TỨ DIỆU ĐẾ
* * * * * * * *
Bốn chân lý cao cả, là gốc của Phật
giáo, cốt lõi của sự giải thoát.Nội dung kinh nghiệm đầu tiên của Phật
Thích Ca Mâu Ni và cũng là nội dung chính của bài kinh đâu tiên.Kinh Chuyển Pháp Luân.
Một hôm, Đức Phật đang ở tại Kosambi trong rừng cây simsàpa, Ngài nhặt
một ít lá simsàpa đưa lên hỏi: "Này các Tỳ kheo, các ông nghĩ thế nào?Lá
simsàpa ở trong tay ta nhiều hay là ở trong rừng simsàpa nhiều?".
"Bạch Đức Thế Tôn, lá trong tay Thế Tôn quá ít, còn lá trong rừng
simsàpa thì quá nhiều". Phật dạy: "Cũng vậy, này các Tỳ kheo, điều ta
biết thì quá nhiều, nhưng những gì ta dạy cho các ông thì rất ít; nhưng
đó là những gì cần thiết và căn bản cho sự giải thoát. Những gì ta đã
dạy cho các ông?Chính là "Đây là Khổ", "Đây là Khổ tập", "Đây là Khổ
diệt", "Đây là con đường đưa đến Khổ diệt" (Tương Ưng V).
Giáo
lý Tứ đế là nền tảng của hệ thống giáo lý đạo Phật. Ngay sau khi Đức
Phật thành đạo, Ngài đến vườn Nai thuyết pháp cho năm anh em Kiều Trần
Như, những bạn tu khổ hạnh với Ngài trước đây; nội dung bài thuyết giáo
đầu tiên ấy là Tứ diệu đế. Từ đó, xuyên suốt hành trình hoằng hóa của
Ngài, giáo lý Tứ diệu đế được triển khai, mở rộng. Đức Phật nhiều lần
xác định về tầm quan trọng và siêu việt của giáo lý Tứ đế, Ngài dạy:
"Những bậc A La Hán chánh đẳng giác ở trong quá khứ, ở trong tương lai
hay hiện tại, được coi là vị Chánh đẳng giác đúng nghĩa là Chánh đẳng
giác về Bốn thánh đế" (Tương Ưng V).
Mục đích của đạo Phật là
giải thoát mọi đau khổ, vì vậy các pháp môn được thiết lập, mọi nỗ lực
tu tập đều hướng về mục tiêu ấy. Giáo lý Tứ điệu đế được coi là thiện
pháp tối thắng. Ngài Xá Lợi Phất nhận định: "Ví như tất cả dấu chân của
mọi loài động vật đều bị nhiếp trong dấu chân voi, vì dấu chân này lớn
nhất trong tất cả dấu chân. Cũng vậy, chư hiền giả, tất cả các thiện
pháp đều tập trung trong Tứ thánh đế" (Trung Bộ kinh I). Đức Phật cũng
dạy: "Này các Tỳ kheo, nếu có ai nói rằng không cần xây dựng tầng dưới
của ngôi nhà, tôi sẽ xây tầng trên của ngôi nhà, sự kiện này không thể
xảy ra. Cũng vậy, nếu có ai nói rằng không cần giác ngộ Tứ thánh đế, ta
sẽ đoạn diệt khổ đau, sự kiện này không thể xảy ra" (Tương Ưng V).
Cho đến lúc sắp nhập Niết bàn dưới cây sa la song thọ, một lần cuối,
Ngài nhắc lại giáo lý Tứ đế: "Các thầy Tỳ kheo, đối với Bốn chân lý,các
thầy còn hoài nghi chỗ nào thì có thể chất vấn tức khắc, không nên giữ
sự hoài nghi mà không cầu giải đáp" (kinh Di Giáo, Trí Quang dịch).
Như vậy, tầm quan trọng của giáo lý Tứ diệu đế đã được xác định bởi
chính Đức Phật và những đệ tử xuất sắc của Ngài. Trải qua hơn 2.500 năm,
giáo lý Tứ diệu đế vẫn được tất cả các bộ phái Phật giáo, Nguyên thủy
hay Đại thừa, đều xiển dương và hành trì.
B/- Nội dung I- Định nghĩa
Tứ diệu đế là Hán dịch từ chữ Phạn Catvary Aryasatyani. Arya là Diệu,
cao quý, mầu nhiệm; Satya là Đế, là sự thật, là chân lý. Tứ diệu đế còn
được gọi là Tứ chân đế, Tứ thánh đế, Bốn chân lý mầu nhiệm.
1- Khổ đế (Dukkha): là thực trạng đau khổ của con người.
2- Tập đế (Samudaya): là nguồn gốc hay nguyên nhân dẫn đến thực trạng đau khổ.
3- Diệt đế (Nirodha): là sự kết thúc hay sự chấm dứt khổ đau.
4- Đạo đế (Magga): là con đường hay phương pháp thực hành dẫn đến chấm dứt khổ đau.
Giáo lý Tứ diệu đế được nói đến trong các kinh: Đế phân biệt tâm kinh
(Trung Bộ III), kinh Phân biệt thánh đế (Trung A Hàm), kinh Chuyển pháp
luân (Tương Ưng & Tạp A Hàm), và rải rác trong kinh tạng Pàli cũng
như Hán tạng.
II- Nội dung Tứ diệu đế
1)- Khổ đế
(Dukkha): Khổ đau là một thực trạng mà con người cảm nhận từ lúc lọt
lòng mẹ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, không ai phủ nhận điều ấy. Con
người luôn có xu hướng vượt thoát khổ đau, tìm kiếm hạnh phúc, nhưng vì
không hiểu rõ bản chất của khổ đau nên không tìm được lối thoát thực sự;
đôi khi ngược lại, càng tìm kiếm hạnh phúc càng vướng vào khổ đau.
Khổ đế là một chân lý, một sự thực về bản chất cái khổ. Đức Phật dạy:
"Này các Tỳ kheo, sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ,
thương yêu mà biệt ly là khổ, mong cầu mà không được là khổ. Tóm lại,
chấp thủ năm uẩn là khổ" (Tương Ưng V). Như vậy, Khổ có thể chia làm 3
phương diện như sau:
a)- Về phương diện sinh lý: Khổ là một cảm
giác khó chịu, bức xúc, đau đớn. Khi ta bị một gai nhọn đâm buốt bàn
chân hay một hạt cát vào trong mắt khó chịu..., đây là sự bức bách đau
đớn của thể xác. Sự đau đớn của thể xác rất lớn, như Lão Tử nói: "Ngô
hữu đại hoạn do ngô hữu thân" (Có thân nên có khổ). Con người sinh ra đã
vất vả khốn đốn; lớn lên già yếu, bệnh tật khốn khổ vô cùng; và cuối
cùng, cái chết: sự tan rã cuối cùng của thể xác đem đến khổ thọ lớn lao.
b)- Về phương diện tâm lý: Là sự khổ đau do không toại ý, không vừa
lòng v.v... Sự không vừa ý sẽ tạo nên nỗi đau đớn về tâm lý. Những mất
mát, thua thiệt trong cuộc đời làm mình khổ. Người mình thương muốn gần
mà không được, người mình ghét mà cứ gặp gỡ hoài, mình muốn tiền tài,
danh vọng, địa vị nhưng nó cứ vụt qua ngoài tầm tay của mình. Cuộc đời
như muốn trêu ngươi, những ước mơ không toại ý, lòng mình luôn trống
trải, bức bách v.v... Đây là nỗi khổ thuộc về tâm lý.
c)- Khổ
là sự chấp thủ năm uẩn (Upadana-skandhas): Cái khổ thứ ba này bao hàm
hai cái khổ trên, như trong kinh đã dạy: "Chấp thủ năm uẩn là khổ".
Năm uẩn là 5 yếu tố nương tựa vào nhau để tạo thành con người, gồm có:
thân thể vật lý và cấu trúc tâm lý như: cảm giác, niệm tưởng, hành và
thức (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Nói một cách tổng quát, khi ta bám
víu vào 5 yếu tố trên, coi đó là ta, là của ta, là tự ngã của ta, thì sự
khổ đau có mặt. Ý niệm về "thân thể tôi", "tình cảm tôi", "tư tưởng
tôi", "tâm tư tôi", "nhận thức của tôi"... hình thành một cái tôi ham
muốn, vị kỷ; từ đó, mọi khổ đau phát sinh. Mọi khổ đau, lo lắng, sợ hãi,
thất vọng, điên cuồng đều gắn liền với ý niệm về "cái tôi" ấy.
Tóm lại, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc
của hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý. Về mặt bản chất, khổ đau
là do sự chấp thủ, ngã hóa năm uẩn.
2)- Tập đế (Samudaya): Tập
là tích tập, các phiền não tụ hội tạo thành năng lực đưa đến khổ đau;
đây là nguyên nhân, là nguồn gốc của các khổ. Khi nhận thức được bản
chất của khổ một cách rõ ràng, ta mới có thể đi vào con đường đoạn tận
khổ đau (Đạo đế).
Cuộc đời là khổ đau hay không khổ? Câu trả
lời là tùy thuộc vào thái độ tâm lý, cảm thọ và nhận thức của mỗi người;
nguyên nhân của khổ có nguồn gốc sâu xa trong tâm tưởng của con người.
Phật giáo cũng nhìn thấy các nguyên nhân của đau khổ; có cái phát sinh
từ vật chất hay hoàn cảnh xã hội, nhưng nguyên nhân thật sự vẫn là tâm
thức.
Nguyên nhân của khổ thường được các kinh đề cập chính là
tham ái, do tham ái mà chấp thủ, bám víu vào các đối tượng của tham ái.
Sự khao khát về dục lạc sẽ dẫn đến khổ đau, bởi vì lòng khao khát ấy
không bao giờ thỏa mãn.
Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn
chính là vô minh, tức là si mê không thấy rõ bản chất của sự vật hiện
tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi, đều vô thường và chuyển biến,
không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong chúng. Do không thấy
rõ nên sinh tâm tham muốn, ôm giữ lấy các đối tượng lạc thú. Do không
thấy rõ mới lầm tưởng rằng "cái tôi" là quan trọng nhất, là cái có thực
cần phải bám víu, củng cố và thỏa mãn nhu cầu của nó. Nói cách khác, do
vô minh mà có chấp thủ "cái tôi" và "cái của tôi" như thân tôi, tình cảm
tôi, tư tưởng tôi..., người yêu của tôi, tài sản của tôi, sự nghiệp của
tôi... Do những chấp thủ ấy mà có những nỗi thống khổ của cuộc đời.
Tóm lại, chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là
do lòng mình; lòng mình đầy tham lam, chấp thủ, nhận thức sai lầm thì
khổ là chắc chắn. Nói cách khác, do cái nhìn của mỗi người đối với cuộc
đời mà có khổ hay không. Nếu không bị sự chấp ngã và dục vọng vị kỷ hay
phiền não khuấy động, chi phối, ngự trị trong tâm thì cuộc đời đầy an
lạc, hạnh phúc.
3)- Diệt đế (Nirodha): Diệt là chấm dứt, là dập
tắt. Diệt đế là sự chấm dứt hay dập tắt phiền não, nguyên nhân đưa đến
đau khổ và sự chấm dứt khổ đau; cũng có nghĩa là hạnh phúc, an lạc. Diệt
đế đồng nghĩa với Niết bàn (Nirvana/Nibbàna).
Đạo Phật xác
nhận cuộc đời đầy dẫy những đau khổ, đồng thời cũng xác định có một sự
thật khác nữa là an lạc, hạnh phúc. Vì vậy mà có sự tu tập để đạt được
hạnh phúc. Hạnh phúc là gì? Hạnh phúc có các mức độ khác nhau.
a)- Hạnh phúc tương đối: Một khi bạn đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp
thủ, thì những nỗi lo âu, sợ hãi, bất an giảm hẳn, thân tâm của bạn trở
nên thanh thản, đầu óc tỉnh táo; bạn nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản và
rộng lượng hơn. Đó là một hình thức của hạnh phúc. Kinh Trung Bộ có một
ví dụ: Có một người con trai đang yêu một cô gái. Tình cờ, anh ta bắt
gặp cô gái nói chuyện, cười đùa với một chàng trai khác. Tâm hồn của
người con trai đang yêu ấy bị xáo trộn mạnh mẽ, khó chịu, bực bội và đau
khổ. Thời gian sau, người con trai ấy không còn yêu thương cô gái ấy
nữa; lần này, anh ta gặp cô ái ấy đang nói chuyện, cười đùa với những
chàng trai khác, nhưng hình ảnh ấy không làm tâm hồn anh ta đau đớn nữa.
Cũng vậy, nhờ tâm trí không bị chi phối bởi những tư tưởng chấp thủ,
nhờ không bị đun nóng bởi các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng, sợ hãi, mà
tâm ý của bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả năng nhận thức sự vật hiện
tượng sâu sắc và chính xác hơn, bạn tạo nên một phép lạ: thân tâm được
chuyển hóa, thái độ ứng xử của bạn đối với mọi người độ lượng, bao dung
và khiêm tốn; đối với của cải, tài sản, danh vọng trở nên thanh thản
hơn, không còn bị áp lực của nó đè nặng lên trái tim mình. Trên cơ sở
ấy, bạn hưởng thụ đời sống có phẩm chất hơn.
Tóm lại, tùy vào
khả năng giảm thiểu lòng tham, sân và vô minh đến mức độ nào thì đời
sống của bạn sẽ được tăng phần hạnh phúc lên mức độ ấy.
Nếu bạn
phát triển hạnh phúc tinh thần cao hơn bằng cách tu tập thiền định thì
bạn sẽ có sự an lạc tuyệt vời. Đức Phật dạy: "Có người có thể không bị
bệnh về thể xác trong một năm hay có thể đến cả trăm năm, nhưng thật
hiếm có người không bị bệnh về tinh thần, dù chỉ trong một phút". Những
tâm lý được coi là bệnh của tinh thần gồm có 5 trạng thái tâm lý, thường
gọi là 5 triền cái: tham lam, sân hận, hôn trầm ngủ nghỉ, dao động và
hối hận, hoài nghi và do dự. Khi 5 loại tâm lý này có mặt, nó sẽ trói
buộc và ngăn che tâm trí bạn; loại trừ chúng thì tinh thần sẽ sáng tỏ
thanh tịnh và an lạc như mặt trăng thoát khỏi mây che. Các trạng thái
hạnh phúc tinh thần này được gọi là Tứ thiền.
b)- Hạnh phúc
tuyệt đối: Trên nền tảng hạnh phúc tinh thần, bạn phát triển tuệ quán,
hướng tâm đến đoạn trừ toàn bộ phiền não vi tế, thâm sâu, bạn có thể đạt
hạnh phúc tuyệt đối, tối thượng là Niết bàn. Diệt đế chính là Niết bàn.
Niết bàn là sự thanh tịnh, là hạnh phúc tuyệt đối. Đức Phật dạy: "Vô
bệnh lợi tối thắng, Niết bàn lạc tối thắng" (K.Magandiya, TBK II).
Niết bàn còn được diễn tả dưới nhiều danh từ khác nhau, tiêu biểu như:
vô sanh, giải thoát, vô vi, vô lậu, đáo bỉ ngạn, tịch tịnh, chân như,
thực tướng, pháp thân... Niết bàn không phải là đối tượng của tư duy,
khái niệm hay ngôn ngữ. Đây là trạng thái an lạc, hạnh phúc tuyệt đối
khi tâm ý đã vắng mặt tham, sân, si.
Chúng ta thường quan niệm
Niết bàn như một cảnh giới, một cõi nào đó cao cấp hơn cõi người, như là
cõi thiên đường của các tôn giáo khác; đó là một sai lầm lớn. Niết bàn
vượt thoát mọi khái niệm đối đãi về thời gian, không gian, có, không,
lớn, nhỏ... Dù vậy, Niết bàn không phải là hư vô, mà là một thực tại
thanh tịnh, siêu việt, không nằm trong phạm vi phân biệt của ý thức, hay
nói cách khác, không thể nhận thức được Niết bàn khi đang còn tham,
sân, si. Một vị Thiền sư nói: "Hãy nhìn những rặng núi, những con suối
chảy, những rừng cây xanh ngắt đẹp tuyệt vời kia. Khi biết nhìn mọi vật
với một nhãn quan mới, một nhãn quan không bị chi phối bởi tham sân si,
thì cảnh đẹp kia chính là Niết bàn đó ! Niết bàn không phải là một nơi
chốn nào khác biệt với thế gian, một cảnh giới nào mà người ta có thể
tìm đến. Niết bàn chính là ở đây". Đức Phật và các vị Bồ Tát, A La Hán
đã đạt Niết bàn ngay trong đời sống này. Điều đó nghĩa là Niết bàn nằm
ngay trong tầm tay của mỗi người. Biểu hiện của Niết bàn là không còn
tạo nghiệp và không còn tái sinh.
4)- Đạo đế (Magga): Đạo là
con đường, là phương pháp thực hiện để đạt được an lạc, hạnh phúc trong
đời sống hàng ngày hay hạnh phúc tuyệt đối Niết bàn. Như vậy, toàn bộ
giáo lý mà Đức Phật đã dạy đều là Đạo đế, tổng quát và căn bản gồm có 37
pháp, thường gọi là 37 phẩm trợ đạo. Đức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo,
đây là những pháp do ta chứng ngộ và giảng dạy, các con phải khéo học
hỏi, thực chứng tu tập, truyền bá rộng rãi để chánh pháp được trường
tồn, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng
thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài
người. Đó là Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn thần túc, Năm căn, Năm lực,
Bảy Bồ đề phần, Tám thánh đạo phần" (kinh Đại Bát Niết Bàn).
Trong 37 pháp thì Tám thánh đạo được coi là tiêu biểu và căn bản nhất
của Đạo đế. Tám thánh đạo, còn gọi là Tám chánh đạo - con đường chân
chính - có 8 chi phần:
1)- Chánh kiến (Sammà Ditthi): Thấy và
hiểu đúng đắn, nghĩa là nhận thức đúng về đạo đức của cuộc sống, cái nào
là thiện, cái nào là ác. Nhận biết đúng về bản chất của sự vật là vô
thường, vô ngã, duyên sinh. Nhận thức rõ bản chất của khổ, nguyên nhân
của khổ, sự diệt khổ và con đường đưa đến hết khổ.
2)- Chánh tư
duy (Sammà Sankappa): Suy nghĩ đúng đắn, nghĩa là đừng để đầu óc của
mình nghĩ ngợi những vấn đề bất thiện như tham dục, tức tối giận hờn,
bạo động hãm hại... dẫn tư duy của mình hướng về tâm cao thượng như tư
duy về sự buông thả, sự giải thoát, về thương yêu giúp đỡ chúng sinh, về
sự bất bạo động, nhẫn nhục, trầm tĩnh.
3)- Chánh ngữ (Sammà
Vàcà): Ngôn ngữ đúng đắn, nghĩa là không nói những lời đưa đến đau khổ,
chia rẽ, hung bạo, căm thù. Nói những lời lẽ đưa đến xây dựng niềm tin,
đoàn kết hòa hợp, thương yêu và lợi ích.
4)- Chánh nghiệp
(Sammà Kammanta): Hành vi đúng đắn, nghĩa là không có hành vi giết hại,
trộm cướp, hành dâm phi pháp. Thực hành sự thương yêu, cứu giúp, không
ham muốn thú vui bất thiện.
5)- Chánh mạng (Sammà Ajivà): Đời
sống đúng đắn, nghĩa là phương tiện mưu sinh, nghề nghiệp chân chính,
không sống bằng những nghề phi pháp, độc ác, gian xảo.
6)- Chánh tinh tấn (Sammà Vàyàma): Nỗ lực đúng đắn, nghĩa là nỗ lực đoạn trừ điều ác, nỗ lực thực hành điều thiện.
7)- Chánh niệm (Sammà Sati): Nhớ nghĩ đúng đắn, nghĩa là đừng nhớ nghĩ
các pháp bất thiện, đừng để cho các đối tượng bất chính dẫn dắt mình đi
lang thang. An trú tâm ý vào thiện pháp, không quên thiện pháp.
8)- Chánh định (Sammà Samàthi): Tập trung tư tưởng đúng đắn, nghĩa là
đừng để tâm thức bị rối loạn, tập trung tư tưởng làm an tịnh tâm thức
một cách đúng đắn, có hiệu quả phát triển tuệ giác.
Mối quan hệ
giữa các chi phần Bát chánh đạo là không thể phân ly, chi phần này có
trong chi phần kia, cái kia hỗ trợ cho cái này. Tám chánh đạo có thể
chia làm 3 bước là Giới, Định và Tuệ. Giới là Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh mạng; Định là Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định; Tuệ là Chánh
kiến, Chánh tư duy. Xác định Bát chánh đạo là con đường đưa đến giải
thoát, Đức Phật dạy: "Này Subhadda, trong pháp luật nào không có Bát
thánh đạo thì ở đấy không có Tứ quả Sa môn" (kinh Đại Bát Niết bàn, TB
I). Đức Phật dạy thêm: "Nếu những Tỳ kheo sống chân chính (theo Bát
chánh đạo) thì cõi đời này không thiếu vắng những vị A La Hán".
Con đường tu tập của Đạo đế là con đường nỗ lực tự thân của mỗi hành
giả Phật tử; con đường ấy vừa thực tiễn vừa có hiệu quả ngay tại đời
sống này.
III- Tu tập Bốn chân lý
Giáo lý đạo Phật
không phải là một học thuyết, mà là một công trình tu tập, có thực hành
mới biến lý thuyết thành thực tiễn, thành chất liệu sống trong mỗi con
người, như ăn cơm mới no, uống nước mới hết khát. Đó là chỗ khó khăn của
người Phật tử, không thể nhờ cậy vào ai tu giúp cho mình, hoặc ai ban
cho mình được giải thoát, hết khổ.
Trong kinh đưa ra 3 giai
đoạn nhận thức và hành trì đối với Bốn chân lý, thuật ngữ gọi là Tam
chuyển: Thị chuyển, Khuyến chuyển, Chứng chuyển.
1)- Đối với
Khổ đế: Thị chuyển là nhận thức, hay nhận diện cái khổ. Thấy được khổ là
bước đầu tiên; nếu không thấy, không biết thì sẽ không có hành động
diệt khổ. Khuyến chuyển là đi sâu hơn vào bản chất cái khổ, khởi lên ước
muốn đoạn trừ khổ. Chứng chuyển cảm nhận một cách sâu sắc và toàn diện
về bản chất của khổ đau.
2)- Đối với Tập đế: Thị chuyển là nhận
diện nguyên nhân đưa đến đau khổ. Khuyến chuyển là khởi lên ước muốn
đoạn trừ các nguyên nhân ấy. Chứng chuyển là tu tập, nỗ lực để đoạn trừ
chúng.
3)- Đối với Diệt đế: Thị chuyển là nhận thức được sự
vắng mặt của đau khổ là hạnh phúc, là không có đau khổ, ta phải thấy
điều ấy. Khuyến chuyển là khởi lên ước muốn được hạnh phúc, hưởng được
niềm vui, thanh thản an lạc của đời sống. Chứng chuyển là đạt được,
hưởng thụ thật sự trạng thái an lạc ấy.
4)- Đối với Đạo đế: Thị
chuyển là nhìn thấy con đường, thấy được phương pháp diệt khổ, thấy rõ
rằng đây là con đường đưa đến giải thoát; nói cách khác, thấy được lối
thoát ! Khuyến chuyển là khởi lên ước muốn đi trên con đường ấy, khởi
hành trên lộ trình ấy. Chứng chuyển là đi trên con đường ấy một cách
trọn vẹn.
Tóm lại, đối với mỗi chân lý,chúng ta đều phải nhận
thức rõ ràng. Từ nhận thức thông suốt sẽ dẫn đến ước muốn hành động, và
cuối cùng đạt được mục đích. Chúng ta phải thấy rõ diễn biến của hành
vi, ngôn ngữ và tư duy của chính mình, cái nào có đau khổ, gây ra đau
khổ, ta phải nhận diện và diệt trừ chúng; ta chuyển hóa nó để hưởng được
niềm an bình hạnh phúc của Diệt đế. Hạnh phúc hay đau khổ đều xuất phát
từ nơi thân tâm của chúng ta.
(Trích bài giảng của Hòa Thượng Thích Viên Giác.)
No comments:
Post a Comment