùy theo "cái nhân" là hạt giống loại nào, sau khi được gieo xuống đất,
phải chờ đủ "thời tiết nhân duyên",mới gặt hái "cái quả" của nó, có khi
sớm, cũng có khi muộn. Cũng có khi gặt phải quả chanh chua, nhưng có
thể đem bán đi, mua quả cam ngọt.
Đó là trường hợp chúng ta
đã "lỡ" gieo nhân xấu, nhưng nhờ thiện hữu tri thức nhắc nhở, chúng ta
biết phục thiện, quay trở về chánh đạo, chuyển ba nghiệp xấu ác thành ba
nghiệp thiện lành, làm nhiều việc phước đức, tu tâm dưỡng tánh, chúng
ta có thể gặt "quả tốt", hay ít ra cũng giảm bớt được "quả xấu".
Tức là chuyện khó hóa dễ, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không.
Cũng ví như gieo nhân biết tiết kiệm, con người có thể gặt quả giàu có,
hay giảm bớt được nợ xưa đó vậy.
Câu hỏi 6:
Nếu
"nhân nào quả nấy" thì chùa làm lễ cầu an, cầu siêu có đúng với luật
nhân quả không? Ngoài các tính chất triết học, tín ngưỡng, đạo đức, luân
lý, tâm lý, duy thức, Phật giáo cũng là một tôn giáo. Cho nên Phật giáo
cũng có những nghi thức, nghi lễ để truyền bá chánh pháp một cách rộng
rãi trong mọi tầng lớp dân gian.
Dân chúng đông đảo có nhiều
căn cơ trình độ khác nhau. Chư Tổ sư nhận biết điều đó, nên đặt ra rất
nhiều nghi thức, nghi lễ, như là: cầu an, cầu siêu, sám hối, thích hợp
với từng hoàn cảnh, từng trường hợp của mọi người trong dân chúng.
Chẳng hạn như là: trong gia đình có một người lâm trọng bệnh, ngoài
việc cố gắng chữa trị theo y học đông hay tây, thân nhân cần có thêm
niềm tin vững mạnh, để giúp đỡ người bệnh lên tinh thần, bệnh tình chóng
khỏi.
Thân nhân bèn đến chùa mong được quí sư làm lễ cầu
nguyện chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ cho người bệnh chóng bình phục, tai
qua nạn khỏi. Do đó nhà chùa có lễ cầu an để giúp đỡ dân chúng về mặt
tín ngưỡng, trong hoàn cảnh mọi người đang bối rối, để đuợc an tâm phần
nào trong lúc điều trị cơn bệnh.
Nếu chẳng may, trong gia
quyến có người qua đời, thân nhân xót thương đau khổ, tìm đến chùa để
mong được quí sư làm lễ cầu nguyện chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ cho người
mãn phần được vãng sanh về cõi an lành, về cõi tịnh độ.
Do
đó nhà chùa có lễ cầu siêu để giúp đỡ dân chúng về mặt tín ngưỡng, trong
hoàn cảnh mọi người đang bối rối, để được an tâm phần nào trong lúc lo
lắng hậu sự cho thân nhân của mình. Nhân các cơ hội đó, quí sư đem chánh
pháp giảng giải cho dân chúng được thấu rõ về lý nhân quả, về sự vô
thường trên thế gian, nâng cao trình độ hiểu biết chánh pháp cho những
người hữu duyên.
Nhờ nhân lành này, dân chúng được khai ngộ,
có được chánh kiến, đó là cái thấy biết như thật, trở về qui y Tam Bảo,
phát nguyện tu tâm dưỡng tánh, hưởng được quả lành sau đó, được an lạc
và hạnh phúc, được giác ngộ và giải thoát, nhờ công phu tu tập của chính
bản thân.
Tuy nhiên, nhiều khi có những người ngoại đạo,
ngoại đạo nghĩa là: ngoài tâm cầu đạo, khoác màu áo của tu sĩ Phật giáo,
nhưng không có Phật Pháp, chuyên làm nghề thợ tụng, lợi dụng kinh kệ,
lợi dụng lòng mê tín, lợi dụng sự đau khổ trong hoàn cảnh bối rối của
người khác, để kiếm lợi dưỡng mưu sinh, như vậy chẳng ích lợi gì cho
chánh pháp, chẳng ích lợi gì cho dân chúng. Tệ nạn này thực đáng nên
bài trừ!
Tóm lại, các buổi lễ cầu an, cầu siêu trong chùa
hoàn toàn đúng với chánh pháp, áp dụng luật nhân quả một cách khéo léo,
đã được chư vị Tổ sư từ bi đặt ra để hướng dẫn dân chúng bước vào ngưỡng
cửa từ bi của nhà Phật, trong khi và sau khi gặp hoàn cảnh khổ đau
trong đời sống hằng ngày, nhằm truyền bá rộng rãi chánh pháp vào trong
dân gian, đem lại sự bình an trong tâm hồn của mọi người đang sống trên
thế gian đầy dầy sự bất trắc này.
Câu hỏi 7:
Luật
nhân quả và thuyết định mệnh giống nhau hay có gì khác biệt? Thuyết
định mệnh chủ trương con người có một linh hồn cố định và một số mệnh,
hay số mạng, đã được định sẵn, đã được an bài, đã được quyết định, đã
được xếp đặt, do một đấng tối cao, gọi là thượng đế hay tạo hóa hay bất
cứ tên gọi gì khác, và con người phải chịu chấp nhận cái định mạng, định
mệnh sắp sẵn này, không phương né tránh, không có cách gì thay đổi, tất
cả mọi cố gắng hay nỗ lực của con người đều vô ích, vô dụng!
Nếu thuyết định mệnh là đúng sự thực thì con người trở thành tiêu cực,
thụ động, yếu hèn, yên phận, yếm thế, vô trách nhiệm, việc làm nào,
thiện cũng như bất thiện, cũng cho là do ý muốn của thượng đế, và lắm
khi trở nên hung dữ, bạo tàn, bất nhân, để chống lại định mệnh đen tối,
bất công, do tạo hóa áp đặt, an bài, định sẵn, do đó con người tạo tội
tạo nghiệp, và làm cho bản thân và xã hội thêm đau khổ.
Đạo
Phật dạy rằng: chúng sanh chỉ có "tâm thức" luôn luôn thay đổi, mangtheo
"nghiệp báo" từ nhiều kiếp trước. Do dòng nghiệp lực chi phối, dẫn dắt,
trói buộc, lôi cuốn, tâm thức luân hồi sanh ra trên nhân gian này làm
con người.
Nhưng do nghiệp báo khác nhau, cho nên hình tướng mỗi
người khác nhau: đẹp xấu, mạnh yếu, nam nữ, khôn ngu, lớn nhỏ, giàu
nghèo, sang hèn, thậm chí anh chị em trong gia đình cũng khác nhau.
Nếu có ý chí mạnh mẽ, thấu rõ luật nhân quả, thấu hiểu được chân lý,
con người có thể vượt thoát được dòng nghiệp lực này, chuyển hóa được
nghiệp báo này. Trong kinh sách gọi đó là: giác ngộ và giải thoát.
Chẳng hạn như là: con người thường bị tam nghiệp thân khẩu ý sai khiến,
lôi cuốn cho nên gây ra không biết bao nhiêu là sự đau khổ trên thế
gian này cho chính mình và cho những người chung quanh.
Con
người do lòng tham lam đi cướp của giết người, sang đoạt tài sản, giựt
hụi quịt nợ, lập mưu toan tính kế gian, thưa gửi kiện tụng người khác để
đòi tiền bồi thường bạc triệu.
Con người do lòng sân hận đi
trả thù kẻ hãm hại mình bằng các thủ đoạn tàn nhẫn hơn, chửi mắng rủa xả
người khác bằng những lời nói cay độc hơn. Con người do lòng si mê đi
tạo tội tạo nghiệp, gây thù chuốc oán, tạo ra biết bao điều đau khổ cho
người khác.
Nếu con người hiểu rõ, tin sâu luật nhân quả, cộng
thêm ý chí giác ngộ mạnh mẽ, con người có thể dừng nghiệp và chuyển
nghiệp, tức là con người có thể chấm dứt dòng nghiệp lực, chuyển đổi số
mệnh, chuyển hóa cuộc đời khổ đau của mình, tu tập các nghiệp lành, tức
nhiên sẽ gặt các quả báo lành.
Do nghiệp lực quá khứ, con
người sanh ra trên cõi đời này là không thay đổi được, gọi là định
nghiệp, chỉ có điểm này giống với thuyết định mệnh mà thôi. Nhưng sau
khi sanh ra trên cõi đời này, mọi sự việc xảy ra đều tương ứng với nhân
duyên từ trước, đó là nghiệp báo, chứ không phải là số mệnh định sẵn hay
định mệnh.
Luật nhân quả, nhân duyên, hay thuyết nghiệp báo,
thúc đẩy con người luôn luôn sống trong đạo đức, nâng cao giá trị, nhân
phẩm của con người, tránh mọi điều ác, làm mọi điều lành, giữ tâm ý
trong sạch, nếu được hiểu sâu rộng, tường tận và đem thực hành, áp dụng
vào đời sống hằng ngày, chắc chắn sẽ đem lại bao nhiêu điều tốt đẹp cho
bản thân, cho gia đình và xã hội.
Trong sách có câu: "Đức năng
thắng số", nghĩa là: công đức và phước đức do nghiệp nhân lành, có khả
năng thắng, có khả năng chuyển đổi số phận hay vận mệnh của con người,
tức là chuyển đổi nghiệp báo vậy. Vận mệnh của con người bao gồm bốn yếu
tố: thiên mệnh, thời mệnh, địa mệnh và nhân mệnh.
Trong kinh
sách, có ghi trường hợp của Angulimala, vốn là một tên cướp tàn bạo ở
Vương quốc Kosala, nhưng sau khi gặp Phật, được nghe thuyết pháp và
thành tâm ăn năn hối lỗi, cải tà qui chánh, tu hành không bao lâu chứng
được thánh quả.
Nhiều người sanh ra với nghiệp báo thân thể yếu
đuối, trí tuệ kém cỏi, nhưng với ý chí mạnh mẽ, rèn luyện thân thể và
chăm chú học hành cũng có cơ hội trở thành lực sĩ, trở nên các nhà bác
học, các bậc triết gia.
Quá khứ đã qua rồi, không thể thay đổi
được, tương lai thì chưa đến, không nên quá lo lắng, con người hãy sống
trong hiện tại tỉnh giác, nhận chân thiện ác, giữ gìn chánh niệm, hành
động lành, lời nói lành, ý nghĩ lành, đó chính là nghiệp nhân lành, nhất
định nghiệp quả lành chắc chắn sẽ đến với con người ngay trong đời này
và luôn cả đời sau.
Trong kinh sách, Đức Phật dạy: "Mỗi người tùy theo nghiệp của mình tạo ra, mà có được thân phận hạnh phúc hay bất hạnh".
No comments:
Post a Comment